Chuyên mục: NHI ĐỒNG

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 28 Tháng Năm, 2024

BÀI 5. GIÔ-SÉP VÀ CÁC ANH

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 37:1-35.

II. CÂU GỐC: “Kìa, anh em ăn ở hòa thuận nhau thật tốt đẹp biết bao!” (Thi Thiên 133:1).

III. BÀI TẬP.

A. CÙNG SUY NGHĨ.

* Em xem hình và trả lời các câu hỏi sau.

  1. Khi Giô-sép được cha cho chiếc áo nhiều màu, các anh của chàng đã có thái độ như thế nào?

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

  1. Thái độ đó đã làm cho các anh Giô-sép có những hành động gì?

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

  1. Nếu các anh Giô-sép có lòng yêu thương và nhân ái, thì mọi việc sẽ trở nên thế nào?

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

B. EM CÓ THỂ LÀM VIỆC GÌ CHO HỌ?

* Em có thể viết hoặc vẽ hình việc mà em có thể làm cho những người em yêu mến dưới đây.

__________________(Họ và tên của em).

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 28 Tháng Năm, 2024

BÀI 5. GIÔ-SÉP VÀ CÁC ANH

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 37:1-35.

II. CÂU GỐC: “Kìa, anh em ăn ở hòa thuận nhau thật tốt đẹp biết bao!” (Thi Thiên 133:1).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Giô-sép bị các anh ganh ghét, đối xử không tốt.

– Cảm nhận: Lòng ghen ghét phát sinh những điều xấu. Chúa muốn các em sống yêu thương, hòa thuận với mọi người.

– Hành động: Cầu xin Chúa giúp đỡ em sống yêu thương, hòa thuận với mọi người.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

     * Con Rối Cây.

  1. Mục đích: Giúp các em nhận biết Giô-sép và các anh em của Giô-sép.
  2. Vật liệu: Giấy bìa, viết chì, kéo, keo, viết màu.
  3. Thực hiện: Làm theo hướng dẫn ở phần phụ lục ”CON RỐI HÌNH CÂY” trong tập học viên.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH:

Chuẩn bị thị cụ các con rối dán trên thanh tre đã làm trong phần “Vui Mà Học”.

  1. Vào đề.

 (Vừa kể, vừa giơ con rối lên). Trong số các em, ai là con một trong gia đình? Có em nào chỉ có một anh chị em không? Ai có hai anh em? (Tiếp tục hỏi, số anh chị em cứ tăng dần lên cho đến khi không còn em nào). Có em rất ít anh em, nhưng cũng có em rất đông anh chị em. Hôm nay các em sẽ được biết một gia đình có rất đông anh em.

Gia-cốp là cha trong gia đình. Ông có mười hai con trai. Ông rất giàu, có nhiều chiên, dê, bò, lừa… Các con của ông cùng phụ giúp chăm sóc chúng. Họ sống hòa thuận, vui vẻ bên nhau. Nhưng rồi một việc đã xảy ra khiến họ sanh lòng ghen ghét.

Mười người anh không ưa Giô-sép, vì cha may cho Giô-sép một chiếc áo dài nhiều màu rất đẹp. Giô-sép mặc chiếc áo đó thì khỏi phải ra đồng làm việc. Các anh của Giô-sép hết sức tức giận vì chỉ có mình Giô-sép có chiếc áo như thế.

Một hôm, các anh của Giô-sép dắt bầy gia súc đến đồng cỏ ở Si-chem. Gia-cốp bảo Giô-sép: “Các anh con đang chăn bầy tại Si-chem phải không? Con đi thăm xem các anh con và bầy chiên ra sao rồi về cho ba biết”.

Giô-sép vâng lời cha, đi tìm các anh. Giô-sép mặc chiếc áo đẹp mà cha cho và đem theo thức ăn cho các anh. Vừa đi Giô-sép vừa nghĩ, chắc thấy mình đem nhiều thức ăn ngon như thế nầy các anh sẽ vui vẻ với mình lắm.

Khi đến Si-chem, Giô-sép tìm mãi nhưng không thấy các anh và bầy chiên đâu cả. Có một người gặp Giô-sép đi lạc nên hỏi: “Cậu tìm ai?” Giô-sép đáp rằng: “Tôi tìm các anh tôi. Họ chăn chiên ở đây mà sao không thấy. Ông có gặp họ không?” “À có, nhưng họ dẫn chiên đi nơi khác rồi, tôi nghe họ nói đi đến Đô-ta-in”.

Đô-ta-in! Như vậy Giô-sép còn phải đi rất xa mới đến đó. Khi đi đến gần sườn núi Đô-ta-in, Giô-sép thấy các anh và đàn chiên ở đằng xa. Các anh cũng nhận ra Giô-sép ngay vì chiếc áo dài nhiều màu cậu đang mặc. Một người trong các anh nói: “Cái thằng nằm mơ đến kìa! Nó đến xem chúng ta đang làm gì rồi về méc với cha đấy”. Các anh đều nhìn Giô-sép cách ghen ghét. Một người khác lại nói: “Chúng ta hãy giết nó đi, quăng xuống hố sâu, rồi nói với ba là nó bị thú dữ ăn thịt rồi”.

Nhưng Ru-bên can: “Đừng giết nó! Chỉ quăng xuống hố là nó không thể nào sống nổi”. Khi Giô-sép vừa đến nơi, các anh túm lấy Giô-sép, lột chiếc áo nhiều màu ra, rồi quăng Giô-sép xuống hố. Giô-sép kêu la, khóc lóc xin các anh cứu mình nhưng họ không thèm nghe và bỏ đi. Giô-sép rất sợ hãi, vì không biết sẽ còn những gì xảy đến với mình nữa?!! Giô-sép chỉ mong được bình an trở về với cha.

Các anh ngồi lại ăn uống với nhau. Bỗng từ đằng xa, một đoàn lái buôn đi tới. Họ chở hàng hóa trên lưng các con lạc đà để đem đến Ai-cập bán. Khi các lái buôn gần đến, một người anh của Giô-sép đề nghị: “Ồ, sao chúng ta không bán Giô-sép cho đám lái buôn nầy? Họ sẽ đem nó đến Ai-cập bán làm nô lệ. Chúng ta sẽ khỏi nhìn thấy nó nữa”.

Các anh đều đồng ý, họ chạy đến kéo Giô-sép lên khỏi hố và bán với giá hai mươi nén bạc. Xong, đoàn lái buôn tiếp tục lên đường đem Giô-sép sang Ai-cập.

Các anh lấy chiếc áo nhiều màu của Giô-sép nhúng vào máu dê, đem về cho cha xem, và nói: “Chúng con vừa tìm thấy cái áo này. Ba xem có phải là cái áo mà ba đã may cho Giô-sép không?” Gia-cốp cầm chiếc áo khóc lóc thảm thiết: “Đúng là áo của con ta! Nó đã bị thú dữ cắn xé. Ôi! Giô-sép con trai của ta đã chết rồi!” Thấy cha đau buồn các anh xúm lại cố gắng an ủi. Gia-cốp khóc than và để tang cho Giô-sép lâu ngày. Các anh của Giô-sép không ai dám thú nhận với cha việc họ đã làm.

  1. Ứng dụng.

Giáo viên giúp các em ôn lại câu chuyện bằng các câu hỏi trong phần “Cùng suy nghĩ” của sách học viên.

Hướng dẫn các em học câu gốc. Sau đó hỏi: “Các anh của Giô-sép có vâng theo lời Kinh Thánh dạy không? Chúng ta có sống đúng theo câu gốc nầy không? Tại sao?” Khi các em trả lời, hãy viết ngắn gọn ý kiến của các em lên bảng. Nếu các em im lặng, gợi ý cho các em bằng câu hỏi sau đây: “Khi sống hòa thuận với người khác, chúng ta cảm thấy thế nào? Người khác nghĩ như thế nào về chúng ta?” Và kết luận: “Chúa Giê-xu dạy chúng ta phải sống yêu thương, đối xử tốt với người khác. Chúng ta phải yêu kính Chúa và vâng lời Ngài”.

Hướng dẫn các em viết hoặc vẽ hình các việc mà em có thể làm cho người thân, bạn bè, hàng xóm vào tập.

Nhắc nhở các em cầu nguyện cho các công việc mà các em định làm, xin Đức Chúa Trời giúp các em sống hòa thuận với mọi người.

Khuyến khích các em đem tập học viên về cho ba mẹ xem và tham khảo phần “Sinh hoạt gia đình”.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

in NHI ĐỒNG on 27 Tháng Năm, 2024

BÀI 5. CA NGỢI CHÚA

I. KINH THÁNH: Lu-ca 19:29-40; Ma-thi-ơ 21:1-11.

II. CÂU GỐC: “Hãy hát cho Đức Giê-hô-va một bài ca mới, vì Ngài đã làm các phép mầu.”(Thi Thiên 98:1a).

III. BÀI HỌC.

   Chúa Jêsus cỡi lừa đi vào thành Giê-ru-sa-lem trongtiếng tung hô, ca ngợi của dân chúng. Họ trải áo xuống đường và phất những nhành cây để chào đón Ngài. Dân chúng mừng rỡ hô to: “Chào mừng Vua của chúng ta! Đức Chúa Trời ban cho chúng ta một Vị Vua! Ngài mang đến bình an và vinh hiển!”

  1. CÙNG SUY NGHĨ.

   Xem hình và trả lời các câu hỏi:

  1. Đám đông biểu lộ sự mừng rỡ như thế nào?

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

  1. Đám đông chào đón Chúa Jêsus ra sao?

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..

  1. Nếu lúc đó emcó mặt trong số người chào đón Chúa Jêsus, em sẽ nghe những gì? Ngửi thấy điều gì? Nhìn thấy gì? Nói những gì?

………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………….

 

EM CA NGỢI CHÚA (vẽ hoặc viết ra)

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

in NHI ĐỒNG on 27 Tháng Năm, 2024

BÀI 5. CA NGỢI CHÚA

I. KINH THÁNH: Lu-ca 19:29-40; Ma-thi-ơ 21:1-11.

II. CÂU GỐC: “Hãy hát cho Đức Giê-hô-va một bài ca mới, vì Ngài đã làm các phép mầu.”(Thi Thiên 98:1a).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Chúa Jêsus được mọi người cangợi.

– Cảm nhận: Dân chúng vui mừng can gợi Chúa Jêsus vì Ngài làm nhiều việc kỳ diệu cho họ.

– Hành động: Ca ngợi Chúa Jêsus bằng Thánh ca, làm chứng về những điều kỳ diệu Ngài đã làm và cầu nguyện cảm tạ Ngài.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

*Vui cắt dán.

  1. Mục đích: Giúp các em bày tỏ sự vui mừng vì những điều Chúa Jêsus đã làm cho em.
  2. Vật liệu: Một tờ giấy bìa cứng lớn, những hình ảnh có nét mặt vui vẻ (cắt từ những tạp chí), keo dán, kéo, giấy màu, giấy trắng, viết chì màu.

   Viết giữa tờ giấy bìa dòng chữ lớn: “Chúa Jêsus làm cho các em vui mừng”.

   Khi lên lớp, cho các em đọc to những chữ trên tờ giấy bìa, rồi mỗi em lần lượt chọn một tấm hình vui (hoặc lấy một tờ giấy trắng và vẽ một khuôn mặt vui), dán lên giấy cứng. Sau đó các em cùng nhau dán giấy màu trang trí lên bốn góc tờ giấy cứng tạo thành một khung hình “Vui cắt dán” nhiều màu đẹp mắt.

   Sau khi các em làm xong, mỗi em phải kể ít nhất một việc Chúa Jêsus đã làm cho các em. Giáo viên cùng chia sẻ niềm vui của mình với các em.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị lá kè hoặc các lá cây to bản).

  1. Vào đề.

   Hôm ấy là ngày lễ của người Do Thái, các con đường vào thành Giê-ru-sa-lem đầy ắp những khách từ phương xa đến đền thờ để thờ phượng Đức Chúa Trời. Mọi người đều lộ vẻ hân hoan.

  1. Bài học.

   Bỗng con đường từ Giê-ri-cô đến Giê-ru-sa-lem náo nhiệt hẳn lên. Đám đông vây quanh một nhóm người đang đi, nhóm người đó chính là Chúa Jêsus và môn đồ trên đường đến dự lễ. Đoàn dân đông liền đi theo Ngài.

   Khi họ đến một ngôi làng gần thành Giê-ru-sa-lem, Chúa Jêsus dừng bước, Ngài bảo hai môn đồ: “Bây giờ các con đi vào làng, sẽ thấy một con lừa con chưa từng có ai cỡi, hãy dắt về đây cho Ta. Nếu có người hỏi: “Các anh làm gì vậy? ”thì trả lời rằng: “Chúa cần dùng con lừa nầy”.

   Hai môn đồ liền vâng theo lời Chúa, dù họ không hiểu tại sao Chúa lại cần dùng đến lừa khi họ đã đi gần đến thành Giê-ru-sa-lem.

   Đúng như Lời Chúa phán, họ thấy một con lừa con buộc trước cửa một ngôi nhà bên đường. Họ liền đến mở dây cột lừa. Bỗng có người la lớn: “Các ông làm gì vậy?” Tiếng la tiếp tục: “Tại sao các ông lại mở dây buộc lừa?” Chủ của con lừa ấy đã nhìn thấy họ. Môn đồ đáp: “Chúa cần dùng nó”. Người chủ cho họ dẫn lừa đi. Chắc ông ấy rất vui khi biết Chúa Jêsus sử dụng con lừa của mình.

   Hai môn đồ dắt lừa đến nơi Chúa Jêsus và đoàn dân đông đang đợi. Họ trải áo lên lưng lừa cho Chúa Jêsus ngồi. Khi vào thành Giê-ru-sa-lem, dân chúng trải áo và lá kè cho lừa đi qua, nhiều người phất các nhánh cây đón mừng. Mọi người đều muốn dành vinh dự cao nhất cho Chúa Jêsus vì Ngài đã làm nhiều phép lạ. Họ hy vọng Ngài sẽ làm vua của họ.

   Đoàn dân theo Chúa Jêsus vừa tiến vào thành Giê-ru-sa-lem vừa hoan hô, ca ngợi: “Hoan nghinh vua của chúng ta! Đức Chúa Trời ban cho chúng ta một vị vua! (Cho các em xem hình rồi cầm lá kè hoặc các nhánh cây hát hoặc hô to: “Hô-sa-na! Hô- sa-na!”

   Tin Chúa Jêsus vào thành phố nhanh chóng lan rộng khắp nơi. Dân chúng đều hô to: “Vua của chúng ta đã vàothành! Ngài đem cho chúng ta sự bình an và vinh hiển!” Nhưng có một số người bực tức vì những tiếng tung hô nầy. Họ không tin Chúa Jêsus là Chúa Cứu Thế mà Đức Chúa Trời sai đến. Thế là họ chen đến gần Chúa Jêsus và nói với Ngài rằng: “Xin thầy la rầy các môn đồ và bảo họ im đi”.

   Chúa Jêsus trả lời: “Nếu họ im lặng thì đá cũng sẽ lên tiếng hô to”. Chúa Jêsus là Chúa Cứu Thế do Đức Chúa Trời sai đến, nên Ngài biết những lời tung hô của dân chúng là sự thật.

   Chúa Jêsus cỡi lừa vào thành Giê-ru-sa-lem trong tiếng reo hò ca ngợi của dân chúng. Một số người trong thành lấy làm lạ, họ hỏi: “Người đó là ai? Vì sao được mọi người tung hô như vậy?” Có người trả lời: “Ngài là Jêsus ở Na-xa-rét, là Đấng mà Đức Chúa Trời sai đến!”

   Các em thân mến, Chúa Jêsus thật là Đấng đáng cho chúng ta ca ngợi. Ngày nay các em cũng có thể ca ngợi Ngài bằng cách thuật lại sự vĩ đại, kỳ diệu của Chúa, hát Thánh ca và cảm tạ Ngài.

  1. Ứng dụng.

  Cho các em đọc bài học và sử dụng các câu hỏi trong phần “Cùng suy nghĩ” để giúp các em hiểu nội dung câu chuyện.

  Cho các em làm phần “Em ca ngợi Chúa”. Các em có thể vẽ hình hoặc viết chữ lên phần để trống để bày tỏ các em sẽ ca ngợi Chúa như thế nào (xem hình).

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

in NHI ĐỒNG on 27 Tháng Năm, 2024

BÀI 5. CON RẮN LỬA VÀ CON RẮN ĐỒNG.

I. KINH THÁNH: Dân số ký 20:1-21; 21:4-9.

II. CÂU GỐC: Ai tin Con thì được sự sống đời đời, ai không chịu tin Con thì chẳng kinh nghiệm được sự sống đâu, nhưng cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người ấy. (Giăng 3:36).

III. BÀI TẬP.

A. MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH GIAN NAN.

Em hãy chọn những từ đúng, và gạch bỏ những từ sai trong câu chuyện dưới đây.

Khi đi trong đồng vắng, dân Y-sơ-ra-ên thường oán trách/vui sướng.  Để dạy họ một bài học, Đức Chúa Trời sai con rắn lửa/rắn lục đến cắn họ. Có rất nhiều người bị rắn cắn chết! Dân Y-sơ-ra-ên xin Môi-se lấy thuốc/cầu nguyện với Đức Chúa Trời.

Đức Chúa Trời bảo Môi-se làm một con rắn đồng rồi treo lên một cây sào/ngọn cây. Bất cứ ai bị rắn cắn, nhìn vào/ sờ vào thì được chữa lành.

Vì sao Đức Chúa Trời bảo dân Y-sơ-ra-ên nhìn vào con rắn đồng mới được chữa khỏi?

B. NÊN LÀM THẾ NÀO?

Khi những khó khăn xảy đến, em có oán trách không? Em xem các hình vẽ dưới đây, rồi viết ra lời “oán trách” hay “tin cậy” nơi Đức Chúa Trời. 

 

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

in NHI ĐỒNG on 27 Tháng Năm, 2024

BÀI 5. CON RẮN LỬA VÀ CON RẮN ĐỒNG

I. KINH THÁNH: Dân số ký 20:1-21; 21:4-9.

II. CÂU GỐC: Ai tin Con thì được sự sống đời đời, ai không chịu tin Con thì chẳng kinh nghiệm được sự sống đâu, nhưng cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người ấy. (Giăng 3:36).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Vì dân sự lằm bằm oán trách nên Chúa đưa rắn lửa đến để phạt họ, nhưng Ngài cũng cho họ giải pháp để được giải cứu.

– Cảm nhận: Tin vào Đức Chúa Trời và Lời của Ngài sẽ được cứu.

– Hành động: Em hết lòng tin nơi Đức Chúa Trời và Lời Ngài.

IV. PHẦN SUY GẪM CỦA GIÁO VIÊN.

Trong quá khứ khi dân Y-sơ-ra-ên phạm tội, vinh quang của Đức Chúa Trời thường chiếu ra rồi sau đó mới là hình phạt. Nhưng lần nầy chẳng có cảnh cáo. Hình phạt đến ngay sau khi họ phạm tội. Đức Chúa Trời sai rắn lửa đến giữa dân Ngài. Bởi vì họ đã khước từ món quà sự sống cùng sức khỏe từ trời, nên Đức Chúa Trời đưa khổ đau và sự chết từ đất đến cho họ. Những người bị rắn cắn chết rất nhanh và dường như cái chết của họ cũng rất đau đớn. Đúng như Kinh Thánh chép: “Tiền công của tội lỗi là sự chết”.

Dân Y-sơ-ra-ên nhận biết tội lỗi, kêu cầu Chúa tha tội và xin Môi-se cầu nguyện cho họ. Đức Chúa Trời bảo Môi-se làm một con rắn bằng đồng, rồi treo lên một cây trụ cho mọi người nhìn thấy. Nếu ai bị rắn cắn nhìn lên con rắn nầy thì sẽ được chữa lành.

Chúa dùng con rắn bằng đồng để tiêu biểu sự chết của Đấng Christ trên thập tự giá (Giăng 3:14). Những ví sánh giữa con rắn bằng đồng trong thời Môi-se với thập tự giá của Đấng Christ giúp chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của ân sủng Đức Chúa Trời trong sự cứu rỗi. Mọi người đều đã bị lây nhiễm và một ngày kia sẽ phải chết và đối diện với sự phán xét (Hê-bơ-rơ 9:27), nhưng nếu họ lấy đức tin nhìn lên Đấng Christ, thì Ngài sẽ cứu họ và ban cho họ sự sống đời đời. Nhìn lên con rắn bằng đồng sẽ cứu con người khỏi sự chết thuộc thể, nhưng nhìn lên Đấng Christ, sẽ cứu chúng ta khỏi sự chết đời đời.     

V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Chuyện gì?

  1. Vật liệu: Trang tư liệu K trong sách học viên.
  2. Thực hiện: Cho các em mở sách học viên trang tư liệu K, chọn ra một bức hình, rồi trả lời các câu hỏi sau: “Người trong hình vẽ gặp phải chuyện gì? Họ đang tin cậy vào ai hoặc cái gì? Kể ra một sự từng trải em từng tin cậy vào một ai đó hoặc một điều gì đó”. (Cho các em trả lời và chia sẻ).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn hình vẽ và bản đồ Kinh Thánh trong trong phần phụ lục rồi tô màu cho đẹp).

  1. Vào đề.

Mỗi ngày các em đều phải tin cậy vào một ai đó hoặc một điều gì đó. Ví dụ: Tin vào sự chăm sóc của ba mẹ đối với các em; ngồi trên xe buýt, chúng ta tin rằng tài xế sẽ chở chúng ta đến nơi; thậm chí khi ngồi trên một cái ghế, chúng ta cũng phải tin nó có thể chịu được trọng lượng của chúng ta.

Câu chuyện Kinh Thánh nầy cho biết, vì dân Y-sơ-ra-ên không tin vào sự chăm sóc của Đức Chúa Trời, lằm bằm oán trách Môi-se nên Đức Chúa Trời đã trừng phạt họ rất nặng nề. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời vẫn yêu thương dân sự, Ngài cho họ một giải pháp để được giải cứu nếu họ vâng theo Lời Ngài.

  1. Bài học.

Dân Y-sơ-ra-ên tiếp tục đi trong đồng vắng. Môi-se lên kế hoạch cho dân sự tiến về Đất Hứa, họ sắp phải đi ngang qua địa phận xứ Ê-đôm. Môi-se cử người đến gặp vua Ê-đôm, để xin đi qua đất nước của ông, nhưng vua Ê-đôm từ chối. Không thuyết phục được vua Ê-đôm, Môi-se chỉ còn cách dẫn dân Y-sơ-ra-ên đi đường vòng qua Ê-đôm. Con đường nầy vừa xa lại vừa khó đi.

Nhiều năm đã trôi qua mà dân sự vẫn lang thang trong sa mạc. Có những lúc họ lại bị thiếu nước giữa sa mạc khô cằn! Thật là không dễ để bảo dân chúng vừa nóng vừa khát đó nhớ rằng Đức Chúa Trời luôn ở cùng họ. (Chỉ tuyến đường mà dân Y-sơ-ra-ên phải đi vòng qua trên bản đồ Kinh Thánh).

Khi thiếu thức ăn và nước uống, dân Y-sơ-ra-ên lại oán trách và quên rằng Đức Chúa Trời luôn ở cùng chăm sóc họ. Họ kêu gào: “Môi-se, sao ông lại đem chúng tôi vào sa mạc nầy? Chúng tôi quá ngán thứ ma-na mà Đức Chúa Trời vẫn ban cho mỗi ngày!”

Đức Chúa Trời muốn dạy cho họ một bài học. Các em đọc Dân 21:6 xem có chuyện gì xảy ra? Tại lều trại của dân Y-sơ-ra-ên xuất hiện một loài rắn lửa rất đáng sợ. Loại rắn độc nầy vô cùng hung dữ, cắn bị thương và chết rất nhiều người. Dân Y-sơ-ra-ên hoảng sợ chạy đến nói với Môi-se: “Chúng tôi có tội vì đã xúc phạm đến Đức Chúa Trời và ông. Xin ông kêu cầu với Chúa để Ngài đuổi rắn độc đi”.

Môi-se cầu thay cho dân sự. Đức Chúa Trời bảo Môi-se: “Con hãy làm một con rắn đồng, treo lên một cây sào, để mọi người đều có thể nhìn thấy nó. Nếu ai bị rắn cắn phải nhìn lên con rắn bằng đồng thì người đó sẽ được cứu sống”.

Tin nầy nhanh chóng được truyền ra, mọi người đều được quyền lựa chọn, tin hoặc không tin vào phương cách chữa trị mà Đức Chúa Trời đã phán dặn. Kết quả những ai tin và làm theo Lời Đức Chúa Trời đều được chữa lành. Thật ra, đây không phải là con rắn đồng có quyền năng, mà là Đức Chúa Trời muốn dân Y-sơ-ra-ên phải có lòng tin và vâng lời Ngài.                             

  1. Ứng dụng.

Trước hết hỏi các em: Trong suốt cuộc hành trình gian nan của dân Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời đã làm gì cho họ? (Chăm sóc, dẫn dắt và cung ứng). Đức Chúa Trời yêu cầu họ điều gì? (Có lòng tin nơi Đức Chúa Trời và Lời của Ngài). Sau đó cho các em mở ra bài 5 trong sách học viên, dựa theo gợi ý làm bài tập phần A để ôn lại bài học Kinh Thánh.

Câu chuyện Kinh Thánh hôm nay cho chúng ta thấy dân Y-sơ-ra-ên bị rắn độc cắn bị thương, nhưng khi họ ăn năn, tin vào Đức Chúa Trời thì được chữa lành. Hướng dẫn các em dựa theo gợi ý làm bài tập: “Nên làm thế nào?” Sau đó cho các em chia sẻ: Em nên làm thế nào để khi gặp khó khăn, em không oán trách mà tin cậy nơi Đức Chúa Trời? (Cho các em trả lời).

  1. PHỤ LỤC

* Hình rắn lửa và rắn đồng.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 20 Tháng Năm, 2024

BÀI 4. GIA-CỐP ĐƯỢC THA THỨ

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 32:1- 33:4.

II. CÂU GỐC: Chúa ôi! Chúa là thiện, sẵn lòng tha thứ, ban sự nhân từ vô lượng cho những người kêu cầu Ngài. (Thi Thiên 86:5).

III. BÀI TẬP.

A. CÙNG SUY NGHĨ.

Em xem hình và trả lời các câu hỏi sau.

  1. Lúc Gia-cốp sắp gặp Ê-sau, ông cảm thấy thế nào? Tại sao?

…………………………………………………………………………………………………………………………

  1. Khi Ê-sau nghe Gia-cốp nói là sẽ về nhà, theo em, Ê-sau cảm thấy thế nào? Tại sao?

…………………………………………………………………………………………………………..

  1. Tại sao Gia-cốp phải cầu nguyện vào đêm trước khi gặp Ê-sau?

…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

  1. Sau khi gặp nhau, hai anh em đã có hành động như thế nào?

…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

B. NẾU LÀ EM, EM SẼ LÀM SAO?

Em nhìn vào hình số 1 và đoán xem sự việc gì đã xảy ra? Sau khi cầu nguyện (hình 2), Minh đã gặp Cường. Nếu em là Minh, em sẽ nói gì với Cường? Còn nếu em là Cường, em sẽ trả lời với Minh như thế nào? Ghi câu trả lời của em vào ô thứ 3 và thứ 4.

* Tại trạm xe buýt:

Hình 3                            Hình 4

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Sau đó…

 

 

Sau đó…

 

 

Sau đó…

 

 

 

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 20 Tháng Năm, 2024

BÀI 4. GIA-CỐP ĐƯỢC THA THỨ

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 32:1- 33:4.

II. CÂU GỐC: Chúa ôi! Chúa là thiện, sẵn lòng tha thứ, ban sự nhân từ vô lượng cho những người kêu cầu Ngài. (Thi Thiên 86:5).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Gia-cốp được Đức Chúa Trời và Ê-sau tha thứ.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời luôn yêu thương các em. Ngài sẵn lòng tha thứ mọi lỗi lầm nếu các em biết cầu xin.

– Hành động: Em xin Chúa tha thứ những lỗi lầm đã phạm.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

    * Báo tường “Tha thứ”.

  1. Mục đích: Giúp các em diễn đạt cảm nghĩ của mình khi được tha thứ.
  2. Vật liệu: Giấy trắng, bút màu, bảng đen hoặc một tờ giấy lớn, keo dán.
  3. Thực hiện: Phát cho mỗi em một tờ giấy, bút màu. Giáo viên nêu lên một vài câu chuyện có thật, để các em suy nghĩ và nhớ lại những lỗi lầm mình đã phạm. Sau đó vẽ hình ra.

Khi các em làm xong, hướng dẫn các em dán hình lên bảng hoặc dán lên tờ giấy lớn và nói lên cảm nghĩ của mình sau khi được tha thứ.

* Cuối cùng, giáo viên đặt câu hỏi thảo luận: “Kinh Thánh dạy rằng khi phạm lỗi, chúng ta phải xưng tội với Đức Chúa Trời; ngoài ra, chúng ta còn phải nhận lỗi với những ai?” (Ví dụ: Khi nghĩ sai hoặc nói sai về người khác). 

B. BÀI HỌC KINH THÁNH: Sử dụng hình và con rối của bài học trước.

 (Giơ con rối Gia-cốp và hình lên). Sau khi sống ở nhà La-ban hai mươi năm, Gia-cốp trở về quê nhà, dẫn theo vợ con, những người làm và rất nhiều súc vật. Các em nghĩ xem, Gia-cốp có vui mừng khi trở về quê hương không? Dù rất vui mừng nhưng cứ nghĩ đến anh mình là Ê-sau thì ông lại sợ hãi.

Gia-cốp nghĩ thầm: “Ê-sau còn nhớ việc mình lừa gạt anh và cha không? Ê-sau còn giận mình không?” Càng gần đến nhà, Gia-cốp càng lo sợ hơn, các câu hỏi cứ xoay trong đầu ông. Gia-cốp sắp phải gặp Ê-sau, nếu Ê-sau muốn giết ông thì phải làm thế nào bây giờ?

Gia-cốp nghĩ ra một cách để xem Ê-sau còn giận mình không? Gia-cốp sai người đến báo tin cho Ê-sau: “Gia-cốp đang trên đường trở về”. Người đó quay lại nói với Gia-cốp: “Ê-sau sẽ dẫn bốn trăm người đi đón ông”.

Bốn trăm người! Thử tưởng tượng xem Gia-cốp sợ đến mức nào! Ông phải làm gì bây giờ? Ông lập tức chia người nhà, tôi tớ, gia súc ra thành hai đội. Ông nghĩ: “Nếu Ê-sau  đến đánh một trong hai đội, thì đội còn lại sẽ thoát được”.

Gia-cốp liền cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời: “Lạy Chúa, con không đáng hưởng ân huệ của Ngài vì con đã phạm nhiều lỗi lầm. Nhưng Ngài là Đấng yêu thương, xin Ngài giúp con, con sợ Ê-sau sẽ giết con mất”.

Khi cầu nguyện xong, Gia-cốp chọn một số lễ vật tặng Ê-sau: Mấy trăm con dê, chiên, một số lạc đà, bò và lừa. Ông cho người đem đến trước để tỏ ý thân thiện và hy vọng Ê-sau nguôi giận.

Gia-cốp ở lại chờ đợi để gặp Ê-sau. Đêm đó, Gia-cốp lại cầu nguyện và một điều kỳ diệu đã xảy ra. Sáng sớm hôm sau, lúc mặt trời mọc, Gia-cốp được biết Đức Chúa Trời ở cùng ông. Từ đó trở đi, Gia-cốp nguyện sống và làm những việc đẹp lòng Chúa.

Bỗng, Gia-cốp nhìn thấy một đoàn người từ xa đang đi đến, đó chính là Ê-sau dẫn bốn trăm người tiến về phía Gia-cốp! Họ định làm gì? Ê-sau đến giết Gia-cốp ư? Gia-cốp liền bảo cả nhà mình chuẩn bị đi đón Ê-sau.

Gia-cốp rất lo sợ. Ông dẫn đầu đoàn người bên này, Ê-sau cũng dẫn đầu bốn trăm người của ông. Hai đoàn người càng lúc càng gần nhau hơn, nhưng Gia-cốp vẫn chưa nhìn thấy được vẻ mặt của Ê-sau vui mừng hay giận dữ. Gia-cốp vượt lên trước, quì mọp xuống đất bảy lần cho đến khi tới gần anh mình. Ê-sau đã làm gì?

Bỗng, Ê-sau chạy đến trước mặt Gia-cốp. Ông định làm gì vậy? Giết Gia-cốp ư? Không, Ê-sau đang mừng rỡ, ông ôm chầm lấy Gia-cốp và hôn. Hai anh em mừng mừng tủi tủi.

Mọi việc kết thúc thật êm đẹp. Họ không còn ghét giận, dối gạt nhau nữa. Hai anh em đã xa nhau rất lâu. Họ đều khóc khi gặp lại nhau. Bây giờ, Gia-cốp không còn sợ hãi nữa. Ông rất vui vì được trở về quê nhà, Ê-sau đã tha thứ cho ông và điều quan trọng nhất là Đức Chúa Trời đã tha thứ cho Gia-cốp.

  1. Ứng dụng.

Cho các em mở sách học viên dùng câu hỏi trong phần “Cùng Suy Nghĩ” để giúp các em ôn lại câu chuyện.

Hướng dẫn các em đoán xem có việc gì xảy ra trong hình 1 và hình 2. Sau đó, hỏi các em: Trong hình 2, Cường xin Chúa giúp mình sửa sai. Chúng ta hãy nghĩ xem Cường nên nói gì với Minh? Giáo viên nên ghi ý kiến của các em lên bảng. Giúp các em ghi ý kiến thích hợp vào hình số 3. Cho các em tiếp tục suy nghĩ xem khi Minh nghe Cường xin lỗi, Minh làm gì? Thực hiện cùng cách như vậy đối với hình số 4.

– Đặt câu hỏi với các em: Cường nhận lỗi với Đức Chúa Trời có phải là một việc khó làm không? Tại sao? Cường xin lỗi Minh có phải là một việc khó khăn không? Vì sao? Minh tha thứ cho Cường có phải là việc dễ không? Tại sao? Nếu Cường được học câu gốc hôm nay, bạn ấy sẽ thấy dễ dàng hơn khi nhận lỗi với Chúa phải không?

– Khuyến khích các em chia sẻ lại kinh nghiệm được Chúa và người khác tha thứ.

– Hướng dẫn các em cầu nguyện xin Chúa tha thứ những lỗi lầm mà mình đã phạm.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

in NHI ĐỒNG on 20 Tháng Năm, 2024

BÀI 4. CHÚA JÊSUS CẦU THAY

I. KINH THÁNH: Giăng 17: 6-26.

II. CÂU GỐC: “Vậy, hãy xưng tội cùng nhau và cầu nguyện cho nhau để anh em được lành bệnh.” (Gia-cơ 5:16a).

III. BÀI HỌC.

   Chúa Jêsus cầu nguyện rằng: “Con cảm tạ Cha vì các môn đồ của con. Cầu xin Cha giúp họ yêu thương nhau. Cầu xin Cha giúp họ được vui mừng. Cầu xin Cha giúp họ cách làm điều lành”.

IV. CÙNG SUY NGHĨ.

Xem hình và trả lời các câu hỏi:

  1. Tại sao Chúa Jêsus cầu xin Đức Chúa Trời giúp cho các môn đồ yêu thương nhau?

………………………………………………

………………………………………………

  1. Vì sao Chúa Jêsus cầu xin Đức Chúa Trời giúp các môn đồ được vui mừng?

………………………………………………..

………………………………………………..

  1. Vì sao Chúa Jêsus cầu xin Đức Chúa Trời giúp họ cách làmviệc lành?

…………………………………………………….

…………………………………………………….

HỌ CẦN SỰ CẦU NGUYỆN CỦA EM

Viết những điều họ cần cầu nguyện vào ô trống

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

in NHI ĐỒNG on 20 Tháng Năm, 2024

BÀI 4. CHÚA JÊSUS CẦU THAY

I. KINH THÁNH: Giăng 17: 6-26.

II. CÂU GỐC: “Vậy, hãy xưng tội cùng nhau và cầu nguyện cho nhau để anh em được lành bệnh.” (Gia-cơ 5:16a).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Chúa Jêsus yêu thương bạn bè và cầu nguyện cho họ.

– Cảm nhận: Cầu nguyện cho bạn bè là yêu thương họ.

– Hành động: Trong tuần nầy em đặc biệt cầu nguyện cho các bạn của mình.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦUGIỜ.

*Cầu thay.

  1. Mục đích: Giúp các em cầu thay cho bạn mình.
  2. Vật liệu: Một tờ giấy cứng lớn, mỗi em một tấm giấy tròn, một tấm giấy hình chữ nhật, keo dán, viết chì màu.

    3. Cách thực hiện: Cho các em vẽ khuôn mặt của người bạn mà mình sẽ cầu thay lên tấm bìa hình tròn, và trên tấm bìa hình chữ nhật ghi dòng chữ: “…(tên của em) cầu thay cho… (tên của bạn em) vì…(vấn đề cầu thay)”, rồi dán lên tấm bìa lớn.

   Khi các em làm xong, treo tấm bìa lớn mang tên: “Em cầu nguyện cho bạn” lên, rồi giải thích ý nghĩa của việc cầu nguyện cho nhau. Các em cảm ơn Đức Chúa Trời cho các em có bạn bè và xin Chúa cho bạn mình vâng lời ba mẹ, thầy cô, và thường xuyên tham dự lớp Trường Chúa Nhật.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị cụ: Bốn hình người: Anh-rê, Giăng, Phi-e-rơ và Gia-cơ (xem phụ lục), máy và băng cassette.

  1. Vào đề.

   Các em có bạn bè không? Thế nào mới là bạn tốt? Ai là bạn thân nhất của em? Em có thể cho biết tên và sở thích của bạn em không? (Cho các em lần lượt trả lời).

  1. Bài học.

   Chúa Jêsus cũng có một số bạn bè đặc biệt. Họ chính là những môn đồ ngày đêm ở cùng Ngài.

  Một đêm nọ, Chúa Jêsus và các môn đồ đang ở tại thành phố Giê-ru-sa-lem. Sau khi dạy dỗ các môn đồ, Chúa Jêsus đã bày tỏ tình yêu thương của Ngài đối với họ khi ngước mắt lên nhìn bầu trời đầy sao rồi cầu nguyện cho bạn bè của Ngài.

   Bây giờ các em sẽ được bốn môn đồ kể về việc Chúa Jêsus cầu thay cho họ. (Nếu không có hình, có thể mời bốn em đóng vai bốn môn đồ: “Anh-rê, Giăng, Phi-e-rơ, Gia-cơ”).

   Giới thiệu với các em, đây là ông Anh-rê (Anh-rê chào các em). Anh-rê là môn đồ đầu tiên làm chứng về Chúa Jêsus. Ông

làm chứng cho ai? Cho anh của mình là Phi-e-rơ. Anh-rê cũng là người dẫn bé trai có năm cái bánh và hai con cá đến gặp Chúa Jêsus để đãi cho năm ngàn người ăn no.

Anh-rê (mở băng cassette hoặc nói): “Tôi rất vui mừng được có mặt nơi đây để kể cho các em nghe việc Chúa Jêsus cầu nguyện cho chúng tôi tối hôm đó. Tôi thích nhất là đoạn Chúa Jêsus cầu nguyện cho chúng tôi được vui mừng. Ngài muốn mỗi chúng ta đều hưởng được sự vui mừng, nếu mỗi em đều cầu nguyện cho bạn mình được vui mừng thì thế giới nầy sẽ tốt đẹp biết bao!”

   (Chia nhóm cho các em, cứ hai em một nhóm để chia sẻ niềm vui cho nhau (khoảng vài phút) rồi giáo viên tổng kết và đưa ra kết luận).

   Cô rất vui vì Chúa Jêsus đã cầu thay cho chúng ta được vui mừng. Hôm nay, cô cũng cầu thay cho các em có một ngày vui vẻ (giáo viên cầu nguyện ngắn gọn).

   Bây giờ các em sẽ gặp một môn đồ khác, tên là Giăng. Ông Giăng làm nghề đánh cá, sống cùng với cha và em là Gia-cơ bên bờ hồ Ga-li-lê. Kinh Thánh cho biết ông Giăng là người đầu tiên nghe Chúa Jêsus giảng. Sau đó, được sự kêu gọi củaChúa, ông bỏ nghề đánh cá và đi theo Ngài.

   Giăng: “Tôi không bao giờ quên cái đêm Chúa Jêsus cầu nguyện cho chúng tôi. Tôi cảm động vô cùng vì Ngài cảm tạ Đức Chúa Trời về những việc chúng tôi đã làm. Thật là kỳ diệu! Khi tôi nghe lời cầu nguyện của Ngài, tôi biết Chúa yêu chúng tôi vô cùng. Tôi cũng yêu thương Chúa Jêsus vì Ngài không chỉ quở trách những việc làm sai trái mà còn quan tâm đến những việc tốt mà tôi đã làm”.

   Các em thân mến, Chúa Jêsus cảm tạ Đức Chúa Trời vì cớ các môn đồ. Cô cũng cảm tạ Đức Chúa Trời vì cớ các em. Hãy nghĩ xem hôm nay chúng ta cảm tạ Ngài về điều gì? Có thể không cần nói ra, chỉ cần thầm nguyện với lòng biết ơn là đủ rồi. (Giáo viên tạ ơn Đức Chúa Trời về mỗi em, rồi mời một em cầu nguyện cảm tạ Đức Chúa Trời).

   Bây giờ, cô giới thiệu với các em một môn đồ khác của Chúa Jêsus.

   Ông tên là Phi-e-rơ, cùng với em là Anh-rê làm nghề đánh cá. Trước khi gặp Chúa Jêsus, ông có tên là Si-môn, Nhưng Chúa Jêsus bảo ông: “Từ nay trở đi, tên con sẽ là Phi-e-rơ”.

   Phi-e-rơ: “Các em biết Chúa Jêsus cầu nguyện cho chúng tôi điều gì không? Để tôi kể cho các em nghe. Tôi thường gặp phiền phức vì tính tôi nóng nảy và hay gây gổ. Tôi rất vui vì Chúa Jêsus cầu xin Đức Chúa Trời giúp tôi cẩn thận trong từng suy nghĩ lẫn lời nói của mình. Tôi cảm ơn Chúa vì Ngài yêu thương tôi, cầu nguyện cho tôi được thay đổi tính tình”.

   Các em có nóng nảy như ông Phi-e-rơ không? Có thường vội vàng nói và làm khi chưa kịp suy nghĩ không? Các em làm sao yêu thương người khác? Xin Đức Chúa Trời giúp các em học cách yêu thương nhau. (Mời các em nêu ví dụ cụ thể rồi mời một em cầu nguyện xin Đức Chúa Trời giúp các em).

   Gia-cơ là một môn đồ của Chúa Jêsus. Hôm nay ông cũng sẽ trò chuyện với các em.

   Gia-cơ là anh trai của Giăng, đã từng là một người đánh cá, khi Chúa Jêsus kêu gọi, ông liền bỏ thuyền và lưới mà theo Ngài. Một hôm, hai anh em ông xin Chúa Jêsus cho họ địa vị cao trọng hơn các môn đồ khác nơi thiên đàng, Chúa Jêsus đáp: “Nếu muốn có địa vị quan trọng, các con phải phục vụ người khác”. Vài tháng sau khi Chúa Jêsus chịu chết và sống lại, vua Hê-rốt rất tức giận vì các môn đồ Chúa Jêsus đi khắp nơi rao truyền Tin Lành nên ra lệnh chém đầu Gia-cơ.

   Gia-cơ: “Vừa rồi em tôi là Giăng, cùng với hai bạn tôi là Phi-e-rơ và Anh-rê đã kể cho các em nghe việc Chúa Jêsus cầu thay cho chúng tôi. Các em biết không, Chúa Jêsus cũng cầu thay cho bất cứ ai tin Ngài. Chúa cầu nguyện: “Không những con cầu thay cho những người nầy, mà còn cầu thay cho tất cả những ai nghe họ mà tin đến con nữa”.

   Chúa Jêsus yêu thương các em cũng như Ngài yêu thương Gia-cơ và những môn đồ khác. Chúa Jêsus đã cầu xin Đức Chúa Trời giúp các môn đồ yêu thương nhau, Ngài cũng mong muốn các em biết yêu thương lẫn nhau. Hiện nay, ở trên trời Ngài vẫn cầu thay cho các em vì Ngài yêu thương các em.

  1. Ứng dụng.

   Hướng dẫn các em mở sách học viên, cùng đọc chung bài học và dùng câu hỏi trong phần: “Cùng suy nghĩ” để giúp các em ôn bài.

  Cho các em xem mục: “Họ cần sự cầu nguyện của em” và thảo luận xem họ cần cầu thay về vấn đề gì? (Ví dụ: Công việc của mục sư, sức khỏe của ba mẹ, những người thân chưa tin Chúa…).

   Sau đó, cho các em chọn đối tượng để cầu thay rồi giáo viên cầu nguyện kết thúc.

  Khuyến khích các em đem bài tập về nhà cho ba mẹ xem và thực hiện trong giờ cầu nguyện lễ bái, hãy nhớ những người nêu trên mà cầu nguyện. Cảm tạ Chúa vì họ, và xin Chúa giúp những gì họ cần. Mỗi người trong gia đình đều lần lượt cầu nguyện cho họ.