Tác giả: andynguyen

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 03.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 03.5.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 03.05.2015.

1. Đề tài: CHIẾU SÁNG CHO NGƯỜI.

2. Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 5:14-16.

3. Câu gốc: “Sự sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời” (Mat 5:16).

4. Đố Kinh Thánh: Đố theo chủ đề.

5. Thể loại: Họp bạn – Đố Kinh Thánh.

* CHỈ DẪN: Họp bạn.

1. Tham dự: Mời một hay nhiều ban phụ nữ của các Hội Thánh tham dự họp bạn.

2. Chương trình: Nhiều tuần trước ngày họp bạn, mời đại diện các ban phụ nữ họp lại để cùng hoạch định chương trình và phân chia công tác:

– Thời gian, địa điểm, chủ đề, câu gốc, thể loại thực hiện…

– Phân chia trách nhiệm cho từng ban: Tập hát, làm chứng, đố Kinh Thánh, phần thưởng, sinh hoạt, hướng dẫn chương trình, ẩm thực… Mỗi ban chịu một số tiết mục, nên mời một người soạn và đố Kinh Thánh.

3. Tiết mục: Các tiết mục nên có trong ngày họp bạn là: Bài ca mới, ca ngợi và cảm tạ, đố vui, kịch, trò chơi lớn…

4. Bảng tên: Dự kiến số người tham dự và số người cho mỗi nhóm để chuẩn bị các màu giấy thích hợp cho việc chia nhóm, mỗi màu là một nhóm. Bảng tên phải ghi rõ tên và Hội Thánh, để mọi người dễ làm quen. Sau đó mỗi nhóm cử một trưởng nhóm, một thư ký nhóm điều khiển nhóm mình tham gia trò chơi và sinh hoạt.

5. Phần thưởng: Phần thưởng cho sinh hoạt nhóm phải sử dụng phù hợp cho giờ thông công sau đó.

* CHỈ DẪN: Đố Kinh Thánh.

Họp bạn kỳ này đúng vào dịp đầu năm mới âm lịch, người đố Kinh Thánh nên soạn câu đố theo đề tài năm mới, nội dung phải phù hợp với trình độ của ban viên, nếu không đủ Kinh Thánh thì đố theo trí nhớ (xem cách đố Kinh Thánh trong “Phương Pháp Tổ Chức Các Ban Ngành Trong Hội Thánh”).

1. Mỗi ban phụ nữ nên cử ra một đại diện tham gia ban giám khảo. Các giám khảo phải có đáp án trước để việc chấm điểm được chính xác và công bằng.

2. Mỗi câu trả lời đúng được 10 điểm, sai bị trừ 5 điểm. Sau đó tổng kết và phát thưởng.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

TRÀ.

– Giữ trà thơm lâu.

Không cho trà tiếp xúc với ánh sáng. Hãy cho trà vào hộp thiếc có lót giấy hoặc lọ bằng sành sứ. Nếu cho vào lọ thủy tinh, nó sẽ mất thơm.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 28.06.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 28.06.2015

in NAM GIỚI on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 28.06.2015.

1. Đề tài: LỄ KỶ NIỆM 104 NĂM TIN LÀNH ĐẾN VIỆT NAM.

2. Kinh Thánh: Ê-phê-sô 1:3-14.

3. Câu gốc: “Hãy nhớ những người dắt dẫn mình, đã truyền đạo Đức Chúa Trời cho mình; hãy nghĩ xem sự cuối cùng đời họ là thể nào, và học đòi đức tin họ” (Hêb 13:7).

4. Đố Kinh Thánh: Gióp 1-4.

5. Thể loại: Thuyết trình.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 25.01.2015.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Sơ lược tiểu sử Mục sư A.B. Simpson, sáng lập viên Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp.

Tấn sĩ Albert Benjamin Simpson là một mục sư Gia Nã Đại, sinh ngày 18 tháng 12 năm 1843 tại tỉnh Prince Edward, Island. Ông tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa của mình năm 14 tuổi. Ông vâng theo tiếng Chúa gọi dâng mình cho chức vụ thánh nên đã vào trường cao đẳng Thần học Toronto để học Lời Chúa và tốt nghiệp năm 1865. Dầu chỉ mới 21 tuổi, ông đã được phong chức Mục sư và chăn bầy chiên của Chúa tại chi hội Hamilton (Ontario) là một Hội Thánh lớn nhất thời bấy giờ ở Gia Nã Đại.

Trong thời gian 9 năm phục vụ Chúa ở chi hội này dầu không có dịp tổ chức một chiến dịch truyền giảng nào cả, nhưng Hội Thánh ông tăng thêm 750 tín hữu. Sau đó chi hội Louisville ở Kentucky mời ông. Sau khi đã hầu việc Chúa ở đây một thời gian đem lại nhiều thành tích vẻ vang cho nhà Chúa, có một chi hội lớn hơn nữa ở Nữu Ước mời ông và ông nhận lời đến phục vụ Chúa tại Hội Thánh ấy năm 1879. Dầu hầu việc Chúa giữa một Hội Thánh sang trọng, giàu có và cũng thâu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp nhưng lòng ông chưa thỏa mãn. Chúa đã đặt khải tượng truyền giáo trong tâm hồn ông. Trong một khải tượng, Chúa đã cho ông thấy vô số người đang đau khổ, thất vọng, nửa sống, nửa chết. Họ rên siết kêu ông mau mau đến cứu giúp họ. Ông đã quỳ gối bên giường và đã hứa nguyện với Chúa sẽ vâng theo sứ mạng Ngài.

Ông luôn nghĩ cách đem Tin Lành cho các quốc gia, các dân tộc xa xôi trên thế giới. Vì vậy, sau hai năm hầu việc Chúa ở Nữu Ước, vào tháng 11 năm 1881, ông từ chức Mục sư chi hội này và ra khỏi Hội Thánh Trưởng Lão để bắt đầu một chức vụ hoàn toàn theo sự điều khiển của Đức Chúa Trời.

Từ bỏ một phụ cấp thường niên 5.000 mỹ kim để bắt đầu một chức vụ hoàn toàn bởi đức tin với một gia đình bảy miệng ăn giữa một đô thị rộng lớn như Nữu Ước, không nơi trú ngụ, không một xu dính túi thì không phải là dễ. Sau buổi giảng đầu tiên tại một phòng diễn thuyết đã có bảy người tin Chúa và gia nhập phong trào của ông. Kể từ 7 người nhảy lên 32 người và với số 32 tín đồ, ông tổ chức một Hội Thánh trong năm 1882. Nhưng không bao lâu, Hội Thánh của ông phải thay đổi chỗ nhóm nhiều lần như dân Do Thái lưu lạc trong đồng vắng khi xưa. Vào năm 1889, Hội Thánh ông tìm được một địa điểm xứng hiệp nên đã xây một Nhà Thờ mang tên “The New York Gospel Tabernacle”. Nhà thờ ấy được khánh thành vào năm 1890 và được Chúa bảo quản dùng làm trung tâm truyền giáo cho đến ngày nay. Cũng trong năm ấy, Hội Thánh hoàn thành một bệnh xá để cứu giúp bệnh nhân. Ông cũng rất quan tâm đến công tác truyền giảng Tin Lành cho những người bình dân. Năm 1885, ông đã tổ chức nhiều ban chứng đạo đem Tin Lành cứu vớt những phần tử bần cùng trụy lạc, bị xã hội ruồng bỏ. Ông nhận thức được địa vị quan trọng của phụ nữ Tin Lành trong xã hội và trong Hội Thánh. Bởi vậy ông tổ chức các ban thanh niên, thiếu nhi và phụ nữ Tin Lành. Ông cũng rất cảm thương số phận bơ vơ của các cô nhi nên đã mở một cô nhi viện. Là một Mục sư năng động, ông thường đi nhiều nơi để phân phát Lời Đức Chúa Trời và cổ động cho công cuộc truyền giáo. Ông sốt sắng tổ chức nhiều hội đồng và các chiến dịch giảng Tin Lành. Chúa luôn luôn đổ phước lớn, và ban cho ông nhiều kết quả lạ lùng. Ông nhận biết rằng, muốn công việc nhà Chúa mở mang và tiến triển thì phải huấn luyện cho thật nhiều “tay đánh lưới người”. Quả thật, Mục sư A. B. Simpson là một nhà giáo dục Tin Lành đầy kinh nghiệm. Theo sáng kiến của ông, vào năm 1883, một trường Cao đẳng huấn luyện giáo sĩ được thiết lập ở Nyack cách thành phố Nữu Ước 25 dặm. Khoá thứ nhất của trường chỉ có 12 sinh viên và 2 giáo sư. Nhưng nay trường này là một trường Cao đẳng Thần học rất lớn.

Tấn sĩ A. B. Simpson cũng là một nhà văn Tin Lành có biệt tài, một thi sĩ nổi tiếng. Ông đã xuất bản nhiều sách giải nghĩa Kinh Thánh, sách bồi linh, bài giảng rất linh động. Nhiều bài thi ca, thánh ca được tuôn ra từ ngòi bút của ông làm rung động nhiều tâm hồn. Ông đã sáng lập tờ tuần báo “The Alliance Weekly”. Trải qua nhiều năm, tờ báo này là cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Truyền Giáo Phước âm Liên hiệp với nhiệm vụ thông tin và giãi bày Lời Chúa rất linh động.

Tấn sĩ A. B. Simpson là người đã lập ước với Chúa, người có một sứ mạng và đầy ân tứ như chúng ta đã biết, nhưng ông cũng là một người có khải tượng. Phải, ông là người có một khải tượng truyền giáo.

Gánh nặng truyền giáo đè trĩu hai vai ông. Ông cầu nguyện, dâng tiền cho công cuộc truyền giáo để gởi giáo sĩ đi truyền giáo ở các miền xa xăm. Đó là mục tiêu của chức vụ ông. Đó là sứ mạng của chức vụ ông. Ông từ bỏ Hội Thánh giàu sang, từ bỏ phụ cấp đầy đủ, từ bỏ mọi sự chỉ vì sứ mạng ấy. Tâm hồn ông ca khúc khải hoàn khi Chúa là Đức Chúa Trời thành tín đã vùa giúp ông thực hiện được điều Ngài đã truyền phán với ông, cho ông lập được Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp vào năm 1897. Hội được thành lập theo ý Chúa và được Chúa đại dụng đem Tin Lành chiếu rọi nhiều quốc gia và nhiều dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Ngày 28 tháng 10 năm 1919 Tấn sĩ ngồi dưới hiên nhà mình và tiếp chuyện giáo sĩ Jude Clark ở Jamaica mới về. Tấn sĩ chuyện trò rất thân mật với giáo sĩ và tha thiết hiệp nguyện với ông. Sau khi giáo sĩ Clark từ giã, Tấn sĩ thình lình ngã ra bất tỉnh. Sáng hôm sau, đẹp ý Chúa, linh hồn Tấn sĩ đi về nước sáng láng.

Sau bốn lễ truy niệm Tấn sĩ, Hội Thánh quàn tạm quan tài ông trong một nhà mồ ở nghĩa địa Woodlawn Cemetery. Đến ngày 21 tháng 5 năm 1920, khi Hội đồng thường niên của Hội bế mạc, các đại biểu chở quan tài của Tấn sĩ về cử hành lễ an táng tại khuôn viên của giáo hội.

Mục sư Tấn sĩ A. B. Simpson, người nhận được khải tượng truyền giáo từ Chúa, người đã triệt để vâng theo tiếng Chúa gọi, đó là người Đức Chúa Trời đã dùng đem Tin Lành truyền sang Việt Nam, và chẳng những Việt Nam thôi mà cả mấy chục nước trên thế giới nữa.

Quả thật Đức Chúa Trời đã dùng một người. Hôm nay Đức Chúa Trời vẫn cần một người. Ngài đang kiếm người ấy. Người ấy là ai? Đó có thể là các bạn và tôi, miễn là chúng ta hoàn toàn phó dâng đời sống mình cho Ngài.

 

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 21.06.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 21.06.2015

in NAM GIỚI on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 21.06.2015.

1. Đề tài: NHỮNG THẮC MẮC TRONG ĐỜI SỐNG.

2. Kinh Thánh: 1Sa-mu-ên 28.

3. Câu gốc: “Mây tan ra và đi mất thể nào, người xuống âm phủ không hề trở lên cũng thể ấy. Họ không hề trở về nhà mình nữa, và xứ sở người chẳng còn biết người” (Gióp 7:9-10).

4. Đố Kinh Thánh: Ê-xơ-tê 5-10.

5. Thể loại: Giải đáp thắc mắc.

* CHỈ DẪN: Giải đáp thắc mắc.

1. Mời người giải đáp thắc mắc.

2. Thông báo đề tài cho các ban viên trước hai tuần.

3. Ban hướng dẫn tìm hiểu các ban viên, thảo luận và đưa ra những câu hỏi thiết thực vì có nhiều người e ngại không dám hỏi.

4. Người đặc trách sẽ đọc lên từng câu hỏi và trả lời. Sau đó cho ban viên được góp ý hoặc hỏi thêm.

Sau đây là một đề tài về giáo lý để quý vị có thể tham khảo hoặc sử dụng nếu thích hợp cho Hội Thánh.

– Hỏi: Xin giải thích thế nào về việc Sa-mu-ên hiện hồn về gặp Sau-lơ? (1Sam 28:11-12).

– Đáp: Việc Sa-mu-ên hiện hồn về có ba quan điểm giải thích khác nhau:

– Ý kiến thứ nhất cho rằng, Đức Chúa Trời thật sự cho phép Sa-mu-ên về nói chuyện với Sau-lơ. Đức Chúa Trời có quyền cho tiên tri Sa-mu-ên trở về dương thế, nhưng trong câu chuyện trên chúng ta không nghĩ Đức Chúa Trời làm như vậy; vì việc làm nầy đã qua sự trung gian của một bà bóng. Đồng bóng, tà thuật, bói khoa là những việc gớm ghiếc và Ngài ra lịnh phải tiêu diệt. Nếu chúng ta nghĩ rằng Đức Chúa Trời cho phép tiên tri Samuên trở về qua trung gian của bà bóng là vô tình chúng ta cho rằng Chúa hợp tác với ma quỉ và Đức Chúa Trời đã tự mâu thuẫn với chính Ngài. Quan điểm trên không phù hợp với bản tính và quyền tể trị của Đức Chúa Trời. Hơn nữa, Đức Chúa Trời đã không trả lời với Saulơ qua các tiên tri, qua các chiêm bao (1Sa 28:6) thì chắc chắn không thể nào chỉ vì bùa phép hay yêu cầu của bà bóng mà Ngài phải cho Sa-mu-ên về nói chuyện với Saulơ. Do đó ý kiến trên thật sự không đứng vững.

– Ý kiến thứ hai là ma quỉ giả Sa-mu-ên hiện hình lên nói với Sau-lơ. Ma quỉ có thể giả dạng làm thiên sứ sáng láng (2Côr 11:14) và trong ngày sau rốt sai người giả dạng Chúa Giê-xu (Mat 24:23) để gạt con cái Chúa thì việc ma quỉ giả dạng Samuên để gạt Sau-lơ là điều không có gì đáng ngạc nhiên. Ma quỉ biết Sau-lơ không vâng lời Chúa và ma quỉ cũng biết Đức Chúa Trời tuyên bố hủy diệt Sau-lơ nên đã mượn phương tiện nầy để tiếp xúc với Sau-lơ.

Mặc dầu những lời nói của ma quỉ xảy ra đúng sự thật, nhưng chúng ta phải thận trọng vì “những sự thật” này không hoàn toàn trung thực về bản chất. Sự thật mà ma quỉ dùng báo trước ở đây cũng giống như những cách mà ma quỉ đã nói với bà Ê-va rằng bà sẽ không chết. Ê-va đã không ngã lăn ra chết khi ăn trái cấm nhưng sự thật kể từ đó cả dòng dõi loài người đã chết vì xa cách Chúa.

“Ngày mai ngươi và các con trai ngươi sẽ ở một nơi với ta” (1Sam 28:19).Nếu ma quỉ nói câu này, thì đây là một lời châm biếm chua cay dành cho Sau-lơ. Sau-lơ và một số con trai ông sau khi chết không về Thiên đàng với Samuên nhưng về địa ngục với sa-tan.

Thánh Kinh Tân Ước cho chúng ta biết một người thật lòng tin nhận Chúa thì Thánh Linh của Chúa ấn chứng trong lòng người đó rằng người ấy thật là con cái Đức Chúa Trời (Rô 8:16). Sự xác nhận của Thánh Linh chính là ấn chứng có hiệu lực để một người tin Chúa thật sự vào nước Thiên đàng. Chúng ta biết khi Sau-lơ còn sống, ông làm buồn lòng Chúa nên Thánh Linh Ngài đã lìa khỏi ông (1Sam 16:14) và nhiều lần ác thần nhập vào đời sống của ông (1Sam 16:23). Vì Sau-lơ cứ lún sâu vào con đường tội lỗi, nên khi còn sống, tiên tri Sa-mu-ên cũng đã không muốn nhìn mặt Sau-lơ (1Sam 15:35). Sau-lơ đã bị Chúa từ bỏ và phó cho ma quỉ rồi (1Sam 16:23) cho nên ma quỉ nói Sau-lơ khi chết về cùng nó thì đó không phải là điều ngạc nhiên.

Tuy nhiên, chúng ta tin rằng trong số những người con cùng đi với Sau-lơ chắc không có Giô-na-than. Dầu thiếu Giô-na-than thì ma quỉ vẫn đúng vì nó không nói tất cả các con trai của Sau-lơ mà chỉ nói “các con trai”. Bản tính xảo quyệt của ma quỉ là như thế.

Bằng cách giả Sa-mu-ên hiện hồn về, ma quỉ đã thực hiện được nhiều việc khác nhau. Sau sự việc nầy, ma quỉ làm cho nhiều người trong dân Y-sơ-ra-ên tiếp tục tin vào đồng bóng vì thấy có linh nghiệm. Đây là một phương kế thâm độc của ma quỉ muốn tìm cách khôi phục lại sự thờ hình tượng và mê tín trong dân Y-sơ-ra-ên khi ấy gần như bị tuyệt diệt. Sau-lơ trong những năm tháng theo Chúa đã sốt sắng tận diệt sự thờ hình tượng (1Sam 28:9), nhưng rất tiếc, Sau-lơ trên đường sa ngã đã vô tình làm công cụ cho ma quỉ lợi dụng khôi phục lại những gì mà ông đã đánh đổ đi. Đây là một bài học đau thương cho mỗi đời sống chúng ta.

– Ý kiến thứ ba, không có ma quỉ giả dạng, tiên tri Sa-mu-ên không có hiện hồn về nhưng bà bóng dựng toàn bộ câu chuyện. Khả năng nầy có thể xảy ra.

Như bao nhiêu thầy bói, đồng bóng “tài giỏi” khác, bà bóng tại Ên-đô-rơ là một nhà tâm lý xuất sắc. Khi biết vị khách muốn gặp Sa-mu-ên bà biết ngay người đi coi đồng bóng đó không ai khác là Sau-lơ.

Sa-mu-ên là một người thánh của Đức Chúa Trời. Chắc chắn vào thời đó ai cũng biết không thể tìm cầu người thánh của Chúa qua phương tiện bói toán, cầu vong. Nhưng người nào tìm Sa-mu-ên qua phương tiện này, thì người đó phải từng được tiếp xúc gần gũi với
Sa-mu-ên trước kia, và bây giờ phải ở trong tâm trạng rất tuyệt vọng muốn gặp người thánh của Chúa nên mới mê muội đến với bà. Dựa vào những dữ kiện trên bà bóng biết người đối diện không ai khác là Sau-lơ, người đang bị Chúa từ bỏ mà cả Y-sơ-ra-ên đều biết.

Khi được Sau-lơ xác nhận, bà bóng đã dựng lên một sứ điệp dựa vào những dữ kiện trong quá khứ và khả năng của sự việc có thể xảy ra. Ngày mai phải đối diện với quân thù thật hùng mạnh mà trong đêm nay vị chủ tướng lại trong tình trạng kiệt sức cả tinh thần lẫn thể chất thì bà bóng đoán cho Sau-lơ một cái chết là một việc hoàn toàn hữu lý. Khi Sau-lơ, vị vua và là vị dõng tướng của Y-sơ-ra-ên chết, dân Y-sơ-ra-ên cũng thất trận và một vài người con của ông có thể tử trận là một việc hoàn toàn có thể xảy ra. Giả dụ các con Sau-lơ không chết thì cũng chẳng sao vì ngoài bà và Sau-lơ không ai biết lời tiên đoán đó. Kết cuộc diễn biến đã xảy ra đúng như lời bà bóng “tài giỏi” nầy.

Tóm lại, chúng ta tin Lời Chúa dạy rằng linh hồn người chết không quay trở lại cõi sống (Gióp 7:9-10; 2Sa 12:23). Người tin Chúa, khi qua đời linh hồn họ trở về ngay với Chúa; còn người chưa tin Chúa, linh hồn họ được về ở một nơi do Chúa sắp đặt để chờ ngày phán xét (Lu-ca 16:19-31).

Là con cái Chúa, chúng ta phải suy xét theo lời Chúa dạy để hiểu được những công việc lừa dối của ma quỉ. Nếu nhận ra được vấn đề, chúng ta sẽ không mắc vào bẫy dò ma quỉ giăng ra. Hơn thế nữa chúng ta cần hiểu rõ để có thể giúp đỡ được nhiều người chung quanh chúng ta đang bị ma quỉ lừa gạt.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 14.06.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 14.06.2015

in NAM GIỚI on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 14.06.2015.

1. Đề tài: SINH NHẬT – CẢM TẠ CHÚA.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 66.

3. Câu gốc: “Hỡi hết thảy người kính sợ Đức Chúa Trời, hãy đến nghe, thì tôi sẽ thuật điều Ngài đã làm cho linh hồn tôi” (Thi 66:16).

4. Đố Kinh Thánh: Ê-xơ-tê 1-5.

5. Thể loại: Sinh nhật – Sinh hoạt.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 29.03.2015.

* TRÒ CHƠI DÀNH CHO NGƯỜI CÓ SINH NHẬT.

BÔNG HOA SINH NHẬT.

– Chuẩn bị: Cắt một số hoa bằng giấy màu và viết lời yêu cầu thật vui cuộn tròn lại dán vào nhụy hoa. Dùng băng keo hai mặt dán bông hoa lên bảng (số hoa tương đương với số người có ngày sinh trong quí).

– Cách chơi: NHD sẽ mời từng người có ngày sinh trong quí lên chọn và hái cho mình một bông hoa. Quan sát kỹ trong bông hoa sinh nhật có gì đặc biệt, xem và đọc lớn rồi thực hiện lời yêu cầu.

* TRÒ CHƠI TẬP THỂ.

LỌT BÓNG.

– Cách chơi: NHD cho các bạn tham gia đứng thành vòng tròn, người này cách người kia khoảng 0,5m. NHD chọn một người vào trong vòng tròn với một quả bóng. Sau đó NHD công bố cuộc chơi như sau: Bạn này dùng tay ném bóng ra khỏi vòng tròn nhưng không được ném cao hơn đầu gối các bạn; còn các bạn chỉ được dùng một chân (phải hoặc trái do NHD quy định) để cản bóng, sao cho bóng đừng ra khỏi. Khi NHD thổi còi, tất cả phải đồng loạt đổi chân nhanh chóng. Nếu bóng lọt ra ngoài, thì người để lọt bóng phải ra thay thế (ví dụ: Quy định dùng chân trái để chặng bóng, nếu bóng lọt qua bên trái của người nào thì người đó làm người ném bóng).

THẢY VÒNG VÀO CỔ CHAI.

– Cách chơi: NHD chia các bạn tham gia thành nhiều đội xếp thành hàng dọc, mỗi đội 5 người. NHD phát cho mỗi đội 5 vòng tròn bằng dây lát hoặc tre (đường kính khoảng 20cm). Sau đó, đặt trước mỗi đội một cái chai (nước khoáng hoặc chai thủy tinh) cách khoảng từ 2 đến 3m. NHD cho các bạn thi đấu bằng cách dùng vòng thảy vào cổ chai. Đội nào có số vòng tròng vào cổ chai nhiều nhất là thắng cuộc.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 07.06.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 07.06.2015

in NAM GIỚI on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 07.06.2015.

1. Đề tài: CÁC GIÁO LÝ CĂN BẢN.

2. Kinh Thánh: Sáng 1-3; Rô 5:12, 6:23; 8; 11:36, Giăng 14:16-17, 16:7; Êph 1:14, 2:7-8, Khải 20:14.

3. Câu gốc: “Sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta” (1Giăng 5:4b).

4. Đố Kinh Thánh: Nê-hê-mi 9-13.

5. Thể loại: Chia sẻ.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 04.01.2015.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Sau đây chúng ta lần lượt ôn lại những giáo lý đã học và tìm bài học áp dụng từ những chân lý đó vào nếp sống đạo hằng ngày của chúng ta.

I. DẪN GIẢI.

A. TỔNG QUÁT VỀ CÁC GIÁO LÝ CĂN BẢN.

1. Giáo lý về Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời Ba Ngôi.

a. Đức Chúa Trời là Chân Thần duy nhất, là Thần Linh tối cao chủ tể của trời đất muôn vật, thiêng liêng, vô hình, nhưng có vị cách và cá tánh riêng biệt. Thần tánh Ngài được bày tỏ trong bản tánh thánh khiết, công nghĩa, yêu thương và thuộc tánh của Ngài là toàn năng, toàn tri, toàn tại, toàn thiện, toàn mỹ, chân thật, nhân từ, thành tín, tự hữu hằng hữu, đời đời, bất biến, vô thủy vô chung.

b. Một trong những lẽ đạo huyền nhiệm về Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Nghĩa là một Đức Chúa Trời bày tỏ trong ba ngôi vị với danh xưng riêng là Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh. Ba ngôi riêng biệt, nhưng tương quan với nhau, có cùng thể yếu, thần tánh như nhau, bình đẳng, bình quyền với nhau, và hiệp một với nhau trong Đức Chúa Trời duy nhất.

2. Giáo lý về sự tạo thành trời đất muôn vật.

a. Sự hiện hữu của vũ trụ, muôn vật và loài người là do sự sáng tạo của Đức Chúa Trời Ba Ngôi chớ không phải do sự ngẫu nhiên tiến hóa mà thành (Sáng 1-2).

b. Đức Chúa Trời dựng nên muôn vật cho chính Ngài và với mục đích làm vinh hiển danh Ngài (Rô 11:36).

c. Mọi vật Chúa dựng nên đều tốt lành, có công dụng hữu ích, và có theo mục đích cao cả của Ngài.

d. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa muôn vật, cũng là Đấng Bảo tồn, và Đấng Quan phòng, phù hộ chăm sóc muôn vật.

3. Giáo lý về thiên sứ và ma quỉ.

a. Thiên sứ là loài thần linh được Đức Chúa Trời dựng nên trong sự thánh thiện. Thiên sứ có trước loài người, có sự hiểu biết và quyền lực trổi hơn loài người. Tuy nhiên thiên sứ chỉ là những thiên thần thọ tạo và hữu hạn.

b. Trong vòng thiên sứ, có số thiên sứ bất phục Đức Chúa Trời gọi là những thiên sứ ác hay ma quỉ. Thiên sứ đứng đầu cuộc dấy nghịch Đức Chúa Trời thường được gọi là Satan. Còn những thiên sứ vâng phục Đức Chúa Trời được gọi là thiên sứ thiện.

c. Là thiên sứ sa ngã, bản chất của sa-tan từ thiện trở nên ác, được biểu lộ trong bản tánh lừa dối, độc ác, kiêu ngạo và phạm thượng.

d. Thiên sứ là thần hầu việc Đức Chúa Trời được sai xuống thế gian để giúp việc con cái Chúa theo mạng lịnh Ngài. Trái lại thiên sứ ác tức là ma quỉ do sa-tan cầm đầu với công việc của chúng là lừa dối loài người, xui khiến thế gian chống nghịch Đức Chúa Trời, cám dỗ con cái Chúa phạm tội, gây họa trên người tin kính Chúa, phá hại công việc nhà Chúa. Nhưng quyền lực của chúng chỉ có giới hạn với sự cho phép của Đức Chúa Trời, Đấng Chủ Tể cầm quyền tối cao trên muôn loài vạn vật thọ tạo. Cuối cùng của Satan là sự đoán phạt trong hồ lửa đời đời.

4. Giáo lý về loài người và tội lỗi.

a. Người được nên giống như hình Đức Chúa Trời, được gọi là loài sanh linh, có thể xác bằng bụi đất hay hư nát, và có linh hồn đến từ Đức Chúa Trời là phần bất diệt.

b. Trong hình ảnh Đức Chúa Trời, loài người giống Ngài về cá tánh và bản tánh đạo đức thánh thiện. Có nghĩa người là một cá thể tự do, có ý thức về tinh thần tự quyết, có sự nhận biết điều phải trái, có năng lực lựa chọn điều thiện, có khả năng giao thông với Đấng Tạo Hóa và với tha nhân, và khả năng tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.

c. Tội lỗi bắt đầu lan tràn trong loài người từ sự sa ngã của
A-đam, người đầu tiên, vì sự cám dỗ của sa-tan. Trong dòng dõi
A-đam, loài người mắc vào hai thứ tội. Nguyên tội là từ nguyên tổ A-đam, và kỷ tội là tội cá nhân và bị đặt dưới hình án của Đức Chúa Trời. Hậu quả và án phạt của tội lỗi là sự chết. Có ba sự chết, chết thể xác, chết tâm linh và chết đời đời (Sáng 3; Rô 5:12; 6:23; Khải 20:14).

5. Đấng Cứu Thế và sự cứu rỗi.

a. Đức Chúa Giê-xu Christ là Đấng Cứu Thế duy nhất của thế gian. Ngài là Đấng thần nhân duy nhất, có cả thần tánh toàn năng và nhân tánh toàn thiện, có đủ tư cách trở thành Đấng Trung Bảo giữa Đức Chúa Trời và loài người, và làm nên sự cứu rỗi linh nghiệm cho cả thế gian.

b. Sự cứu rỗi loài người được lập nền trên sự chết và sống lại của Đấng Christ (1Côr 15:3-4). Bởi sự đổ huyết của Ngài, tội nhân được tha thứ, bởi sự sống lại của Ngài, tội nhân được giải phóng khỏi quyền lực của tội lỗi và sự chết.

c. Sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời là hoàn toàn trọn vẹn, được ban cho loài người bởi ân điển Ngài. Đức tin trong Đức Chúa Giê-xu Christ là điều kiện duy nhất nhận được sự cứu rỗi, không có sự thêm vào công đức riêng tư của con người (Êph 2:7-8).

d. Sự cứu rỗi trong Đấng Christ là sự cứu rỗi toàn diện, bao gồm sự giải cứu về phần tâm linh và sự cứu chuộc thân thể. Nghĩa là trong hiện tại tội nhân được giải cứu khỏi sự đoán phạt của tội lỗi, tức là được xưng nghĩa trước luật pháp Đức Chúa Trời, được ban cho tấm lòng mới, tức là sự tái sanh, và được giải cứu khỏi quyền lực của tội lỗi, tức là sự thánh hóa. Trong tương lai, thân thể sẽ được giải cứu khỏi sự chết để được sự sống đời đời với Chúa.

6. Giáo lý về Đức Thánh Linh và Hội Thánh.

a. Sự cứu rỗi loài người là công việc của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Theo đó Đức Cha hoạch định chương trình, Đức Con thực hiện sự cứu rỗi, và Đức Thánh Linh hoàn thành sự cứu rỗi trong người tin.

b. Đức Thánh Linh còn có danh hiệu là Đấng Yên ủi hay Thần Lẽ Thật. Công việc của Đức Thánh Linh đã được thấy trong công cuộc sáng tạo muôn vật, và trong thời Cựu Ước. Đặc biệt trong thời Tân Ước, với biến động giáng lâm trong ngày lễ Ngũ Tuần, Đức Thánh Linh được ban xuống để thành lập Hội Thánh Đấng Christ (Công 2).

c. Công việc của Đức Thánh Linh bao gồm nhiều lãnh vực: Trong con người, Đức Thánh Linh thuyết phục tội nhân tin nhận Chúa Giê-xu, ban quyền năng cho người giảng Tin Lành. Trong Hội Thánh, Đức Thánh Linh liên hiệp người tin với Đấng Christ để được thuộc vào Hội Thánh Ngài; ban cho tín hữu ân tứ để gây dựng, phát triển Hội Thánh, gìn giữ Hội Thánh khỏi sự sai lạc, hướng dẫn Hội Thánh trong sứ mạng giảng Tin Lành. Trong người tin, Đức Thánh Linh tái sanh, thánh hóa, dạy dỗ, soi sáng, dẫn dắt, yên ủi, cầu thay, và đời đời ở trong lòng làm ấn chứng cho người tin là con cái của Đức Chúa Trời (Rô 8:14-16,26-27; Êph 1:14; Giăng 14:16-17;16:7).

d. Hội Thánh được Kinh Thánh nói đến trong hai phương diện: Hội Thánh vô hình và Hội Thánh hữu hình.

e. Hội Thánh vô hình chỉ về thân thể thuộc linh của Đấng Christ, là Hội Thánh mắt không thấy được, bao quát, gồm tất cả người tin Chúa Giê-xu ở khắp mọi nơi, và trải qua mọi thế đại được liên hiệp với Đấng Christ bởi Đức Thánh Linh (1Côr 12:13; Êph 3:21). Hội Thánh hữu hình là một Hội Thánh có thể trông thấy, chỉ về một tập thể gồm tất cả những người tin Chúa Giê-xu, chịu báptem, nhóm lại thường xuyên tại một nơi thích hợp để duy trì sự thờ phượng Đức Chúa Trời, thực hành các giáo lý và giáo nghi Chúa dạy và thông công với nhau giữa các chi thể trong cùng một thân thể của Đấng Christ.

g. Hội Thánh hữu hình có thể được tổ chức trong nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Đấng Christ phải là Đầu, và là nền tảng của Hội Thánh. Trong sự tổ chức của Hội Thánh cần có kỷ luật, nhưng kỷ luật phải được lập trên nền tảng là tình yêu thương của Chúa và thẩm quyền tối cao của kỷ luật là bởi Đức Thánh Linh.

h. Phép báp-tem và lễ tiệc thánh là hai giáo nghi Hội Thánh tuân hành. Đó là mạng lịnh của Đấng Christ để giữ Hội Thánh trong mối thông công với Chúa và với nhau càng hơn.

i. Hội Thánh Đấng Christ không thuộc thế gian, nhưng ở trong thế gian, Hội Thánh có sứ mạng là “muối của đất”, “sự sáng của thế gian” (Mat 5:13-16). Chức vụ của Hội Thánh là rao giảng Tin Lành và gây dựng thân thể Đấng Christ.

k. Hiện tại Hội Thánh bị thế gian bắt bớ vì danh Chúa, nhưng địa vị tương lai của Hội Thánh là “Vợ” của Đấng Christ trong nước vinh hiển đời đời.

7. Giáo lý về thế giới tương lai.

a. Sau sự chết có đời sau. Đời sau của người tin Chúa sẽ là phước hạnh mãi mãi với Chúa. Đời sau của người chẳng tin sẽ là đau khổ đời đời trong địa ngục.

b. Có sự sống lại của người chết. Khi Đấng Christ trở lại, người tin Chúa sẽ được sống lại trước hết, được biến hóa thân thể, và được tiếp vào nơi vinh hiển với Chúa trên thiên đàng. Sau cùng người chẳng tin cũng sẽ sống lại để chịu sự phán xét, cùng với Satan và ma quỉ bị bỏ vào hồ lửa đời đời.

c. Thế giới nầy bị hủy diệt khi Đấng Christ tái lâm thi hành sự phán xét cuối cùng. Trời mới đất mới sẽ được dựng nên làm nơi ở của người công bình (2Phi 3:13).

B. PHẦN ỨNG DỤNG.

1. Sự quan trọng của các giáo lý căn bản.

Các giáo lý căn bản tóm lược trên rất quan trọng vì:

a. Chúng ta được biết rõ những giáo lý có liên quan đến sự cứu rỗi chúng ta, về nguồn gốc vũ trụ, loài người và tội lỗi, về công việc của Ba Ngôi Đức Chúa Trời, công cuộc sáng tạo và cứu chuộc loài người. Nhờ đó chúng ta có thể nhận biết đâu là chân lý, đâu là tà thuyết.

b. Qua những giáo lý căn bản, chúng ta biết rõ sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi chắc chắn bảo đảm giải cứu chúng ta trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhờ đó, đức tin chúng ta được vững vàng và có thể sống đắc thắng cho Chúa trong thế gian, nhất là trong ngày sau rốt với sự dấy lên của những tiên tri giả lung lạc niềm tin của Cơ Đốc nhân nơi sự cứu rỗi trong Chúa Giêxu Christ.

2. Các giáo lý căn bản trong niềm tin chúng ta.

Hầu hết những giáo lý căn bản được thấy trong bài “Tín điều các sứ đồ”. Bài Tín Điều phản chiếu niềm tin của Cơ Đốc nhân về Ba Ngôi Đức Chúa Trời trong công cuộc sáng tạo và cứu chuộc loài người. Nếu chỉ thừa nhận Đức Chúa Cha là Đấng tạo hóa vũ trụ, và bỏ đi những giáo lý về Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh, thì chúng ta vẫn còn là một tội nhân hư mất, sống không có ý nghĩa trong đời nầy, và tuyệt vọng trong đời sau.

Như thế với những giáo lý căn bản đã học, là những giáo lý căn cứ trên lời Kinh Thánh, chúng ta cần giữ vững và ứng dụng thế nào trong niềm tin chúng ta?

a. Với giáo lý về Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời Ba Ngôi: Chúng ta tôn kính và thờ phượng Đức Chúa Trời Ba Ngôi là Chân Thần duy nhất. Chúng ta phủ nhận những lý thuyết sai lạc cho rằng Đức Chúa Giê-xu chỉ là một linh hay thiên sứ trưởng, và Đức Thánh Linh là một quyền lực.

b. Với giáo lý về sự sáng tạo trời đất muôn vật. Chúng ta nhận biết mình là loài thọ tạo, và Đức Chúa Trời là Đấng tạo hóa. Chúng ta phủ nhận lý thuyết ngẫu nhiên và tiến hóa.

c. Với giáo lý về thiên sứ và ma quỉ. Chúng ta nhận biết có sự giúp đỡ của thiên sứ và sự gây họa của ma quỉ. Chúng ta không thờ lạy thiên sứ, vì thiên sứ chỉ là thần thọ tạo của Chúa. Chúng ta không sợ ma quỉ vì Chúa cầm quyền trên chúng. Nhưng chúng ta phải cảnh tĩnh về sự cám dỗ của chúng. Chúng ta không chấp nhận bất cứ hình thức đồng bóng, tà thuật vì đến từ ma quỉ. Đó là điều Chúa nghiêm cấm.

d. Với giáo lý về loài người và tội lỗi: Chúng ta là người thọ tạo được dựng nên giống hình Đức Chúa Trời, có sự tự do, có linh hồn bất diệt. Nhưng chúng ta là con người sa ngã, bại hoại trong tội lỗi và cần sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Chúng ta phủ nhận những triết thuyết định mệnh, vô thần và vật chất chủ nghĩa.

e. Với giáo lý về Đấng Cứu Thế và sự cứu rỗi: Chúng ta tin nhận Đức Chúa Giê-xu Christ là Đấng Cứu Thế duy nhất của thế gian và với đức tin chúng ta nhận sự cứu rỗi ban cho bởi ân điển Ngài. Chúng ta phủ nhận niềm tin về sự cứu rỗi do công đức riêng của con người.

g. Với giáo lý về Đức Thánh Linh và Hội Thánh. Hãy vâng phục Đức Thánh Linh, nhìn biết Đấng Christ là Đầu Hội Thánh, biết chắc chúng ta thuộc vào Hội Thánh Ngài, trung tín trong công việc gây dựng Hội Thánh Chúa bởi quyền năng Thánh Linh. Chúng ta phủ nhận sự cầu nguyện với bà Ma-ri và các thánh, cũng không công nhận giáo hoàng là đầu Hội Thánh.

h. Với giáo lý về thế giới tương lai. Chúng ta tin có đời sau, chúng ta hy vọng về sự sống lại vinh hiển của người tin. Chúng ta trông đợi Chúa tái lâm. Chúng ta phủ nhận sự tiên đoán ngày giờ Chúa tái lâm, và lý thuyết chủ trương không có tận thế, không có sự bất diệt của linh hồn.

Giữa thế giới băng hoại trong tội lỗi, với sự lan tràn của những tà thuyết. Xin Chúa giúp chúng ta mỗi ngày đều đặt niềm tin nơi các lẽ thật Kinh Thánh qua các giáo lý căn bản đã được học.

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Hãy kể vài danh hiệu của Đức Chúa Trời và nói ý nghĩa của những danh hiệu ấy?

2. Thần tánh của Đức Chúa Trời được bày tỏ trong những đặc tánh và thuộc tánh nào?

3. Đức Chúa Trời duy nhất nhưng được bày tỏ trong Ba Ngôi vị nào? Và có đặc tánh gì?

4. Xin tóm lược những giáo lý về Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời Ba Ngôi.

5. Trời đất và muôn vật được dựng nên bởi ai? Và như thế nào?

6. Đặc tính và mục đích của công cuộc sáng tạo?

7. Ngoài sự sáng tạo, Đức Chúa Trời còn có những công việc nào đối với vật Ngài dựng nên?

8. Xin tóm lược những giáo lý về sự tạo thành muôn vật. Với những giáo lý nầy, trong niềm tin, chúng ta phủ nhận những lý thuyết nào về sự hình thành của vũ trụ và loài người?

9. Thiên sứ và ma quỉ bắt nguồn từ đâu?

10. Công việc của thiên sứ và công việc của ma quỉ khác nhau thế nào? Và trong giới hạn nào?

11. Tại sao chúng ta không nên thờ lạy thiên sứ, cũng như không nên run sợ trước quyền lực ma quỉ?

12. Xin tóm lược những giáo lý về thiên sứ và ma quỉ. Chúng ta có thái độ thế nào trước công việc tà thuật của ma quỉ đang hoạt động trong thế giới loài người hiện nay?

13. Loài người được dựng nên theo hình ảnh nào? Với bản chất gì?

14. Khi được dựng nên, con người được đặt trong vị thế nào?

15. Tại sao con người sa ngã? Và hậu quả của sự sa ngã như thế nào?

16. Xin tóm lược những giáo lý quan trọng về loài người và tội lỗi. Trong niềm tin nầy, chúng ta phải phủ nhận những tà thuyết nào về loài người và tội lỗi?

17. Đấng Cứu Thế là ai? Tại sao chỉ có Ngài mới là Đấng Cứu Thế duy nhất của loài người?

18. Sự cứu rỗi của Ngài đáp ứng nhu cầu của con người trong những khía cạnh nào?

19. Điều kiện được cứu là gì? Tại sao?

20. Xin tóm lược những giáo lý quan trọng về Đấng Cứu Thế và sự cứu rỗi. Trong niềm tin nầy, chúng ta phải phủ nhận những tà thuyết sai lạc nào về Đấng Cứu Thế và sự cứu rỗi?

21. Đức Thánh Linh là ai? Ngài được gọi trong những danh hiệu nào?

22. Công việc của Đức Thánh Linh xuyên qua các thời đại và trong những phạm vi nào?

23. Hội Thánh là gì? Ai là đầu của Hội Thánh?

24. Hội Thánh được thành lập với mục đích gì? Điều kiện nào để được thuộc vào Hội Thánh của Chúa?

25. Hội Thánh được tổ chức trong hình thức nào? Và thực hành những giáo nghi nào? Tại sao?

26. Hội Thánh có sứ mạng gì trong thế gian? Và địa vị tương lai của Hội Thánh trong Nước Chúa là gì?

27. Xin tóm lược những giáo lý quan trọng về Đức Thánh Linh và Hội Thánh. Trong niềm tin nầy, chúng ta phải phủ nhận những tà thuyết nào về Đức Thánh Linh và Hội Thánh?

28. Sau sự chết là gì? Có sự khác nhau thế nào giữa sự chết của người tin và người chẳng tin?

29. Có sự sống lại của người chết không? Khi nào? Và như thế nào?

30. Có sự phán xét cuối cùng không? Đâu là nơi ở đời đời của người tin và người chẳng tin?

31. Có sự tận cùng của thế giới nầy không? Sau sự tận cùng của thế giới là gì?

32. Xin tóm lược những giáo lý quan trọng về thế giới tương lai. Trong niềm tin nầy, chúng ta phủ nhận những tà thuyết nào về giáo lý nầy?

33. Xin cắt nghĩa tại sao những giáo lý trên là quan trọng? Và ứng dụng thế nào trong nếp sống đạo hằng ngày của Cơ Đốc nhân?

 

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 24.05.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 24.05.2015

in NAM GIỚI on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 24.05.2015.

1. Đề tài: HÃY TƯỞNG NHỚ ĐẤNG TẠO HOÁ.

2. Kinh Thánh: Truyền Đạo 12:1-7.

3. Câu gốc: “Trong buổi còn thơ ấu hãy tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa ngươi” (Truyền 12:1a).

4. Đố Kinh Thánh: Không đố Kinh Thánh.

5. Thể loại: Truyền giảng.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 01.03.2015.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

HÃY TƯỞNG NHỚ ĐẤNG TẠO HOÁ.

Tục ngữ ta có câu “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào giếng”, câu ấy dạy ta đừng vong ân bội nghĩa. Song ngoài công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dục như núi như sông ra, thì còn có ơn cao sâu dài rộng hơn cả; đó là ơn của Đấng Tạo Hoá mà mỗi chúng ta cần phải tưởng nhớ.

I. ĐẤNG TẠO HOÁ LÀ AI?

Kinh Thánh minh chứng Đấng Tạo Hóa là Đức Chúa Trời (Sáng 1:1; 5:1-2 và Giăng 1:3). Ngài là Đức Chúa Trời:

– Tự Hữu Hằng Hữu, trước mặt Ngài chỉ có hiện tại vì cả cõi đời đời bày ra ở trước mặt Ngài.

– Toàn Năng, Toàn Tri, Toàn Tại, Toàn Ái, Thánh Sạch và Công Bình. Ngài là Đấng vô đối, dựng nên muôn vật một cách huyền diệu và lớn lao. Muôn vật được Ngài bảo tồn, cai trị cho đến đời đời. Đấng ấy rất đáng cho chúng ta tưởng nhớ và tôn thờ là dường nào!

II. TƯỞNG NHỚ ĐẤNG TẠO HOÁ LÚC NÀO?

Kinh Thánh cho biết tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa khi còn thơ ấu. Trong đời con người có rất nhiều việc nhưng việc trước nhất là tưởng nhớ đến Đấng Tạo Hoá. Đời người chia ra nhiều giai đoạn như: Thời thơ ấu, niên thiếu, trưởng thành, lão thành; thì ngay giai đoạn thứ nhất, phải nghĩ đến Đấng Tạo Hóa mình bằng cách dâng tuổi thanh xuân của mình lên cho Chúa. Nếu ai chưa tưởng nhớ Đấng Tạo Hoá như vậy thì nên bắt đầu ngay từ bây giờ.

Tại sao phải bắt đầu từ thời thơ ấu? Kinh Thánh chép: “Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo; dầu khi nó trở về già, cũng không hề lìa khỏi đó” (Châm 22:6). Tấm lòng trẻ thơ mềm mại, trong sạch, chưa hoen ố tội trần như người lớn. Tuổi thơ còn có nhiều thì giờ hơn để hầu việc Chúa, còn sức lực đầy đủ hơn để phục vụ Ngài.

Hễ chúng ta kính mến ai thì muốn dâng tặng cho người ấy món quà quý nhất, tốt đẹp nhất. Vì vậy, ta cũng nên dâng cho Đức Chúa Trời một của lễ dường ấy để tỏ lòng kính mến Ngài như dân Do Thái xưa kia dâng cho Chúa con vật đầu lòng trong bầy chiên, bò, lừa, lạc đà… của mình. Các con chiên họ dâng làm của lễ cũng phải lựa con toàn vẹn, tốt nhất, được chứng nhận của thầy tế lễ.

Một lý do nữa là không phải ai cũng đến tuổi già mới chết mà tuổi nào cũng có thể chết được cả. “Lại hãy tưởng nhớ Đấng Tạo Hoá trước khi dây bạc đứt, và chén vàng bể, trước khi vò vỡ ra bên suối, và bánh xe gãy ra bên giếng, và bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ, và thần linh trở về nơi Đức Chúa Trời, là Đấng đã ban nó” (Truyền 12:6-7). Vì vậy, nếu như trong tuổi thơ ấu không tìm kiếm Đấng Tạo Hoá của mình thì khi qua đời sẽ mất cơ hội được vào trong nước vinh hiển của Ngài, mất cơ hội được sống đời đời trong cõi phước hạnh!

III. TƯỞNG NHỚ ĐẤNG TẠO HOÁ CÁCH NÀO?

Có rất nhiều cách tưởng nhớ không đẹp ý Chúa như trường hợp trong Mác 7:6-7 và 1Tim 4:1-3.

Chúa Giê-xu dạy: “Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy” (Giăng 4:23-24). Vậy, cách tưởng nhớ đẹp lòng Chúa là:

1. Tưởng nhớ bằng tâm thần.

Trong con người có 3 phần, phần tâm thần là phần cao trọng hơn cả. Bởi phần tâm thần giao thông với Đức Chúa Trời, thờ phượng Ngài, tôn vinh Ngài, nhận được từ nơi Ngài sự sống, sự vinh hiển. Hiện nay tâm thần người ta đã chết vì cớ tội lỗi, nên phải tin Chúa Giê-xu mới được tha tội hầu cho tâm thần được cứu mà thờ phượng Chúa. “Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình… Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng giàu lòng thương xót, vì cớ lòng yêu thương lớn Ngài đem mà yêu chúng ta, nên đang khi chúng ta chết vì tội mình, thì Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ – ấy là nhờ ân điển mà anh em được cứu” (Êph 2:1,4,5).

2. Tưởng nhớ bằng lẽ thật.

Lẽ thật là điều con người quan tâm như trường hợp quan tổng trấn Phi-lát đã hỏi Chúa Giê-xu khi nghe Ngài nói đến lẽ thật (Giăng 18:38). Lẽ thật là gì? Lẽ thật là chân lý. Không có gì qua được chân lý, mà chân lý là gì trong khi “lòng người ta là dối trá hơn mọi vật và rất là xấu xa”? (Giê 17:9).

Kinh Thánh cho biết, Chúa Giê-xu đã tự xưng Ngài là lẽ thật, tức Ngài là chân lý. “Vậy, Đức Chúa Giê-xu đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật và sự sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha” (Giăng 14:6).

Lời của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh là lẽ thật, là chân lý (Giăng 17:17).

Ta phải tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa bằng lẽ thật nghĩa là phải thờ phượng Đức Chúa Trời bằng cách sống theo gương Chúa Giê-xu, sống làm theo lẽ thật trong Kinh Thánh.

* Kết luận: Thưa quý vị! Quý vị đã tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa chưa? Nếu quý vị chưa tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa khi còn thơ ấu thì ngay giờ phút nầy quý vị có thể mở lòng mình ra tiếp nhận Ngài, bằng cách dâng cho Ngài trọn cuộc đời mình. Ngài sẽ làm Chủ cuộc đời quý vị và hướng dẫn quý vị cách thờ phượng Ngài bằng tâm thần và lẽ thật. Đó là cách quý vị tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa mà Chúa đẹp lòng

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 17.05.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 17.05.2015

in NAM GIỚI on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 17.05.2015.

1. Đề tài: LỜI KÊU GỌI TỈNH THỨC.

2. Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 24:36-42; 1Tês 5:4-10.

3. Câu gốc: “Sự cuối cùng của muôn vật đã gần; vậy hãy khôn ngoan tỉnh thức mà cầu nguyện” (1Phi 4:7).

4. Đố Kinh Thánh: Nê-hê-mi 1-4.

5. Thể loại: Học Kinh Thánh nhóm.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 11.01.2015.

Dựa theo Mat 24:36-42 và 1Tês 5:4-10 soạn một số câu hỏi cho giờ học Kinh Thánh.

(1.1) “Ngày và giờ đó” là ngày và giờ gì?

(1.2) Tại sao ngày và giờ đó “chỉ một mình Cha biết mà thôi”?

(1.3) Biết rõ điều nầy, bạn sẽ làm gì khi có người nói với bạn là họ biết tính ngày giờ Chúa trở lại?

(2.1) Chúa dùng hình ảnh nào ví sánh với ngày “Con Người đến”?

(2.2) Tại sao Chúa dùng hình ảnh nầy để ví sánh?

(2.3) Biết được điều nầy bạn có sự chuẩn bị gì cho ngày “Con Người đến”?

(3.1) Chúa ví chúng ta là con cái của sự sáng, vậy chúng ta phải làm gì?

(3.2) Tại sao chúng ta phải làm như vậy?

(3.3) Vì sao bạn biết mình đã sống đúng (hay chưa đúng) là “con cái của sự sáng và con của ban ngày”?

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Chúng ta đang ở trong thời kỳ mà Kinh Thánh cảnh cáo “sự cuối cùng của muôn vật đã gần”. Những biến chuyển của lịch sử thế giới cho chúng ta thấy càng rõ hơn về thời điểm sắp đến của ngày chung kết ấy. Đối với người chẳng tin, họ xem nhẹ lời cảnh cáo của Kinh Thánh, tuy nhiên với chúng ta là người có niềm tin, vấn đề không phải là có sự tận cùng của thế giới hay Chúa có tái lâm không, nhưng điểm quan trọng là chúng ta có tỉnh thức trông đợi ngày Chúa trở lại không? Tại sao? Thế nào để chúng ta chuẩn bị đời sống sẵn sàng đón tiếp Chúa?

I. DẪN GIẢI.

A. LÝ DO CỦA SỰ TỈNH THỨC.

Động từ “tỉnh thức” trong nguyên văn Hy-lạp là gregoreò, một từ đặc biệt ám chỉ về sự đề cao cảnh giác. Nói đến sự tái lâm của Chúa Giê-xu, Kinh Thánh đã nhiều nhắc nhở, cảnh cáo con cái Chúa “Hãy tỉnh thức”. Tại sao?

1. Vì sự hiện đến của Ngài là chắc chắn.

Chính Chúa Giê-xu đã dự ngôn về sự tái lâm của Ngài là chắc thật: “Trời đất sẽ qua, nhưng lời Ta nói chẳng bao giờ qua đi” (Mat 24:35). Sứ đồ Phi-e-rơ cũng đã xác nhận: “Chúa không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu…” (2Phi 3:9).

2. Vì ngày Chúa tái lâm sắp đến.

Trong 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:5, Phao-lô nhắc nhở con cái Chúa rằng: “Anh em đều là con của sự sáng và con của ban ngày”. Cho nên là con cái bước đi trong sự sáng của Chúa, tức là người trong sự tỉnh thức, chúng ta không thể không cảm nhận được những “báo động” về ngày tái lâm của Chúa. Có những dấu hiệu chúng ta đã và đang thấy trước mắt như điều Kinh Thánh đã nói trước là sẽ xảy ra trước ngày Chúa đến như chiến tranh, đói kém, động đất, tội lỗi gia tăng, sự dấy lên của nhiều tiên tri giả, Christ giả (Mat 24:6-13).

Khi nói đến sự tái lâm, Chúa Giê-xu dùng thí dụ về cây vả (Mat 24:32). Cây vả là loài cây ăn trái quan trọng đứng vào hàng thứ ba trong xứ Palestine, sau cây nho và cây ô-li-ve. Theo chu kỳ, cây vả ra lá vào mùa hè. Vì vậy, sự đâm chồi của cây vả là một dấu hiệu cho biết mùa hè sắp tới. Trong Kinh Thánh, cây vả thường dùng chỉ bóng về dân Y-sơ-ra-ên, tuyển dân của Chúa. Vì chối bỏ Đấng Christ, nên họ bị Ngài đoán phạt phải mất xứ sở và tản lạc khắp nơi trên đất kể từ biến cố hủy diệt thành Giê-ru-sa-lem vào năm 70 S.C. Nhưng theo sự bày tỏ của lời tiên tri trong Cựu Ước, thì quốc gia Y-sơ-ra-ên sẽ hoàn toàn được hồi phục, dân Y-sơ-ra-ên sẽ được giải cứu khi Đấng Mê-si-a hiện đến lần thứ hai. Nhìn vào sự lập quốc cách lạ lùng của dân Do Thái sau đệ nhị thế chiến, những sự kiện về sự hồi hương của dân Do Thái, và những diễn biến đang xảy ra tại quốc gia nầy, trong ánh sáng của lời tiên tri chúng ta thấy dấu hiệu “mùa hạ” sắp tới nghĩa là ngày Chúa đã kề bên!

3. Vì giờ Chúa đến là điều kín nhiệm (Mat 24:36).

Có những dấu hiệu cho chúng ta biết ngày Chúa tái lâm sắp đến, sự cuối cùng của muôn vật đã gần. Tuy nhiên, ngày giờ Chúa đến là kín nhiệm “…chẳng có ai biết chi cả, thiên sứ trên trời hay là Con cũng vậy, song chỉ môt mình Cha biết mà thôi”. Cho nên ai cố xác định ngày giờ Chúa tái lâm là một nhầm lẫn lớn, như Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm đã có lần tuyên bố Chúa Giê-xu tái lâm vào năm 1844!

4. Vì là sự tái lâm của Chúa Giê-xu là lẽ trông cậy nhất của người tin Chúa.

Vì thì giờ tái lâm của Chúa là điều kín nhiệm, và thình lình “như người trộm trong ban đêm”, và nhanh chóng “như chớp phát ra từ phương đông” (1Tês 5:2; Mat 24:27), nên nếu tỉnh thức, thì sự ấy không phải là quá bất ngờ cho chúng ta (1Tês 5:4-5). Chúng ta cần tỉnh thức để sẵn sàng được tiếp đi với Chúa mà không bị bỏ lại (Mat 24:40-42).

B. TỈNH THỨC VỚI SỰ CHUẨN BỊ SẴN SÀNG.

Sự tỉnh thức cần được bày tỏ trong hai phương diện: Tiêu cực với lòng kiên nhẫn chờ đợi, và tích cực với sự chuẩn bị đời sống sẵn sàng đón Chúa. Những điều quan trọng nào cần được chuẩn bị cho mỗi đời sống chúng ta?

1. Phải được tái sanh.

Để dạy môn đồ lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng chờ đón Chúa, Chúa kể một ẩn dụ về mười người nữ đồng trinh (Mat 25:1-13). Trong ẩn dụ nầy mười người nữ đồng trinh chỉ về Hội Thánh, chàng rể chỉ về Chúa Giê-xu là Tân Lang của Hội Thánh và dầu chỉ về Đức Thánh Linh. Trong mười người nữ đồng trinh có năm người dại, là người không chuẩn bị dầu đón chàng rể, và năm người khôn là người chuẩn bị dầu đón chàng rể. Năm người dại và năm người khôn tiêu biểu cho hai hạng người trong Hội Thánh hữu hình. Nghĩa là trong Hội Thánh Chúa, có những người tín đồ thật, tức là những người được tái sanh bởi Đức Thánh Linh, có sự ngự trị của Ngài trong đời sống; nhưng cũng có những người mang danh tín đồ, nhưng thực sự đời sống không có Đức Thánh Linh, không có sự tái sanh bởi Ngài. Vì lẽ đó chắc họ sẽ không được nhận vào tiệc cưới Chiên Con, vì cớ không thuộc về Ngài “…Song nếu ai không có Thánh Linh của Đấng Christ, thì người ấy chẳng thuộc về Ngài” (Rô-ma 8:9).

Như vậy trong sự chuẩn bị đón Chúa, chúng ta cần kiểm điểm lại đời sống mình thật có Đức Thánh Linh hay chỉ như đèn mà không có dầu? Chúng ta có biết chắc mình đã được tái sanh và trở nên con cái của Đức Chúa Trời không? Nếu chưa, hãy mở lòng tiếp nhận Chúa Giê-xu để được nhận lãnh sự ban cho của Đức Thánh Linh trước khi cửa ân điển đóng lại, và không còn có cơ hội nữa. Như năm người nữ dại kia đợi đến lúc chàng rể đến, rồi mới chạy mua dầu, thì đã quá trễ.

2. Phải giữ mình trong sạch khỏi mọi sự ô uế của thế gian.

Hội Thánh được gọi là “Tân nương” của Đấng Christ. “Cô dâu” lý tưởng nầy khi gặp “Tân Lang” phải là cô dâu thánh sạch, không vết, không nhăn, không chỗ trách được trước mặt Ngài (Êph 5:27). Điều nầy có nghĩa trong sự chuẩn bị đón Chúa, mỗi ngày chúng ta nhờ Đức Thánh Linh thánh hóa đời sống và giữ vẹn khỏi mọi ô uế của thế gian (Rô 12:2).

3. Phải trung tín hầu việc Chúa.

Trong ẩn dụ về ta lâng, người chủ chỉ về Đức Chúa Trời, các đầy tớ chỉ về tín đồ, tức chúng ta (Mat 25:14-30). Ta lâng là một đơn vị tiền tệ, trọng lượng. Một ta lâng có trị giá một ngàn mỹ kim. Chữ ta lâng được dùng trong ẩn dụ nầy có thể làm biểu tượng chỉ về tất cả những gì Đức Chúa Trời ban cho chúng ta để được sử dụng cho danh Ngài. Thật ra tất cả mọi điều chúng ta có đều đến từ Đức Chúa Trời. Như vậy các ta lâng chủ giao cho đầy tớ trong ẩn dụ có thể bao gồm tài năng, ân tứ, thì giờ, sự hiểu biết, kinh nghiệm, của cải v.v…

Tóm lược qua ẩn dụ nầy bày tỏ hai ý chính sau đây:

(1) Đức Chúa Trời giao cho mỗi chúng ta một số ta lâng khác nhau. Nhận được nhiều hay ít ta lâng không quan trọng. Điểm quan trọng là trung tín sử dụng ta lâng ấy cách có ích lợi theo ý muốn và mục đích của Chúa.

(2) Mỗi người có trách nhiệm với ta lâng mình nhận trong ngày Chúa trở lại. Sự ban thưởng sẽ dành cho người trung tín, tức là người vâng lời Chúa sử dụng ta lâng theo ý chỉ của Ngài ban cho. Trái lại người không trung tín sẽ bị đoán phạt.

Những sự chuẩn bị trên có ý nghĩa gì?

– Với đời sống: Cần được tái sanh bởi Đức Thánh Linh để chúng ta được nhận vào trong Nước Chúa. Với đời sống thánh sạch, chúng ta được gặp Chúa trong sự vinh hiển và vui mừng. Với đời sống trung tín hầu việc, chúng ta gặp Chúa trong sự ban thưởng.

C. LỜI CẢNH CÁO.

Trong lời khuyên tỉnh thức trước sự tái lâm của Chúa, Kinh Thánh cũng có lời cảnh cáo chúng ta:

1. Coi chừng sự nguội lạnh (Mat 24:12).

“Lại vì cớ tội ác sẽ thêm nhiều, thì lòng yêu mến của phần nhiều người sẽ nguội dần”.

Với sự cảnh cáo nầy, chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta giữ lòng kính mến Chúa lúc ban đầu, và đầy dẫy trong chúng ta tình yêu thương của Chúa để sốt sắng hầu việc Ngài cách trung thành (1Phi 4:8-9).

2. Coi chừng sự lôi cuốn, ru ngủ của vật chất (Lu 17:26-29,32; 21:34).

Loài người bị hủy diệt trong thời Nô-ê, sự sụp đổ của thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ, sự trở thành tượng muối của vợ Lót là những tấm gương cảnh cáo chúng ta về cuộc sống đam mê các thú vui, vật chất của trần gian!

Với sự cảnh cáo nầy, hãy nhờ Đức Thánh Linh giúp chúng ta bước theo sự dẫn dắt của Chúa trước hết và thỏa lòng với đời sống “đủ ăn đủ mặc” (Gal 5:16; Mat 6:33; 1Tim 6:6-8).

3. Coi chừng sự quyến dụ của các tiên tri giả (Mat 24:11).

Hãy nhờ Đức Thánh Linh soi sáng chúng ta học biết lẽ thật Kinh Thánh, hầu giữ vững đức tin về sự cứu rỗi của chúng ta (Công 17:10-11).

Tóm lược với những điều cảnh cáo trên, chúng ta “…hãy dè giữ, mặc áo giáp bằng đức tin và lòng yêu thương, lấy sự trông cậy về sự cứu rỗi làm mão trụ” (1Tês 5:8).

Tóm lược.

1. Những lý do cần tỉnh thức đối với sự tái lâm của Chúa:

a. Vì Chúa chắc sẽ trở lại.

b. Vì ngày tái lâm của Chúa sắp gần.

c. Vì thì giờ Chúa đến là điều kín nhiệm.

d. Vì sự tái lâm của Chúa là lẽ trông cậy lớn của chúng ta.

2. Trong sự tỉnh thức, đời sống cần được chuẩn bị sẵn sàng với sự tái sanh, nên thánh, và sự trung tín hầu việc Chúa.

3. Trong sự tỉnh thức chúng ta cũng hãy coi chừng sự cám dỗ của tội lỗi, sự lôi cuốn của thế giới vật chất, và sự quyến dụ của tà thuyết giả dối.

Vậy chúng ta hãy nhờ Đức Thánh Linh chuẩn bị cho mình đời sống sẵn sàng đón tiếp Chúa bằng sự mặc lấy lòng yêu thương, đức tin, thánh sạch, và tấm lòng trung thành sốt sắng phục vụ Chúa. Với tinh thần tỉnh thức theo như lời khuyên dạy của Kinh Thánh: “Sự cuối cùng của muôn vật đã gần. Vậy hãy khôn ngoan tỉnh thức mà cầu nguyện” (1Phi 4:7), xin mỗi người trong chúng ta đặt câu hỏi nầy cho chính mình: Nếu Chúa đến hôm nay, thì tôi có sẵn sàng đón tiếp Chúa không?

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. a. Ma-thi-ơ 24:35; 2Cô-rinh-tô 3:9: Chúa Giê-xu có sự xác nhận thế nào đối với lời tiên tri về sự tái lâm của Ngài?

b. Trong Ma-thi-ơ 24:6-14, 32, Chúa Giê-xu nói đến những dấu hiệu nào? Và những dấu hiệu nầy ám chỉ về ai? Và cho điều gì?

c. Ma-thi-ơ 24:36: Có thể xác định được thì giờ tái lâm của Chúa không? Tại sao?

d. 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:2; Ma-thi-ơ 24:27,40-42. Sự hiện đến của Chúa Giê-xu được Kinh Thánh diễn tả như thế nào? Và khi Chúa đến có phải tất cả người mang danh là “tín đồ” được tiếp đi với Chúa không?

2. Xin tóm tắt những điểm cần thiết phải tỉnh thức trông đợi Chúa?

3. Mat 25:1-3: Xin tìm hiểu những biểu tượng sau đây chỉ điều gì?

– Mười người nữ đồng trinh, chàng rể, năm người dại và năm người khôn, dầu, đèn.

4. a. Tại sao năm người dại không được tiếp nhận vào tiệc cưới.

b. Tại sao họ không có dầu?

c. Ý nghĩa của ẩn dụ nầy là gì? Theo ý nghĩa nầy chúng ta cần chuẩn bị gì cho đời sống mình (Giăng 3:1-5; Rô 8:9).

5. Ê-phê-sô 5:25-27; Rô-ma 12:2; 13;11-14: Đời sống chúng ta cần phải được chuẩn bị thế nào khi gặp Chúa? Tại sao?

6. Xin đọc Ma-thi-ơ 25:14-30, và tìm hiểu những biểu tượng sau đây ám chỉ về ai và cho điều gì?

– Người chủ, đầy tớ, ta lâng.

7. Trong ẩn dụ về ta lâng xin tìm hiểu:

a. Trên tiêu chuẩn nào người chủ ban thưởng và quở phạt đầy tớ.

b. Ý nghĩa chính của ẩn dụ nầy là gì?

c. Theo ý nghĩa nầy, đời sống chúng ta cần được chuẩn bị thế nào? (1Phi 4:9-10).

8. Xin đọc những câu Kinh Thánh sau đây: Ma-thi-ơ 24:11-12; Lu-ca 17:26-32; 21:34-36, 1Phi-e-rơ 4:7-10 và ghi nhận:

a. Những điều nào chúng ta nên coi chừng, và không nên làm?

b. Những điều nào chúng ta nên làm?

9. 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:8; 1Phi-e-rơ 4:7: Làm sao chúng ta giữ vững trước những điều Kinh Thánh cảnh cáo? Xin cắt nghĩa tại sao đó là cách hữu hiệu nhất.

10. Xin tóm lược những điểm quan trọng về:

a. Lẽ cần của sự tỉnh thức.

b. Những điều cần chuẩn bị cho đời sống.

c. Những điều nên đề phòng và những điều nên làm trong sự tỉnh thức.

11. Đời sống bạn đang có Đức Thánh Linh ngự trị? Làm sao bạn biết?

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 10.05.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 10.05.2015

in NAM GIỚI on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 10.05.2015.

1. Đề tài: LỄ MẪU THÂN.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 101.

3. Câu gốc: “Tôi sẽ ăn ở cách khôn ngoan trong đường trọn vẹn; ồ! Chúa chừng nào sẽ đến cùng tôi? Tôi sẽ lấy lòng trọn vẹn mà ăn ở trong nhà tôi” (Thi 101:2).

4. Đố Kinh Thánh: E-xơ-ra 5-10.

5. Thể loại: Kịch 5’.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 01.02.2015.

* CÂU CHUYỆN THAM KHẢO.

PHƯỚC CHO NGƯỜI HIẾU KÍNH CHA MẸ.

Federick, vua nước Prussia xưa là một vị vua rất thương dân. Một hôm ông bấm chuông gọi người hầu, nhưng không thấy anh vào. Ông liền bước ra để tìm. Ông thấy anh đang úp mặt ngủ mê. Ông rón rén lại gần và thấy có một bức thơ ở túi anh lộ ra ngoài. Ông tọc mạch rút nhẹ ra xem. Đây là bức thư của mẹ anh gởi đến cám ơn anh lâu nay đã nhịn ăn mặc tiêu pha gởi một phần lương mình về nuôi bà.

Sau khi đọc xong, vua bước nhẹ về phòng lấy một túi bạc đầy, rón rén nhét vào túi anh với cả bức thư mẹ anh nữa. Xong, ông bước vào phòng nhấn chuông mạnh hơn. Anh hầu phòng tỉnh dậy sợ hãi chạy ra trình diện. Vua nói: Chà, anh ngủ ngon quá!

Anh hầu chẳng biết chữa lỗi ra sao, nên bối rối bỏ tay vào túi. Tay anh đụng vào bức thư và túi bạc. Anh móc túi bạc ra và tái mặt khóc oà, không nói được một lời. Vua hỏi: Sao, có điều gì vậy?

Anh tâu: Kính tâu hoàng thượng!

Rồi sấp mình dưới chân vua và tâu thêm: Tâu có người muốn hại con. Con chẳng hiểu biết gì về túi bạc nầy cả. Con vừa rờ phải trong túi con đây.

Vua đáp: Hỡi người bạn trẻ ơi! Thường thường Đức Chúa Trời cũng thi hành công việc lớn lao cho chúng ta trong khi chúng ta ngủ chớ… Anh hãy gởi số bạc đó cho mẹ anh và thay tôi chào thăm mẹ anh, và nói rằng tôi sẽ chăm nom cả mẹ anh và anh nữa.

Con cháu biết hiếu kính và tôn trọng cha mẹ thì Chúa không quên bỏ đâu. Chúa thường ban thưởng những người con, cháu biết tưởng nhớ, giúp đỡ ông bà, cha mẹ. Con cháu ngỗ nghịch không vâng lời cha mẹ, bất hiếu thì bị Chúa rủa sả (Ê-phê-sô 6:1-3).

PHẦN THƯỞNG CỦA NGƯỜI HIẾU KÍNH CHA MẸ.

Vua Gustave III của Thụy Điển xưa, ngày kia một mình cỡi ngựa ngang qua một làng quê gần kinh đô. Vua khát nước mà bầu nước đem theo đã hết, lại không có quân hầu đi theo nên không sao có nước uống. Bỗng vua thấy có một cô gái đang múc nước ở một giếng nước bên đường, vua bèn thúc ngựa chạy đến xin nước uống. Cô thiếu nữ nghe xin vội vàng đổ vò nước mời vua uống. Uống xong, vua nói: Cám ơn cô cho tôi uống nước. Nếu cô bằng lòng theo tôi về Stockhom, tôi sẽ cho cô một địa vị tốt đẹp hơn.

Cô gái đáp: Thưa ông, tôi không thể nhận lời đề nghị của ông được. Tôi không có ý leo lên địa vị cao hơn địa vị mà Chúa đã cho tôi. Vả lại, tôi không muốn đi đâu xa đây cả.

Vua ngạc nhiên hỏi: Sao vậy cô?

Cô gái thưa: Vì mẹ tôi nghèo và bệnh hoạn chẳng có ai giúp đỡ, yên ủi trong cơn đau đớn, buồn thảm. Tôi không thể rời bỏ mẹ tôi được. Không có gì có thể khiến tôi bỏ phận sự làm con đối với mẹ tôi được.

Vua hỏi: Hiện thời mẹ cô ở đâu?

Cô đáp: Thưa, ở trong cái chòi kia!

Cô vừa nói vừa chỉ vào cái lều lụp xụp, tồi tàn. Vua xin phép theo cô đến thăm. Khi vua bước vào, thấy một bà già tàn tật ngồi trên một cái giường rơm rất thương tâm, vua nói: Thưa bà, tôi rất buồn khi thấy bà trong cảnh đau yếu đáng thương thế nầy.

Bà cụ nói: Thưa ông, tôi thật đáng thương, nhưng tôi vẫn quan tâm, thương xót đứa con gái đã làm việc mệt nhọc để nuôi tôi và giúp tôi không thiếu thứ gì. Nó an ủi tôi nhiều lắm. Cầu xin Chúa nhớ đến điều lành mà con tôi đã làm cho tôi.

Nói xong, bà lấy tay lau nước mắt. Vua Gustave vô cùng xúc động. Chưa khi nào vua cảm động bằng lần nầy khi nghe lời nói của bà và lòng chí hiếu của người con gái. Vua liền rút ra một túi bạc đặt vào tay thiếu nữ và nói: Hãy tiếp tục săn sóc và chăm nom mẹ cô. Tôi sẽ sớm giúp cô hiệu quả hơn để cô có thể săn sóc mẹ cô tốt đẹp hơn. Tôi xin từ giã cô. Cô hãy tin tưởng vào lời hứa của vua cô nhé!

Thế rồi sau khi về hoàng cung ở Stockhom, vua liền cấp cho mẹ cô gái một trợ cấp trọn đời, và khi mẹ cô qua đời, cô vẫn tiếp tục được thừa hưởng nữa.

MẸ ƠI! CON CHỈ CẦN MẸ.

Một cô bé nọ bị tàn tật lâu năm và phải ở mãi trong nhà. Thế nhưng mẹ cô bé lại là một người đàn bà ham vui. Bà không thích ở nhà mãi với con mình nên thuê một người vú em về chăm sóc cô bé. Bà đi du lịch khắp nơi và thỉnh thoảng gởi quà về cho con mình. Đôi khi bà gởi sách vở hoặc hình ảnh và cũng có khi gởi đồ nữ trang nữa.

Vào ngày sinh nhật của cô bé, bà gởi về tặng cho con một lọ cắm hoa của Ý rất đẹp. Khi người vú em mang tới, cô bé nhìn chiếc lọ rồi bảo: Cất đi, cất đi! Đừng gởi quà về cho con nữa! Con không cần sách vở, không cần hình ảnh hoặc lọ hoa đâu. Mẹ ơi, con chỉ cần mẹ thôi!

Rồi cô oà lên khóc nức nở.

Biết bao người tin Chúa nhưng cứ đòi giàu sang, may mắn, đòi ơn phước nầy nọ, cứ đòi mãi. Cho đến khi nào chúng ta cảm biết rằng “Tôi chỉ cần một mình Chúa thôi”, lúc đó đức tin chúng ta mới trưởng thành và ơn phước của Chúa tự nhiên sẽ theo chúng ta, như Đa-vít đã nói “Phước hạnh và sự thương xót sẽ theo tôi” (Thi 23:6).

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 03.05.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 03.05.2015

in NAM GIỚI on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 03.05.2015.

1. Đề tài: NƯỚC VINH HIỂN ĐỜI ĐỜI.

2. Kinh Thánh: 2Phi-e-rơ 3:9-14; Khải Huyền 21:1-8.

3. Câu gốc: “Vả, theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở” (2Phi 3:13).

4. Đố Kinh Thánh: E-xơ-ra 1-4.

5. Thể loại: Phỏng vấn.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 22.02.2015.

* GỢI Ý PHỎNG VẤN.

(Sau khi người hướng dẫn giới thiệu thể loại chương trình thờ phượng, phóng viên từ dưới phòng nhóm đi lên và Phi-e-rơ từ ngoài bước vào).

– Phóng viên: Dạ xin  kính chào cụ Phi-e-rơ!

– Phi-e-rơ: Chào các cháu!

– PV: Chúng cháu rất vui vì được cụ đến thăm hôm nay. Thay cho các bạn thanh niên trong Hội Thánh, cháu xin có lời chào mừng và hoan nghênh cụ. Nhân buổi gặp gỡ nầy cụ có thể giúp chúng cháu tìm hiểu về Nước vinh hiển đời đời xảy ra trong tương lai không thưa cụ?

– Phi-e-rơ: Được, các cháu cứ hỏi, ta sẽ giúp các cháu trong khả năng của ta.

– PV: Xin cụ vui lòng cho chúng cháu biết vì sao Chúa chưa trở lại?

– Phi-e-rơ: Theo 2Phi 3:9 cho biết lý do Chúa chưa trở lại là vì cớ chờ đợi người có tội ăn năn, chớ chẳng phải Ngài không trở lại.

– PV: Thưa cụ, có hình ảnh nào để minh chứng chắc chắn Chúa sẽ trở lại để chúng cháu giúp đỡ những người còn nghi ngờ hoặc hờ hững với sự tái lâm?

– Phi-e-rơ: Các cháu có thể dùng nhiều lời tiên tri của Chúa Giê-xu, các tiên tri, và các sứ đồ được chép trong Kinh Thánh để dẫn chứng trong khi nói chuyện với những người vô tín. Các cháu cũng có thể dùng hình ảnh cơn nước lụt trong thời Nô-ê để minh chứng Đức Chúa Trời đã hủy diệt thế giới loài người gian ác bằng cơn nước lụt.

– PV: Cám ơn cụ về sự giúp đỡ nầy. Thưa cụ, trong ngày cuối cùng Đức Chúa Trời sẽ hủy diệt thế giới tội lỗi nầy như thế nào?

– Phi-e-rơ: Theo lời Chúa, trời đất vẫn được giữ nguyên để dành cho lửa trong ngày phán xét sau cùng. Sự phán quyết của Kinh Thánh là lời cảnh cáo người vô tín và nhắc nhở những ai còn nghi ngờ về sự tái lâm của Đấng Christ.

– PV: Cụ có thể mô tả rõ ràng về ngày tận cùng của muôn vật không thưa cụ?

– Phi-e-rơ: Lời Chúa chép: “Các thể chất bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả… các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán” (2Phi 3:10,12).

– PV: Thưa cụ, khi nào Chúa dựng nên trời mới, đất mới và dựng nên như thế nào?

– Phi-e-rơ: Phía sau của sự tiêu hủy thế giới cũ đầy tội lỗi, một khung cảnh huy hoàng tinh khiết của trời mới đất mới hiện ra. Sự dựng nên mới nầy đã được tiên tri Ê-sai dự ngôn và trong sự hiện thấy của sứ đồ Giăng (Ê-sai 66:22; Khải 21:1).

– PV: Thưa cụ, tại sao Đức Chúa Trời tiêu hủy công việc sáng tạo, là công việc mà trước kia Ngài phán thật rất “tốt lành” và dựng nên trời mới, đất mới?

– Phi-e-rơ: Mọi công việc Ngài làm đều rất toàn hảo. Nhưng tiếc thay vì sự xâm nhập của tội lỗi, vì sự bất tuân của loài người nên con người không những chịu sự đoán phạt của Đức Chúa Trời mà còn gây ảnh hưởng tai hại cho mặt đất. Chính vì vậy, Đức Chúa Trời đốt cháy trời đất trong ngày phán xét cuối cùng để thanh lọc người ác, tẩy sạch vật sáng tạo vì đã bị uế nhiễm bởi tội lỗi.

– PV: Xin cụ vui lòng cho chúng cháu biết thêm về Nước vinh hiển.

-Phi-e-rơ: Nước vinh hiển là Nước toàn thiện của Ngài trên đất. Là nơi “sự công bình ăn ở”, nơi không có bóng của tội lỗi, nơi dành cho người được chuộc bởi ân điển Ngài (2Phi 3:13).

– PV: Thưa cụ, vậy là cuộc sống của con người nơi Nước vinh hiển khác hẳn cuộc sống nơi thế giới cũ tội lỗi phải không cụ?

– Phi-e-rơ: Các cháu nói rất đúng. Sự khác biệt nầy có thể thấy rõ trong những điểm sau đây:

– Trong thế giới cũ con người bị bịnh tật, sự chết, nước mắt, buồn rầu, đau đớn, tội lỗi, và cách xa Đức Chúa Trời.

– Nhưng trong Nước vinh hiển con người được sự sống đời đời, vui mừng, thánh khiết, phước hạnh trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời.

– PV: Cám ơn cụ đã giúp chúng cháu hiểu rõ hơn về Nước vinh hiển trong tương lai. Biết rõ điều nầy chúng cháu hứa sẽ giúp người khác hiểu biết về Nước vinh hiển và có sự ước ao vào sống trong Nước vinh hiển.

NHD: Thưa các bạn! Chúng ta vừa nghe cụ Phi-e-rơ giãi bày về Nước vinh hiển trong tương lai. Nguyện Chúa Thánh Linh ban năng lực để các bạn làm trọn những điều mình hứa nguyện với Chúa qua bài học nầy. Mời các bạn đứng lên và mời cụ Phi-e-rơ cầu nguyện cho chúng cháu.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Thế giới chúng ta đang sống là thế giới đầy dẫy nan đề vượt quá tầm tay của con người. Mặc dầu sự tiến bộ của khoa học hiện đại có thể giải quyết được một số vấn đề nhất thời của nhân loại nhưng con người không có cách nào để ngăn chận sức lan tràn của tội lỗi đang bành trướng mỗi ngày một thêm. Sự băng hoại đạo đức bên trong lòng người đã đến mức độ trầm trọng. Đó là nguyên nhân của bạođộng, xáo trộn không dừng mà chúng ta thấy khắp nơi trong xã hội loài người. Như thế tình trạng nầy cứ tiếp diễn mãi theo sự xoay vần của trái đất và bất biến với thời gian không? Thế giới loài người sẽ đi về đâu?

Kinh Thánh đã nói đến sự bắt đầu của thế giới, và cũng nói đến ngày cuối cùng của muôn vật. Điều nầy sẽ xảy ra như thế nào? Bên kia sự tận cùng là gì? Và có mục đích gì trong chương trình sáng tạo và cứu rỗi của Đức Chúa Trời đối với loài người trên đất?

I. DẪN GIẢI.

A. SỰ CUỐI CÙNG CỦA MUÔN VẬT.

1. Nền tảng Kinh Thánh về ngày tận thế.

Ngày tận thế là điều chắc chắn theo như lời tiên tri trong Kinh Thánh.

– Mathiơ 24:3-14: Chính Chúa Giê-xu đã bày tỏ cho môn đồ biết những biến cố sẽ xảy ra dẫn đến ngày tận thế.

– 1Phi-e-rơ 4:7: Sứ đồ Phi-e-rơ cũng đã cảnh tỉnh con cái Chúa về sự cuối cùng của muôn vật hầu gần.

– 2Phi-e-rơ 3:3-9: Chúa không chậm trễ về sự hiện đến của Ngài. Lý do Ngài chưa đến là vì cớ chờ đợi người có tội ăn năn, chớ không có nghĩa Ngài sẽ không trở lại để thi hành sự đoán phạt thế gian. Trong thời Nôê, thế giới loài người đã có lần bị hủy diệt bằng cơn nước lụt. Tuy nhiên, trời đất theo lời Chúa vẫn được giữ nguyên để dành cho lửa trong ngày phán xét sau cùng của nhân loại. Sự phán quyết của Kinh Thánh là lời cảnh cáo người vô tín khinh lờn về ngày chung kết của thế gian, và nhắc nhở những ai còn nghi ngờ về sự tái lâm của Đấng Christ.

2. Thời điểm và diễn tiến về sự tận cùng của muôn vật.

Theo các diễn tiến nói đến trong Khải Huyền 20:7,11, thì biến cố của ngày tận thế sẽ xảy ra sau thời đại Thiên hi niên, và trước ngày phán xét cuối cùng của thế giới. “Bấy giờ tôi thấy một tòa lớn và trắng cùng Đấng đương ngồi ở trên; trước mặt Ngài trời đất đều trốn hết” (c.11).

Sự tận cùng của muôn vật được mô tả trong biến động với tiếng vang rền của các từng trời, sự đốt cháy của lửa và hết thảy đều bị thiêu hủy: “Các thể chất bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả… các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán” (2Phi 3:10,12).

B. SỰ DỰNG NÊN TRỜI MỚI ĐẤT MỚI.

Phía sau của sự tiêu hủy thế giới cũ đầy tội lỗi, một khung cảnh huy hoàng tinh khiết của trời mới đất mới hiện ra. Sự dựng nên mới nầy đã được tiên tri Ê-sai dự ngôn và trong sự hiện thấy của sứ đồ Giăng (Ê-sai 66:22; Khải 21:1).

Trong Sáng 1:1-3; Giăng 1:3, bày tỏ sự dựng nên muôn vật là công việc của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Và trong sự làm mới muôn vật cũng là công việc của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Trong Khải 21:6, Đức Chúa Trời được xưng bằng danh hiệu “An-pha và Ô-mê-ga”, là danh hiệu cũng được dùng cho Đức Chúa Con. Điều nầy cho thấy sự bình quyền và đồng công của Đức Chúa Trời Ba Ngôi.

Nói đến sự dựng nên mới, có thể một câu hỏi được nêu lên: Tại sao Đức Chúa Trời tiêu hủy công việc sáng tạo trước kia, là công việc mà Ngài phán thật rất “tốt lành” và dựng nên trời đất mới? Chúng ta có thể tìm thấy trong những lý do sau đây:

Đức Chúa Trời là Đấng Toàn thiện, Toàn mỹ. Mọi công việc Ngài làm đều toàn hảo. Nhưng tiếc thay vì sự xâm nhập của tội lỗi, trên trời với sự dấy loạn của Lu-xi-phe đã kéo theo một số thiên sứ, kết hợp thành nước của sa-tan chống nghịch với Đức Chúa Trời (Êph 6:12); dưới đất, sa-tan cám dỗ loài người bất phục Đức Chúa Trời, sự phạm tội của loài người chẳng những chuốc lấy sự đoán phạt của Đức Chúa Trời, lại còn gây ảnh hưởng tai hại cho mặt đất (Sáng 3:17-19). Cho nên với sự đốt cháy trời đất trong ngày phán xét cuối cùng, Đức Chúa Trời có mục đích thanh lọc người ác, tẩy sạch vật sáng tạo vì đã bị uế nhiễm bởi tội lỗi và dựng nên mới là để bắt đầu cho Nước vĩnh viễn, toàn thiện của Ngài trên đất, nơi “sự công bình ăn ở”, nơi không có bóng của tội lỗi, dành cho người được chuộc bởi ân điển Ngài (2Phi 3:13).

C. THÀNH GIÊ-RU-SA-LEM MỚI.

Trong cảnh trời mới, đất mới, thành Giê-ru-sa-lem mới cũng được xuất hiện. Tính từ “mới” diễn tả trọn vẹn sự toàn hảo, trong sạch của nước vinh hiển đời đời. Danh hiệu Giê-ru-sa-lem mới còn được gọi là “Thành của Đức Chúa Trời”, “thành thánh”, “vợ mới cưới là vợ Chiên Con” (Khải 3:12; 21:1,9). Những danh hiệu nầy có thể bao gồm hai ý như sau: (1) Giê-ru-sa-lem mới nói về thủ đô của nước Đức Chúa Trời, với sự ngự trị của Ngài ở giữa dân sự Ngài (Khải 21:3). (2) Giê-ru-sa-lem mới ám chỉ người, một tập thể của những người được chuộc, tức là Hội Thánh của Đấng Christ. Trong ý nghĩa nầy, Giê-ru-sa-lem mới cũng được gọi là “Giê-ru-sa-lem ở trên cao” (Gal 4:26).

Theo Khải Huyền 21:9-22:5, Giê-ru-sa-lem mới được diễn tả như sau: Là một thành hình vuông lập phương, có cạnh dài khoảng 1.500 dặm, chiếm diện tích 2.250.000 dặm vuông. Thành có một bức tường cao lớn, với 12 cửa, mỗi cửa làm bằng hột châu nguyên khối. Các cửa được sắp theo bốn hướng; ba cửa phía Đông, ba cửa phía Tây, ba cửa phía Nam và ba cửa phía Bắc. Mỗi cửa đề tên một chi phái Y-sơ-ra-ên. Tường thành được đặt trên 12 nền, trên đó có đề tên 12 sứ đồ. Mỗi nền được trang điểm bằng một thứ ngọc quí như bích ngọc, đá lam bửu, lục mã não, lục cẩm, hồng mã não, hoàng ngọc, ngọc hoàng bích, ngọc thủy thương, ngọc hồng bích, ngọc phỉ túy, hồng bửu, tử bửu. Đường phố lót bằng vàng ròng. Ở giữa thành và trên hai bờ sông có cây sự sống trổ mỗi tháng một mùa. Thành không cần mặt trời vì Chiên Con là sự sáng của thành.

Thành Giê-ru-sa-lem mới theo sự diễn tả trên cho chúng ta thấy có những đặc điểm và ý nghĩa sau đây:

(1) Đây là một thành thực sự.

(2) Đây là thành thánh từ trời, ở nơi Đức Chúa Trời hiện xuống, là thành mà các nhà giải kinh cho là nơi Chúa Giê-xu phán hứa với môn đồ trước khi Ngài về trời (Giăng 14:3).

(3) Đây là thành có sự ngự trị của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Đức Cha là Đền thờ của thành, Đức Con là Sự sáng của thành và Đức Thánh Linh là Sự sống của thành.

(4) Thành của sự cứu rỗi và sự cứu rỗi đến từ tuyển dân Y-sơ-ra-ên. Tên 12 chi phái ghi mỗi cửa tiêu biểu cho tuyển dân Y-sơ-ra-ên. Hạt châu làm cửa chỉ về Chúa Giê-xu, Đấng được sanh ra trong dòng dõi Đa-vít, là “Cửa” dẫn vào sự cứu rỗi (Giăng 4:22;10:9).

(5) Một thành bao la rộng lớn như được mô tả trong kích thước (Khải 21:16).

(6) Một thành hoàn hảo. Kiểu hình vuông lập phương, Kinh Thánh thường dùng làm tiêu biểu cho sự hoàn hảo trọn vẹn (Xuất 27:1; 30:2; 1Vua 6:20).

(7) Một thành được xây trên nền xinh đẹp vô cùng (Khải 21:18-19). Nền chỉ về các sứ đồ trong sự xây dựng Hội Thánh trên lẽ thật của Tin Lành (Êph 2:20).

(8) Một thành của vua vinh hiển, rực rỡ, vinh quang như được diễn tả trong chất liệu kiến trúc bằng vàng ròng (Khải 21:18).

(9) Cây sự sống của vườn Ê-đen mà loài người đã đánh mất được tìm lại trong thành Giê-ru-sa-lem mới.

(10) Dân sự của thành Giê-ru-sa-lem mới là người có tên trong sách sự sống, tức là người được cứu chuộc bởi huyết của Đấng Christ.

Qua những đặc điểm trên cho thấy người trong trời mới đất mới và Giê-ru-sa-lem mới khác hẳn với cảnh trạng của người trong thế giới cũ. Sự khác biệt nầy có thể thấy rõ trong những điểm sau đây:

– Trong thế giới cũ: Bịnh tật, sự chết, nước mắt, buồn rầu, đau đớn, tội lỗi, và cách xa Đức Chúa Trời.

– Trong thành Giê-ru-sa-lem mới: Sự sống đời đời, vui mừng, thánh khiết, phước hạnh, không có ban đêm, và ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời mãi mãi.

Khi cảnh trời mới đất mới xuất hiện, chúng ta nghe có tiếng phán của Đức Chúa Trời “Xong rồi” (Khải 21:6). Lời phán nầy có thể xem như một lời tuyên bố về sự hoàn thành chương trình vĩ đại của Đức Chúa Trời trong công cuộc sáng tạo và cứu chuộc loài người. Và sự lập nước vĩnh viễn cho người được chuộc là cứu cánh cuối cùng của chương trình cứu rỗi của Ngài.

Một tuyệt điểm của tình yêu thương Ngài được chiếu sáng trong quang cảnh rực rỡ của thành Giê-ru-sa-lem mới với những người được chuộc bởi ân điển Ngài qua sự xả thân của Đấng Christ.

Một câu hỏi có thể nêu lên là: Khi nước Thiên hi niên đi vào nước vĩnh viễn, nghĩa là từ vương quốc của Đấng Christ đến vương quốc của Đức Chúa Trời theo điều nói đến trong 1Cô-rinh-tô 15:24-28, thì quyền trị vì của Đấng Christ có chấm dứt không hay vẫn tiếp tục?

Theo sự bình giải của Me Alaim, vấn đề trên có thể hiểu như sau:

(1) Khi người thù sau cùng của Đức Chúa Trời là sa-tan đặt dưới chân của Đấng Christ, Vua Trung Bảo, bấy giờ mục đích của nước Thiên hi niên hay vương quốc trung bảo sẽ được trọn.

(2) Lúc đó Đấng Christ sẽ trao vương quốc trung bảo cho Đức Chúa Trời để trở thành vương quốc vĩnh viễn. Không có sự phân chia nào giữa hai vương quốc nầy (1Côr 15:24-26).

(3) Đây không có nghĩa chấm dứt quyền tể trị của Đấng Christ. Ngài chỉ dừng chức vụ trung bảo, nhưng vì là Con, vị phẩm Ngôi Hai trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời hiệp nhất, Ngài sẽ tiếp tục trị vì với Chúa Cha trong cõi đời đời. Vinh dự của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh được thấy rõ trong vương quốc thần quyền vĩnh viễn, một sự hiệp một trọn vẹn trong sự tể trị muôn vật (Khải 21:10; 22:1-5; Giăng 17:23).

Tóm lược.

1. Trong ngày cuối cùng của thế giới, trời đất sẽ bị thiêu hủy bằng lửa. Trời mới đất mới sẽ được dựng nên để làm nơi ở vĩnh viễn cho người công bình.

2. Giê-ru-sa-lem mới là thủ đô của Nước vĩnh viễn đời đời. Đây là thành thánh, từ trời giáng xuống với sự ngự trị của Ba Ngôi Đức Chúa Trời, đầy dẫy vinh hiển, rực rỡ oai nghiêm.

3. Trong thành Giê-ru-sa-lem mới không còn có sự chết, nước mắt và đau khổ.

4. Chỉ có người được ghi tên trong sách sự sống của Chiên Con mới được nhận làm công dân của Nước vĩnh viễn.

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. a. Ma-thi-ơ 24:3-14: Chúa Giê-xu cho môn đồ biết trước điều gì sẽ xảy đến cho thế giới?

b. 1Phi-e-rơ 4:7: Sứ đồ Phi-e-rơ nhắc con cái Chúa điều gì?

c. 2Phi 3:9-12; Khải 20:7,11: Sự cuối cùng của muôn vật sẽ được xảy ra khi nào? Tại sao chúng ta biết điều nầy là chắc chắn?

2. Xin tóm lược những điểm quan trọng làm dẫn chứng cho người không tin có sự tận thế hay còn nghi ngờ về lời hứa của Chúa (2Phi 3:3-7).

3. a. Ê-sai 66:22; Khải Huyền 21:1: Sau sự tiêu hủy muôn vật sẽ có điều gì?

b. Ê-sai 65:17; Khải Huyền 21:6 so sánh với Sáng Thế Ký 1:1; Giăng 1:3: Trời mới đất mới sẽ do ai dựng nên?

4. Sáng 3:17-19,22-24;6:5-6; 2Phi-e-rơ 3:12-13: Tại sao thế giới bị hủy diệt và sự dựng nên trời mới và đất mới nhằm mục đích gì?

5. a. Khải Huyền 21:3;3:12;21:9: Thành Giê-ru-sa-lem mới còn được gọi bằng những danh hiệu nào khác và có nghĩa gì?

b. Khải Huyền 22:3,10,22-23: Trong thành Giê-ru-sa-lem mới có sự hiện diện của ai?

c. Khải Huyền 21:9-22:5. Cho biết về sự xây cất, kích thước của thành Giê-ru-sa-lem. Quang cảnh nầy có ý nghĩa gì?

d. Khải Huyền 22:8,27. Điều kiện nào để được trở thành công dân của thành Giê-ru-sa-lem mới?

6. a. Xin tóm lược những đặc điểm của thành Giê-ru-sa-lem mới.

b. Người ở trong thành Giê-ru-sa-lem mới được hưởng những phước hạnh gì? So sánh người trong thành Giê-ru-sa-lem mới với thế giới cũ (Khải 21:3-4,23-27).

7. a. Khải Huyền 21:6: Đức Chúa Trời xưng Ngài trong danh hiệu nào? Và danh hiệu nầy cũng được ai xưng nữa? (Khải 1:17; 22:13. Điều nầy có nghĩa gì?

b. Lời phán của Đức Chúa Trời “xong rồi” trong Khải 21:1-6, có nghĩa gì đối với chương trình sáng tạo và cứu chuộc của Ngài?

8. Bạn có đủ điều kiện được nhận vào Nước vinh hiển đời đời không? Vì sao bạn biết?

BẢN TIN CẦU THAY &CẢM TẠ SỐ 4 – Tháng 4/2015

BẢN TIN CẦU THAY &CẢM TẠ SỐ 4 – Tháng 4/2015

in CẦU THAY & CẢM TẠ on 22 Tháng Tư, 2015

VIỆC LỚN CHÚA LÀM

BẢN TIN CẦU THAY &CẢM TẠ SỐ 4 – Tháng 4/2015

Để bài làm chứng và cảm tạ được phong phú, chúng tôi rất cần lời làm chứng của tất cả quý đầy tớ Chúa về những việc quyền năng mà Đức Chúa Trời đã làm trong Hội Thánh và khu vực của quý vị. Cứ mỗi một hoặc hai tháng, xin quý đầy tớ Chúa vui lòng dành chút thời gian gửi cho chúng tôi vài dòng làm chứng. Chúng tôi tin chắc chắn rằng Chúa sẽ dùng những lời chứng nầy để nâng đỡ, khích lệ, làm mạnh mẽ sự hầu việc Chúa của nhiều Mục sư, Tín hữu khác.

Ngoài hai vị MS thường xuyên góp phần trong mục vụ nầy là MSNC Giàng A Pảo và MSNC Giàng Quang Sở, nay Chúa cho có thêm thầy Trần Văn Quảng. Hy vọng trong tháng tới sẽ có nhiều bài làm chứng từ quý đầy tớ Chúa. Chân thành cảm ơn.

Lời Làm Chứng Của Thầy Trần Văn Quảng – Hội Thánh EadRăng, Đăk Lăk. 

 

Vào khoảng đầu tháng 1 năm 2015,chúng tôi ra thăm mẹ thầy Thoại ở Komtum, bệnh viện đã trả mẹ của thầy về để chờ ngày về với Chúa.Họ đã khoét một phía bên hông của bà để dẫn chất thải ra ngoài.Chúng tôi đã cầu nguyện cho bà và bây giờ bà đã đi ngoài như một người bình thường,vết khoét đã lành. Tên bà là Y Đay, năm nay 69 tuổi.Qua đó con của bà tức là thầy Thoại đã mạnh mẽ trở lại.

 

Còn người thứ hai là chị của Thầy A Net bị bệnh phổi, khi chúng tôi cầu nguyện thì chị đã được chữa lành. Qua đó,có một hội thánh độc lập gia nhập với HTTGPA.

 

Nhờ MS Đoàn Anh Tuấn hướng dẫn tôi cách vừa cầu nguyện nhân danh Chúa Giê-xu vừa cầm tay người bệnh bước đi. Đó là điều tôi chưa bao giờ làm trong 19 năm hầu việc Chúa. ChiềuChúa Nhật 12/4/15, cháu Y Luât 13 tuổi, bệnh viện trả về. Đến nhà, tôi thấy cháu nằmgiữa nhà đắp mềm, cứ ba phút lên cơn co giật. Chúng tôi, các cháu thiếu nhi cùng với cháu Y Luât hiệp ý cầu nguyện. Tôi nhớ điều MS Tuấn hướng dẫn, tôi hỏi cha mẹ cháu Y Luât có tin Chúa làm phép lạ không?Họ trả lời có.Sau đó, chúng tôi hát Thánh Ca.Tôi mời các anh em cầu nguyện, rồi tôi vừa cầu nguyện nhân danh Chúa Giê-xu vừa cầm tay cháu Y Luât dắt đi. Sau cháu ra mồ hôi,rồi cháu ăn và hết bệnh. Ha-lê-lu-gia, Chúa thật Quyền Năng!

 

Lời Làm Chứng Của MSNC Giàng A Pảo – Hội Thánh Tắc Cai 2.

 

Chiều Chúa Nhật 5/4/2015, chúng tôi có tổ chức Lễ Kỷ Niệm Chúa Phục Sinh. Sau bài giảng và kêu gọi có một bà tiếp nhận Chúa.Khi bà về tới nhà, chồng bà là Sùng Seo Lùng bị ma nhập, phá rối vợ con và gia đình, đồng thời ông cũng đốt luôn quyển Kinh Thánh.Ông còn nói khi nào vợ ông đi nhóm ông sẽ giết luôn để xem Hội Thánh sẽ làm gì ông!

 

Nghe vậy, tôi cùng với MSQN Giàng Seo Sì và thầy Giàng Seo Nhà hiệp lại tại nhà thầy Nhà cầu nguyện cho ông bà. Chúng tôi nhân danh Chúa Giê-xu mà đuổi quỷ ra khỏi ông Lùng. Hai đứa con của ông bà Lùng trên đường về nhà, khoảng giữa đường, người anh chạy trước, người em chạy sau cách khoảng 10 m. Người em thuật lại là em thấy một cái gì đen xì bèn la lớn tiếng lên. Về đến nhà, người anh hỏi sao em la lớn như vậy, người em thuật lại câu chuyện. Điều kỳ diệu làkhi bước vào nhà thì cha của họ, ông Sùng Seo Lùng đã bình phục hoàn toàn như chẳng có việc gì xảy ra trước đó. Sáng thứ hai 06/04/2015,người anh đến nhà tôi cảm tạ Chúa và cảm ơn chúng tôiđã cầu nguyện cho cha của họ. Tôi thật vui mừng, cảm tạ Chúa vô cùng vì Ngài cho phép lạ xảy ra lớn quá!

 

Lời Làm Chứng Của MSNC Giàng Quang Sở – Hội Thánh Tắc Cai 1.

 

Tối thứ Tư 18/2/2015, em Giàng Quang Diu trong Hội Thánh tôi bị đau sau lưnglàm choem rất khó cử động. Sáng ngày 19/2/2015 tức mùng một Tết Âm Lịch lúc 6:30, em Diu gọi ĐT nhờ tôi cầu nguyện Chúa chữa lành. Khi hai vợ chồng tôi đến nơi thì thấy người em không cử động được, em cho chúng tôi biết rằngsáng nay em không thể hướng dẫn chương trình được. Sau khi tôi đặt tay cầu nguyện xong thì em được lành bệnh, và 20 phút sau, em có mặt tại Hội Thánh hướng dẫn chương trình thờ phượng Tết mừng năm mới. Thật cảm ơn Chúa.

 

Tối thứ Năm 2/4/2015, có một chị tín đồ được Chúa chữa lành. Chị tên là Giàng Thị Chá. Chị đi rừng và bị đau tê cả thân thể. Hai đùi bị tê cứng khó hoạt động, còn hai bàn chân thì bị ung độc. Chị bị bệnh nầy đã 2 ngày trên rừng, tối lúc 6:30 ngày 2/4/2015, chúng tôi đi đến nhà nguyện cầu nguyện, thì hai vợ chồng chị đến xin tôi cầu nguyện xin Chúa chữa lành. Sau khi chúng tôi đặt tay cầu nguyện thì bệnh đã bớt đi khoảng 60% và đến ngày hôm sau 3/4/2015 thì bệnh đã hết hoàn toàn. Cả những ung độc ở bàn chân cũng hết. Cảm ơn Chúa.

 

MS Đoàn Anh Tuấn – Chịu trách nhiệm thu nhận những báo cáo, hiệu đính và gửi về cho Tổng Hội. Nếu quý Đầy Tớ Chúa nào được sự cảm động, muốn tham gia mạng lưới cầu nguyện hoặc muốn gửi những nan đề cần cầu thay, những lời làm chứng hoặc cảm tạ, xin liên lạc và gửi điện thư cho MS Đoàn Anh Tuấn tại địa chỉsau:gabrieljdoan1@yahoo.com. ĐT: (864) 373-4146.

Tháng 4/2015