Ngày: Tháng Bảy 1, 2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 28.6.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 28.6.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 28.06.2015

(Kỷ Niệm 104 Năm Tin Lành Đến Việt Nam).

1. Đề tài: TỪ TỐI QUA SÁNG.

2. Kinh Thánh: Giăng 1:5; 4:22-24; 5:24.

3. Câu gốc: “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài” (Giăng 1:12).

4. Đố Kinh Thánh: Châm 4-6.

5. Thể loại: Thuyết trình.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn thuyết trình.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Tin Lành được truyền đến Việt Nam đã 103 năm qua. Ban đầu, từ một nhóm người ít ỏi, bé nhỏ, Hội Thánh đã tiến nhanh đến chỗ có thể kết hợp được một tập thể rộng rãi, đông đảo như ngày nay. Một câu hỏi cho người quan tâm là: Các tôi con Chúa trong giai đoạn đầu đã hoạt động như thế nào để Hội Thánh được phát triển và trưởng thành? Để biết được điều này chúng ta phải quay về với quá khứ qua tập hồi ký “Bốn mươi sáu năm chức vụ”, của cụ cố Mục sư Lê Văn Thái để biết rõ và dâng lời tạ ơn Đức Chúa Trời về những điều kỳ diệu Ngài làm cho Hội Thánh tại Việt Nam.

Vì thì giờ có hạn, xin được giới thiệu chương đầu tiên của sách:

TỪ TỐI QUA SÁNG.

Tin Lành đã được truyền giảng tại Đà Nẵng từ năm 1911. Nhưng lúc bấy giờ mọi người trong gia đình chúng tôi đều ở trong sự tối tăm đúng như Lời Kinh Thánh đã chép: “Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hề nhận lấy sự sáng” (Giăng 1:5).

I. GIAI ĐOẠN CHỐNG ĐỐI CƠ ĐỐC GIÁO.

…Xin nói rõ là gia đình chúng tôi lúc bấy giờ theo thuyết thờ ông bà, một hình thức tôn giáo mang tính chất thuần túy Đông Phương. Tôi nhận thấy mình có nhiệm vụ bảo vệ những truyền thống tinh thần của dân tộc, nên mỗi khi nghe người rao giảng đạo Gia-tô, phân phát sách báo Gia-tô hoặc gặp phải những người theo đạo Gia-tô, tôi liền chống trả mãnh liệt. Tôi đã áp dụng mọi phương tiện để đối phó ngay cả việc ném đá vào đầu các giáo sĩ tôi cũng không từ nan.

Chẳng những thế thôi, ròng rã mấy năm, tôi vẫn cứ theo tranh luận với các giáo sĩ và phá tán những người rao truyền Tin Lành…

Nhưng lạ lùng thay, ân điển và lòng yêu thương vô lượng của Chúa đã chuẩn bị cứu tôi. Khởi điểm khiến tôi đi sâu vào việc nghiên cứu chân lý Tin Lành và tìm được ơn cứu rỗi, là do vấn đề đã được một ông truyền đạo nêu lên: “Tin đạo Tin Lành bỏ ông bỏ bà, hay không theo đạo Tin Lành bỏ ông bà?” Vấn đề có vẻ thích thú. Tôi bắt đầu suy nghĩ, cố tìm những luận cứ vững chắc, sắc bén ngõ hầu có thể bẻ gãy dễ dàng những lý lẽ của “đối phương”. Tôi tin chắc tôi sẽ thắng.

Một đêm kia, tại tòa giảng Hải Châu ông truyền đạo nầy lại tuyên bố cách quả quyết: “Ai không theo Tin Lành, không tin nhận Đức Chúa Giê-xu, không thờ Đức Chúa Trời là bỏ ông bà”. Để chứng minh, ông đọc luôn một câu chữ Hán: “Mộc hữu bổn, thủy hữu nguyên, nhân sanh hồ tổ”. Rồi ông lớn tiếng giải thích: “Cây có cội, nước có nguồn, người có tông có tổ”. Cây không cội, nước không nguồn, người không tông tổ thì sao gọi là có ông bà được? Đức Chúa Trời dựng nên loài người, nhưng người không thờ phượng Ngài. Kinh Thánh chép rằng: “Đức Chúa Trời dựng nên loài người… Ngài dựng nên người nam cùng người nữ” (Sáng 1:27). Không tin nhận Đức Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời và không tin theo Tin Lành của Ngài thì khác nào cây mất cội, nước mất nguồn, người mất ông bà! Ông cứ theo cái đà ấy mà giải thích thao thao bất tuyệt. Rồi ông lại đặt câu hỏi: “Quý vị biết mình thờ ông bà mấy đời không?” Chúng tôi chưa kịp phản ứng thì ông lại bắt sang vấn đề phổ hệ thờ ông bà, cách biên mục lục trên bài vị đặt ở bàn thờ để thờ Ngũ – Đại – Mai – Thần – Chủ, tức là ông Cao, Tằng, Tổ, Khảo, Hiển. Ông giải thích: Khi có một người trong tộc qua đời, muốn giữ cho đúng câu Ngũ Đại Mai Thần Chủ phải sửa lại bài vị, tức nhiên là phải xóa tên ông Cao, đem tên ông Tằng đặt vào chỗ ông Cao, đem tên ông Tổ đặt vào chỗ ông Tằng, đem tên ông Khảo vào chỗ ông Tổ, đem tên ông Hiển vào chỗ ông Khảo và biên tên ông mới qua đời đặt vào chỗ ông Hiển. Như vậy là bỏ ông bà chớ không phải thờ ông bà. Nhìn vào thính giả ông tiếp tục đặt một câu hỏi khác: “Như vậy, muốn thờ ông bà phải làm sao?” Rồi ông lại giải thích: “Muốn thờ ông bà cho thật đúng nghĩa phải giữ nguồn, tìm gốc, tưởng nhớ và tôn kính Đấng sinh thành mình mãi mãi. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa dựng nên loài người, nên hễ ai tìm kiếm Ngài tức là tìm nguồn, tìm gốc, tưởng nhớ và tôn kính Đấng sinh thành mình mãi mãi. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hoá dựng nên loài người, nên hễ ai tìm kiếm Ngài tức là tìm nguồn, giữ gốc, là thờ Tông, thờ Tổ vậy”.

Ngồi trong nhà nghe giảng những lời nầy, đầu tôi nóng bừng lên. Tâm can tôi sục sôi như lửa bốc, vì mọi người trong gia đình tôi đều theo thuyết thờ ông bà rất mực cung kính. Không ai có quyền xúc phạm đến một hình thức thờ phượng đã ăn sâu vào lòng dân tộc, phỉ báng đạo giáo của tổ tiên là một điều sỉ nhục không thể tha thứ được. Sự căm tức của tôi càng lúc càng lên cao. Tôi muốn đứng lên tranh luận với ông truyền đạo nầy, nhưng tôi ngần ngại không biết ông trưng dẫn có đúng hay không. Nếu đúng thì sao? Tôi tự nhủ không cần phải gấp, đợi giảng xong về hỏi lại ông thân tôi xem gia đình chúng tôi thờ ông bà được mấy đời, rồi sẽ “chỉnh” ông ta sau.

Về đến nhà, ông thân tôi đã đi ngủ. Nhưng không thể đợi đến sáng hôm sau được, tôi bèn đánh thức ông cụ dậy và hỏi ngay: “Thưa thầy, gia đình chúng ta thờ ông bà được mấy đời?” Ông thân tôi vừa lấy làm lạ vừa khó chịu hỏi lại: “Mầy làm cái gì mà gấp quá vậy?” Tôi bèn thuật lại cho ông cụ nghe tất cả những điều ông truyền đạo đã giảng giải về sự thờ cúng tổ tiên. Cụ bảo: “Tao không nhớ phổ hệ gia đình ta ghi chép phải thờ ông bà mấy đời. Chờ ít lâu nữa sẽ có ngày Giỗ Tổ tại Huế, về xem mới biết được”.

…Sau khi ông thân tôi đi dự ngày Giỗ Tổ ở Huế về, có đem theo bản Sao Lục Phổ Hệ tộc Lê Văn của chúng tôi… Sau khi nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy điều ông truyền đạo nói về việc biên bài vị đặt trên bàn thờ, về Ngũ Đại Mai Thần Chủ là đúng, nhưng đối với bản gia phả của đại gia đình chúng tôi thì là sai. Gia phả tộc Lê Văn chúng tôi ghi mười đời chứ không phải năm đời như ông truyền đạo đã nói.

Thế là chúng tôi tin chắc mình có những lý lẽ vững chắc để đánh đổ ông truyền đạo. Tôi liền sửa soạn những câu hỏi “hóc búa” và đi ngay đến nhà giảng. Khi gặp ông truyền đạo tôi liền vào đề ngay: “Thưa ông, ông nói theo đạo Tin Lành, nhận Đức Chúa Giê-xu và thờ Đức Chúa Trời là có nguồn gốc, có căn nguyên là tìm được Tông, được Tổ, tại sao không thấy người Tin Lành đặt bàn thờ để thờ phượng? Ông truyền đạo liền giở quyển sách đang cầm trên tay ra, và đọc cho tôi nghe một câu như thế nầy: “Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết… Khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm  thần và lẽ thật mà thờ phượng… Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ phượng Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy” (Giăng 4:22-24). Ông nhắc lại những điểm quan trọng, nào là “các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết”, nào là “phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy”. Rồi ông vặn lại tôi: “Vấn đề là không phải đặt ra bàn thờ và bày lễ vật cúng tế, mà là hiểu biết, tôn kính, vâng giữ lời giáo huấn. Thờ phượng thật là lấy tâm thần lẽ thật mà thờ, tôn kính và làm theo lời răn dạy của đấng mình thờ, thầy có thờ như vậy hay không?” Tôi không trả lời nhưng lại hỏi một câu hỏi khác: “Ông nói Đức Chúa Trời dựng nên vạn vật, dựng nên loài người, như vậy thì ai dựng nên Đức Chúa Trời?” Ông truyền đạo lại giở và đọc một câu khác trong quyển sách đang còn cầm nơi tay: “Đức Chúa Trời phán rằng: Ta là Đấng Tự Hữu, Hằng Hữu” (Xuất 3:14). Để tôi có thể hiểu rõ hơn, ông giải thích: “Tự hữu, hằng hữu nghĩa là Ngài tự nhiên mà có, có từ trước vô cùng và nhất là còn đến đời đời vô cùng. Bởi đó, Ngài là Chủ tể của trời đất, muôn vật. Ngài dựng nên trời đất muôn vật, nhưng không ai dựng nên Ngài cả, vì như tôi đã nói (lời ông truyền đạo) sự hiện hữu của Ngài ở ngoài thời gian”.

Tôi lại đặt câu hỏi thứ ba: “Ông bảo là thờ ông bà theo mục lục của bài vị thì chỉ có năm đời thôi, nhưng sự thật gia phả của tộc tôi ghi tới mười đời kia mà?” Sau câu hỏi nầy tôi đinh ninh ông truyền đạo sẽ bí lối và không thể nào trả lời được. Tôi tin chắc thể nào tôi cũng thắng. Nhưng ông truyền đạo tươi cười và hỏi lại tôi một câu: “Được rồi, gia đình thầy thờ mười đời vậy thì cái ông thứ mười một ở đâu?” Tôi không trả lời được. Tôi không ngờ ông truyền đạo đã đưa tôi vào cái thế “kẹt” như vậy. Phải, còn ông thứ mười một ở đâu? Tôi bàng hoàng cả người đành phải im lặng ra về…

Từ đó, tôi cứ băn khoăn mãi… Tâm hồn tôi luôn luôn bị giày vò câu thúc đối với những vấn đề mà ông truyền đạo đã đặt ra. Đâu là sự thật, đâu là chân lý? Tôi bắt đầu suy nghĩ, cố gắng đi sâu vào giòng sinh hóa của vũ trụ và vạn vật. Nếu có ông tổ thứ mười thì phải có ông thứ mười một rồi đến cao hơn, đến dòng giống đến dân tộc và nhân loại. Như vậy phải có một Đấng dựng nên loài người, Đấng ấy chính là Đức Chúa Trời của đạo Gia-tô (Giê-xu). Khi đặt đến ý nghĩa Đức Chúa Trời là nguồn gốc của muôn loài vạn vật, linh hồn tôi như đang nhận được ánh sáng của chân lý cứu rỗi nhưng trong chính giờ phút ấy, bằng một tâm linh bàng hoàng xúc động, tôi nhận thấy quá khứ mình như trở lộn về với một bản ngã trần trụi đầy dẫy những ô uế xấu xa, giả dối, ôm ấp những dục vọng và tội lỗi thấp hèn. Làm thế nào có thể thờ phượng Đức Chúa Trời cho được? Tôi hết sức lo âu gần như hoảng hốt trong trạng thái tinh thần đau khổ và căng thẳng cùng tột ấy. Tôi tự hỏi: Phải làm sao để được hòa thuận cùng Đức Chúa Trời?

Ánh sáng của chân lý đã đến với tôi, sau những năm tháng dò dẫm trong bóng tối. Vào mùa xuân năm 1919, tại nhà giảng Hải Châu (Đà Nẵng), tôi đã quỳ gối tin nhận Đức Chúa Giê-xu là Cứu Chúa của đời mình, vì Ngài đã gánh vác tội lỗi tôi và chết trên thập tự giá vì cớ tôi.

Lúc ấy có giáo sĩ E.F. Irwin là người mấy năm trước đã bị tôi ném đá, chứng kiến.

II. NHỮNG BƯỚC CHẬP CHỮNG TRONG ÁNH SÁNG CỦA LỜI SỰ SỐNG.

Tôi thật sự trở nên một người mới trong Chúa. Gã thanh niên lúc trước ương ngạnh, thường hay làm ồn ào giữa đám đông, khuấy rối, cản trở bằng mọi cách không cho người khác vào nghe giảng hoặc cãi vả, la lối làm mất trật tự mỗi khi rao giảng xong – bây giờ trở nên sốt sắng đến dự các buổi giảng Tin Lành – thường ngồi ở hàng ghế thứ hai trong các buổi nhóm cầu nguyện hoặc thờ phượng. Gã thanh niên đó chính là tôi. Tay tôi không còn lăm le những viên đá nữa, nhưng chỉ có một quyển Tin Lành Giăng lúc nào cũng kề cận bên mình (vì lúc bấy giờ những sách khác chưa được phiên dịch sang tiếng Việt).

Từ ngày công khai tin nhận Chúa, tôi được người ta gán cho một cái tên mới: “Thầy Gia-tô”, “Anh Gia-tô”, có khi “Thằng Gia-tô”. Tại miền Trung, lúc bấy giờ người ta gọi các giáo sĩ giảng Tin lành là ông Gia-tô… người theo đạo Tin lành là người Gia-tô, bởi Giê-xu Christ được dịch sang Hán văn là Gia-tô Cơ Đốc…

Tại miền Bắc, trái lại người ta gọi đạo Tin Lành là Đạo Rối. Đi đến đâu cũng đều nghe dân chúng áp dụng một lối gọi như vậy. Nguyên nhân có lẽ do ác ý của một nhóm người bảo thủ, có thành kiến, muốn đánh lạc chân lý của Tin Lành, dùng hai chữ “Đạo Rối” để xuyên tạc gây một tiếng vang không tốt đối với đạo Chúa giữa các giới đồng bào chăng?

Khác với đồng bào miền Trung và miền Bắc, đồng bào miền Nam gọi đạo Tin Lành là “đạo Hoa Kỳ”. Không hiểu bởi lý do nào mà họ đã “Mỹ hóa” đạo Chúa như vậy, mặc dầu những tấm bảng treo trước phòng giảng đều được đề là Hội Thánh Tin Lành… Có lẽ họ thấy phần đông các giáo sĩ giảng Tin Lành đều là người Hoa Kỳ, nên đã gọi như vậy cũng nên.

Ngay từ buổi đầu, việc xưng hô danh hiệu của Tin Lành đã gặp nhiều khó khăn. Ba miền dùng ba từ ngữ khác nhau, mà mỗi từ ngữ đều mang tính chất khinh thường hoặc châm biếm, xuyên tạc sự thật. Những người có ác ý với giáo hội Tin Lành lợi dụng triệt để tình trạng bất lợi ấy để gieo rắc nghi ngờ, chia rẽ nhằm mục đích bất chính là ngăn trở công việc đầu tiên của Chúa ở Việt Nam. Nhưng Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã sắp đặt cách lạ lùng cho Hội Thánh Ngài, “Hội Thánh chỉ có một Thánh Linh”, Đức Chúa Trời tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy đều được ích chung” (1Côr 12:7; 2Côr 12:4).

1. Tạm Rời Gia Đình.

Bây giờ tôi xin trở lại những ngày đầu tiên tôi mới tin nhận Chúa. Thật, khi đức tin vừa chớm nở và niềm hy vọng đang lên, thì những sự bắt bớ cũng từ khắp các nơi tràn về nhằm ngăn trở và phá tan những mầm mống ấy.

Sự bắt bớ khởi đi từ những bạn bè của tôi lúc trước đã từng sống chung trong tính hư tật xấu, đến những người trong họ, ngoài làng. Tôi đi đâu cũng nghe người ta xầm xì to nhỏ: “…Thật tội nghiệp cho cái gia đình đó. Tội nghiệp cho ông cụ già có hai thằng con trai bất hiếu, chúng theo đạo hết, sau nầy ai cúng giỗ ông bà? Nhà vô phước!” Đó là đại khái những câu nói thường nhật nơi cửa miệng của những người trong thành phố hoặc trong xóm tôi ở.

…Bởi đó, ngoài việc gia tăng thì giờ cầu nguyện đặc biệt xin Chúa cứu ông thân tôi và gia đình… Tôi thiết tha xin Chúa giúp tôi tạm rời khỏi gia đình ít lâu. Trước là để tránh sự bắt bớ của bạn hữu, xóm làng, sau để khỏi phải nhìn nét mặt buồn phiền của ông thân tôi. Nhiều đêm nước mắt tôi hòa với mồ hôi trong những giờ cầu nguyện. Trước khi đi, tôi lặp đi lặp lại câu nầy với Chúa: “Xin Chúa giúp đỡ con, gìn giữ và dẫn dắt con trong lúc còn tuổi trẻ phải lìa gia đình để giữ vững đức tin”.

…Tôi xuống tàu thủy ở bến Đà Nẵng đi Huế. Mặc dầu ở Huế có nhiều bà con, nhưng tôi không đến nhà một người nào cả. Tôi cương quyết chỉ nhờ cậy sự giúp đỡ của Chúa và theo sự dẫn dắt của Ngài mà thôi. Lên khỏi tàu, trong khi rảo bước đi về hướng chợ Đông Ba, thì một người lạ đến bắt tay niềm nở mời tôi về nhà chơi. Vừa theo người ấy, tôi vừa suy nghĩ không biết ông ta là ai. Về đến nhà, nhờ sự giải thích của ông, tôi mới biết ông là một nhà thầu khoán. Ông có một người cháu đã làm việc với ông thân tôi nhiều năm nên rất quen biết tôi. Khi thầu được công trường… họ đã viết thư cho người vào Đà Nẵng gọi tôi. Khi gặp tôi tại Huế, họ tưởng là tôi đã nhận được thư rồi, nên đón tiếp rất niềm nở. Lúc bấy giờ tôi chỉ nói được một câu: “Cám ơn Chúa” vì tôi biết rằng: “Đức Giê-hô-va chỉ dẫn các bước của người” (Châm 16:9b).

…Chúa không chỉ giúp tôi giải quyết được những khó khăn của vấn đề tài chánh, nhưng Ngài còn cho tôi có cơ hội phát triển sung túc nữa là khác. Sau giờ làm việc, tôi vẫn cầu nguyện và xem đi xem lại quyển Tin Lành Giăng… Tâm linh tôi buồn bã trước những vui thú của đời nầy và luôn luôn cảm thấy cô quạnh giữa một xã hội náo nhiệt. Do đó, tôi quyết định rời bỏ công trường mà công việc làm ăn đang thịnh vượng để đi tìm một công trường khác – công trường thuộc linh.

Tôi sắp đặt công việc trao trả cho chủ thầu và trở lại quê nhà sau gần một năm xa cách. Chúa giúp đỡ tôi thi hành mọi sự đều được may mắn. Chúa nhìn thấy mọi ước vọng của lòng tôi… Chúa biết lòng tôi tha thiết muốn đưa nhiều người đến với Ngài. Chúa biết tôi nặng lòng với công trường thuộc linh hơn là công trường thế gian, nên khi tôi đi cũng như lúc tôi về Ngài đều giúp đỡ tôi luôn luôn được may mắn và dễ dàng.

2. Học Phước Am Yếu Chỉ.

Bước đầu trong cuộc hành trình theo Đức Chúa Giê-xu của tôi là trở lại học “Phước âm yếu chỉ” để chịu báp-tem… Tôi muốn được tha tội. Tôi ham thích sự ban cho của Đức Chúa Trời, bởi đó, hằng tuần tôi đều để thì giờ đi học giáo lý.

…Sau khi chịu báp-tem… có một việc xảy đến nhằm thử thách đức tin chúng tôi… Chúng tôi thường đi với các giáo sĩ để giúp đỡ sắp xếp buổi nhóm và làm chứng cho người chưa biết Chúa. Một tối nọ, vừa ra đến giữa sông thì giông tố nổi lên, nước tràn vào đò, mọi người đều sợ hãi. Trong đêm tối có những tiếng kêu la thất thanh. Phần đông những người đi chuyến đò nầy đều chưa tin Chúa. Chúng tôi khuyên ai ngồi chỗ nào cứ ngồi yên chỗ nấy. Riêng tín đồ thì cầu nguyện và hát thánh ca.

Khi chúng tôi đang hát, thì nghe tiếng của những người chèo đò la hoảng: “Chết rồi, đứt một quai chèo rồi!” Nhưng chúng tôi cứ hát cho đến khi đò tấp vào bờ, cách xa đến độ hơn trăm thước. Thuyền đầy ắp nước gần chìm. Mọi người chúng tôi đều ướt như chuột, nhưng tạ ơn Chúa gìn giữ, tất cả đều bình an. Sau đó có bốn người đi chung chuyến đò ấy đã trở lại tin nhận Chúa. Thật Chúa dùng cơn bão làm tăng thêm đức tin chúng tôi và làm sáng danh Ngài.

3. Một Người Tin Cả Nhà Được Cứu.

Tháng 5 năm 1924 có một Hội đồng nhóm tại Đà Nẵng, được mệnh danh là Hội đồng Phục hưng lần thứ nhất. Diễn giả chính là Mục sư Hoàng Nguyên Tố, người Trung Hoa…

Từ trước tới nay, ngoài sự khẩn thiết cầu xin Chúa cứu ông thân chúng tôi và gia đình, chúng tôi còn nhờ Hội Thánh và các ông bà đã tin Chúa tìm đủ cách để dẫn dắt gia đình chúng tôi trở lại với Chúa. Nhân lúc có Hội đồng… chúng tôi nhờ một người quen mời ông thân tôi đi nghe. Cám ơn Chúa, ông cụ nhận lời…

Sau giờ giảng, chúng tôi cùng ông cụ về nhà ăn cơm tối. Trong bữa ăn, chúng tôi cố tình nhắc lại bài giảng để dọ ý ông cụ thế nào? Ông cụ gật đầu tỏ ý thán phục: “Họ nói phải lắm”. Nghe câu ấy chúng tôi rất mừng rỡ nên hỏi lại: “Thưa, thầy đã nhận là họ nói phải lắm, vậy thầy tưởng có nên làm theo không?” Ông cụ suy nghĩ hồi lâu mới lên tiếng: “Làm theo cách nào?” Chúng tôi trình bày thêm để ông cụ được rõ là bất cứ ai hễ tin nhận Đức Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa thì tội lỗi được tha và linh hồn được cứu. Sau đó, chúng tôi cũng đọc cho ông cụ nghe lời Chúa phán: “Nếu các ngươi chẳng tin Ta là Đấng đó, thì chắc sẽ chết trong tội lỗi các ngươi” (Giăng 8:24). Ngài đã nói cách quả quyết cùng mọi người rằng: “Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, ai nghe lời Ta mà tin Đấng đã sai Ta, thì được sự sống đời đời, và không đến sự phán xét, song vượt khỏi sự chết mà đến sự sống” (Giăng 5:24). Đó là một sự kiện chắc chắn, vì “hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài” (Giăng 1:12).

Cụ lại hỏi: “Tin là làm sao?” Chúng tôi giải thích: Tin là lấy lòng thành kính quỳ gối xuống cầu nguyện, nhận mình là người có tội, và bằng lòng tiếp nhận Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa để tội ấy được tha và nhận lãnh sự yêu thương của Đức Chúa Trời. Cụ bằng lòng quỳ gối giữa nhà. Anh tôi là Mục sư Lê Hoàng Long và tôi cầu nguyện cho cụ tin nhận Chúa.

Sau khi cầu nguyện và hát ngợi khen, chúng tôi nhìn thấy nét mặt cụ rạng rỡ và đôi mắt sáng ngời. Cụ muốn nghe nói thêm về chuyện Kinh Thánh. Chúng tôi liền phân tích để ông cụ rõ về câu chuyện thế nào là thờ phượng thật và thế nào là không thật mà Chúa Giê-xu đã nói với người đàn bà Sa-ma-ri. Chúng tôi nhắc lại câu: “Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy”, để xin cụ cất bỏ bàn thờ trong nhà đi. Cụ tươi cười bảo: “Bay muốn làm gì thì làm”. Chúng tôi hết sức ngợi khen Chúa và bắt tay vào việc ngay. Tất cả những đồ thờ phượng bằng gỗ trên ba bàn thờ lớn giữa ba căn nhà đều được dọn ra ngoài sân. Nội trong đêm đó chúng tôi đập bể và đốt hết, đến hơn mười hai giờ khuya mới xong. Trở vào nhà chúng tôi sung sướng cầu nguyện tạ ơn Chúa. Đó là lần cầu nguyện đầu tiên trong gia đình không bị ngăn trở bởi bàn thờ. Ha-lê-lu-gia!

Đức tin của ông thân chúng tôi ngày càng thêm mạnh mẽ, dù gặp nhiều khó khăn thử thách, nhưng vẫn cứ kiên định cho đến khi về nước Chúa.

Tiếp theo đó bà kế mẫu của chúng tôi cũng đã tin nhận Chúa qua một cơn bạo bệnh. Sau khi đã uống nhiều thuốc của hai ông đông y, bà được đưa vào bệnh viện để được chữa bằng thuốc tây, nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Tất cả mọi người trong gia đình đều thất vọng. Trong khi đó thì chúng tôi âm thầm cầu xin Chúa cứu mẹ chúng tôi. Quả thật bởi ơn của Chúa, bà được chữa lành một cách lạ lùng. Do đó bà vui lòng tin nhận Chúa. Bởi phép lạ ấy, có mấy người trong họ ngoại chúng tôi thức tỉnh ăn năn. Các chị và các em chúng tôi cũng vậy, đều lần lượt trở lại với Chúa và dâng mình hầu việc Ngài, cho đến ngày nay vẫn còn đứng vững trong chức vụ cách đầy ơn. Thật đúng như Lời Chúa phán: “Một người tin cả nhà được cứu”.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Xi ra.

Xi đánh giày nhỡ bị khô, bạn có thể làm cho nó mềm lại bằng một trong các cách sau đây:

+ Cho sữa tươi nóng hay nước cốt chanh tươi vào.

+ Cho một ít dầu lửa hay dầu nhựa thông vào.

 

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 21.6.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 21.6.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 21.06.2015 (Lễ Phụ thân).

1. Đề tài: VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CHA.

2. Kinh Thánh: Sáng 21:8; Xuất 20:5; 21:22; 34:7; Giô 4:6,21,22; 29:6; Phục 6:4-9; 7:3; Ô-suê 11:3.

3. Câu gốc: “Các lời mà ta truyền cho ngươi ngày nay sẽ ở tại trong lòng ngươi; khá ân cần dạy dỗ điều đó cho con cái ngươi” (Phục 6:6-7a).

4. Đố Kinh Thánh: Châm 1-3.

5. Thể loại: Chia sẻ.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CHA.

Chúa nhật thứ ba tháng sáu hằng năm là ngày lễ Phụ thân. Lễ Phụ thân là ngày để con cái nghĩ đến công ơn của người cha hầu tri ân và sống xứng đáng với danh phận làm con. Đây cũng là ngày giúp cho người cha ý thức vai trò mình trong gia đình để sống yêu thương và chu toàn trách nhiệm đối với con cái.

Người Việt ta quan niệm:

Con có cha như nhà có nóc

Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.

Hoặc:

Còn cha gót đỏ như son

Mai sau cha chết gót con đen sì.

Và:

Bạc bảy đâu sánh vàng mười

Mồ côi đâu sánh cùng người có cha.

Đọc Kinh Thánh chúng ta sẽ thấy Lời Chúa viết về người cha nhiều hơn người mẹ. Điều này bày tỏ rằng người cha được Chúa ban địa vị thật cao trọng. Trở thành người cha chẳng những là một đặc ân cao quí Chúa cho, mà cũng là trách nhiệm lớn nhất của con người.

Nhân ngày lễ Phụ thân năm nay, chúng ta cùng tìm biết về “Vai trò của người cha trong Cựu Ước”.

1. Trách Nhiệm Đối Với Con Khi Chưa Sinh.

Trong Cựu Ước, người cha có trách nhiệm bảo vệ đứa con chưa chào đời của mình. Khi có một người gây thương tích cho một phụ nữ đang mang thai khiến sẩy thai, thì người gây thương tích phảibồi thường theo mức chồng phụ nữ nầy ấn định (Xuất 21:22).

2. Trách Nhiệm Sau Khi Con Ra Đời.

Theo luật lệ về sinh đẻ, người cha chịu trách nhiệm làm lễ cắt bì cho con trai vào ngày thứ tám (Lê-vi 12:3); phải phú dâng cho Đức Chúa Trời con trưởng nam của mình (Xuất 22:29). Khi con lớn lên, người cha sẽ tập cho con đi, cầm cánh tay mà dìu nó (Ô-sê 11:3). Lúc con đến ngày dứt sữa, người cha đặt tiệc ăn mừng (Sáng 21:8).

3. Trách Nhiệm Dạy Dỗ Con Cái.

Người cha có trách nhiệm dạy dỗ con cái. Người phải ân cần dạy dỗ cho con khi ở nhà, lúc ra ngoài, khi đi ngủ, lúc thức dậy (Phục 6:4-9). Người cha phải ghi tạc những mệnh lệnh Chúa vào lòng dạ, khắc vào thẻ bài đeo nơi tay và đeo trước trán. Rồi đem những mệnh lệnh nầy dạy cho con cái am tường (Phục 11:18-21). Người cha cũng dạy cho con về ý nghĩa các ngày lễ (Xuất 12:26-27; 13:8,14; Phục 6:20-25); và dạy cho chúng biết về lịch sử cuộc giải cứu và sự thành tín của Đức Chúa Trời đối với các bậc cha ông (Giô 4:6,21-22).

Sự dạy dỗ của người cha rất quan trọng, nên tác giả sách Châm Ngôn đã nhiều lần nhắc nhở các con cái phải nghe theo lời người cha khuyên dạy (Châm 1:8-9; 4:1; 6:20-22; 13:1; 15:5).

4. Trách Nhiệm Thực Thi Kỷ Luật.

Người cha có trách nhiệm giáo huấn và hướng dẫn con cái sống theo kỷ luật. Người phải “dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo; dầu khi nó trở về già cũng không hề lìa khỏi đó” (Châm 22:6). Đức Chúa Trời đã phạt Hê-li và không cho gia đình ông tiếp tục hành chức thầy tế lễ, vì ông đã biết “tính nết quái gở của các con trai mình, mà không cấm” (1Sa 3:13). Các con trai của Sa-mu-ên vì không được giáo huấn theo kỷ luật nên đã ăn hối lộ, bóp méo công lý và điều này làm cớ cho dân Y-sơ-ra-ên cầu xin một vua để cai trị họ (1Sa 8:1-5). Vua Đa-vít đã không dạy con khép mình vào kỷ luật, khiến gia đình phải chứng kiến cảnh con trai tự tôn làm vua (1Các 1:5-6).

Sách Châm Ngôn bày tỏ lẽ thật nầy: Người cha biết thương con thì không quên sửa trị con (3:11-12); ai kiêng roi vọt ghét con trai mình (13:24). Cổ nhân ta diễn giải lại: “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”.

Hơn nữa, dạy con lúc còn thơ ấu là không để chúng sa vào chốn diệt vong (19:18; 22:15; 23:13-14; 29:17).

5. Trách Nhiệm Sống Công Chính.

Người cha có trách nhiệm sống yêu kính Chúa, nếu không Ngài sẽ phạt luôn cả con cháu người ấy cho đến ba bốn thế hệ (đời) (Xuất 20:5; 34:7). Người cha bất kính sẽ khiến “con cái nó phải mồ côi, và vợ nó bị góa bụa” (Thi 109:9). Đa-vít đã sống bất kính nên “con trai đã sanh cho ngươi hẳn sẽ chết” (2Sa 12:14). Đây là số phận Đức Chúa Trời dành cho kẻ gian tà: “Dù họ có đông con cái, đứa chết vì gươm, đứa vì đói khát” (Gióp 27:14) KTHĐ.

Ngược lại, một người cha chân thật sẽ để lại cho “những con cháu người lấy làm có phước thay” (Châm 20:7). Gióp thường dâng tế lễ thiêu cho các con, vì người nói rằng: “Biết đâu con cái tôi phạm tội và âm thầm khước từ Đức Chúa Trời trong lòng” (Gióp 1:5).

Trách Nhiệm Cưới Vợ Gả Chồng Cho Con Cái.
Người cha trong thời Cựu Ước có trách nhiệm đối với hôn nhân của các con, người được Chúa ủy thác cưới vợ, gả chồng cho con cái (Giê 29:6). Tiêu chuẩn của việc dựng vợ gả chồng là không kết sui gia với người ngoại (Phục 7:3). Kinh Thánh thuật lại việc Áp-ra-ham sai người đầy tớ, đi cưới vợ cho con trai mình là Y-sác (Sáng 24:2-9).

Về sau, Y-sác căn dặn con trai mình là Gia-cốp và Ê-sau đừng cưới vợ người Ca-na-an và sự không vâng lời của Ê-sau đã làm cho cha không vừa lòng (Sáng 27:46-28:9). Khi Gia-cốp xuống cưới Ra-chên làm vợ, người cũng phải xin cha nàng chấp thuận (Sáng 29). Sam-sôn xuống Thim-na gặp một cô gái Phi-li-tin, trở về nhà ông cũng xin cha mẹ cưới cô ấy cho mình (Quan xét 14:1-2). Tuy nhiên Sam-sôn vì không nghe lời khuyên của cha mẹ nên đã bị thất bại trong hôn nhân.

Việc người cha được Chúa giao cho trách nhiệm cưới vợ, gả chồng cho con cái, cho nên dù bạn và “người ấy” đã gặp nhau “tình trong như đã mặt ngoài còn e” thì cũng chớ vội tiến tới hôn nhân.

Ta còn cần phải:

Em về em hỏi mẹ cha

Có cho em lấy chồng xa hay gần

Em về hỏi mẹ cùng thầy

Có cho anh cưới tháng nầy thì cho.

Qua bài học này, mong rằng các bạn thanh niên bước vào tuổi lập gia đình nhận biết vai trò, trách nhiệm của mình trước mặt Chúa để sống xứng đáng kết quả cho Chúa, cho gia đình, cho Hội Thánh.

Vì hôn nhân là việc quan trọng cả cuộc đời, người phối ngẫu (vợ, chồng) phải là người Chúa chọn, theo ý muốn Ngài chứ không theo ý muốn chúng ta, thì mới đem lại hạnh phúc.

Mục sư Tô Văn Ut (có sửa).

 

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

MẮC CỔ.

– Nuốt phải vật lạ trơn như nút áo, hột xí muội… đừng lo sợ. Hãy lấy một cục cơm (cơm cháy càng tốt), bóp chặt cho nuốt. Vật ấy sẽ trôi xuống bụng. Cần phải xem phân để tìm ra vật phải nuốt.

– Nuốt phải vật có ngạnh nhưng nhỏ như xương cá, xương heo vụn cũng có thể làm như trên.

– Nuốt phải vật nhỏ như kim tây, kim băng, phải đưa ngay đến bác sĩ để gắp ra. Tuyệt đối không cho đũa, muỗng vào cổ họng để tìm lấy ra, không cho uống thuốc xổ.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 14.6.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 14.6.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 14.06.2015.

1. Đề tài: SINH NHẬT QUÝ II.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 100.

3. Câu gốc: “Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách vui mừng, hãy hát xướng mà đến trước mặt Ngài” (Thi 100:2).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 148-150.

5. Thể loại: Ca ngợi – Cảm tạ.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

* TRÒ CHƠI DÀNH CHO NGƯỜI CÓ SINH NHẬT.

BÔNG HOA SINH NHẬT.

– Chuẩn bị: Cắt một số hoa bằng giấy màu và viết lời yêu cầu thật vui cuộn tròn lại dán vào nhụy hoa. Dùng băng keo hai mặt dán bông hoa lên bảng (hoa và người có ngày sinh trong quí phải tương đương).

– Cách chơi: NHD sẽ mời từng người có ngày sinh trong quí lên chọn và hái cho mình một bông hoa. Quan sát kỹ trong bông hoa sinh nhật có gì đặc biệt, xem và đọc lớn rồi thực hiện lời yêu cầu.

* TRÒ CHƠI TẬP THỂ.

VẬN CHUYỂN.

– Cách chơi: NHD chọn 5-10 người tùy theo sân chơi hẹp hay rộng. Vạch điểm xuất phát và đích cách nhau khoảng 15-20m. Tất cả người chơi đứng thành hàng ngang, cúi gập lưng, NHD đặt trên lưng mỗi người một cái nón hoặc một vật nào đó. NHD ra hiệu lệnh, những người chơi chạy về đích. Cố giữ sao cho đồ vật vẫn ở trên lưng (không dùng tay). Ai về đích trước không phạm luật là thắng cuộc.

* Chế biến: Có thể cho di chuyển về đích với đoạn đường ngắn hơn nhưng phải nhảy cò cò một chân.

ĐỒNG MỘT TÂM TÌNH.

– Cách chơi: Mỗi nhóm cử ra hai người hoặc toàn ban chia thành từng đôi một đứng thành hàng ngang. NHD dùng khăn quàng cột chặt chân phải người này với chân trái người kia từng đôi. Khi có lệnh từng đôi về đích. Đôi nào về đích trước là thắng cuộc.

– Lưu ý: Nên tổ chức chơi ở sân cỏ hoặc cát.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Vôi Vào Mắt.

Vôi bắn vào mắt rất nguy hiểm. Hãy hòa đường cát sạch với nước cho đặc, nhỏ vào mắt ngay, trước khi đưa đến bệnh viện.

 

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 07.6.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 07.6.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 07.06.2015.

1. Đề tài: MA-LA-CHI – NGƯỜI KÊU GỌI DÂN SỰ TRỞ LẠI CÙNG CHÚA (DÂNG 1/10).

2. Kinh Thánh: Ma-la-chi 3:1-18.

3. Câu gốc: “Các ngươi hãy đem hết thảy phần mười vào kho, hầu cho có lương thực trong nhà ta; và từ nay các ngươi khá lấy điều nầy mà thử ta, Đức Giê-hô-va vạn quân phán, xem ta có mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng!” (Ma-la-chi 3:10).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 142 – 147.

Thể loại: Học Kinh Thánh.
* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

1. Đọc Ma-la-chi 3:7-12 cho biết:

(1.1) Ma-la-chi kêu gọi dân sự Chúa làm điều gì?

(1.2) Tại sao họ phải trung tín dâng phần mười?

(1.3) Bạn và gia đình đã trung tín dâng phần mười chưa? Xin chia sẻ kinh nghiệm phước hạnh khi bạn trung tín dâng phần mười.

2. Đọc Ma-la-chi 3:16-18, cho biết:

(2.1) Người trở lại cùng Chúa được phước gì?

(2.2) Những phước nầy có giá trị gì đối với con dân Chúa?

(2.3) Những phước hạnh nầy khích lệ bạn thế nào trên bước đường đi theo Chúa?

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

I. GIỚI THIỆU.

Ma-la-chi là tiên tri sau cùng của thời Cựu ước. Tên Ma-la-chi có nghĩa “sứ giả của Ta”. Ông được Đức Chúa Trời kêu gọi để đem mạng lịnh của Ngài cho Y-sơ-ra-ên vào khoảng năm 435-400 T.C.

Với sự khuyến khích của tiên tri A-ghê và Xa-cha-ri, dân sự xây cất xong đền thờ Giê-ru-sa-lem. Nhưng sau đó họ bắt đầu ngã lòng, nghi ngờ tình yêu thương của Đức Chúa Trời, xao lãng việc thờ phượng Chúa và lìa bỏ luật pháp Ngài. Trong tình trạng sa sút nguội lạnh của dân sự nhất là sự giả hình của các nhà lãnh đạo tôn giáo, Ma-la-chi đem sứ điệp của Chúa cảnh cáo tội lỗi Y-sơ-ra-ên. Đồng thời Xa-cha-ri cũng loan báo ngày của Chúa sắp đến và kêu gọi sự ăn năn. Trong lời khuyên dân sự trở về cùng Đức Chúa Trời, điểm đặc biệt nhất của Ma-la-chi là thách thức dân Chúa trung tín trong sự dâng phần mười. Điều đó nhắc nhở Cơ đốc nhân chúng ta hôm nay thế nào trong đời sống tin kính Chúa?

II. DẪN GIẢI.

1. Sự Bội Nghịch Của Dân Y-sơ-ra-ên.

– Trong Ma-la-chi 1-3 mô tả sự bại hoại của dân Y-sơ-ra-ên trong hình ảnh của người con ngổ nghịch, mất sự tôn kính cha, như chúng ta nghe qua những lời đối đáp ngược ngạo bất kính của họ đối với Đức Chúa Trời:

(1) 1:2: Đức Chúa Trời phán: “Ta yêu các ngươi…”, nhưng họ trả lời rằng: “Chúa yêu chúng tôi ở đâu?”.

(2) 1:6: Đức Chúa Trời quở trách: “…Nếu ta là chủ, nào sự kính sợ ta ở đâu?” Họ trả lời: “Chúng tôi có khinh dể danh Ngài ở đâu?”.

(3) 1:7: Đức Chúa Trời quở trách: “Các ngươi dâng bánh ô uế trên bàn thờ ta…” nhưng họ trả lời: “Chúng tôi có làm ô uế Ngài ở đâu?” nhưng thật ra họ đã làm ô danh Ngài bởi sự lừa dối, khinh lờn đem những con sinh tế tàn tật, những con vật bị cướp dâng trên bàn thờ cho Chúa! Cho nên Ngài phán rằng: “Đáng rủa sả thay là kẻ hay lừa dối, trong bầy nó có con đực, mà nó hứa nguyện và dâng con tàn tật làm của lễ cho Chúa! Đức Giê-hô-va vạn quân phán: Vì ta là Vua lớn, danh ta là đáng sợ giữa các dân ngoại” (1:14). Trong khi đó dân Chúa lại khinh dể danh Ngài!

(4) Đức Chúa Trời quở trách họ làm phiền Ngài vì cớ đã nói những lời vô tín ấy là: “Ai làm điều dữ thì đẹp mắt Đức Giê-hô-va, và Ngài ưa thích những người như vậy; bằng chẳng vậy, thì nào Đức Chúa Trời của sự chánh trực ở đâu?” Nhưng họ trả lời: “Chúng tôi có làm phiền Ngài ở đâu?” (2:17).

(5) Đức Chúa Trời quở trách họ vì những lời nói nghịch cùng Ngài rằng: “Người ta hầu việc Đức Chúa Trời là vô ích; chúng ta giữ điều Ngài dạy phải giữ, và bước đi cách buồn rầu trước mặt Đức Giê-hô-va vạn quân, thì có lợi gì? Rày chúng ta kể kẻ kiêu ngạo là có phước, kẻ phạm sự hung ác là tấn tới: Họ đã thử Đức Chúa Trời, và đã được giải thoát!”. Nhưng họ trả lời: “Chúng tôi có nói gì nghịch cùng Ngài?” (3:13-15).

– Dân sự chẳng những chống nghịch Chúa, nhưng còn chối bỏ đường lối Ngài và sống cách buông lung theo tư dục. Họ làm điều gian dối, hoà mình với đời trong sự kết hôn với người ngoại đạo, và ly dị vợ là điều Đức Chúa Trời phán: “Ta ghét người nào bỏ vợ, và người nào lấy sự hung dữ che áo mình” (2:16). Cho nên tiên tri Ma-la-chi đem lời của Chúa quở trách tội lỗi dân sự, nhất là trách nặng người Lê-vi, là người được Chúa giao cho trách nhiệm dạy dỗ dân sự học biết luật pháp Ngài. Nhưng họ không làm tròn sứ mạng, trái lại chính họ lại xây bỏ đường lối Chúa và làm cho nhiều người vấp ngã trong luật pháp. Vì họ không kính sợ Chúa, nên Ngài phán: “Vậy nên ta cũng đã làm cho các ngươi ra khinh bỉ hèn hạ trước mặt cả dân…” (2:5-9). Trong sự bại hoại của dân Y-sơ-ra-ên chúng ta ghi nhận những điểm sau đây:

(1) Sự bội nghịch Chúa bắt đầu từ chỗ thiếu lòng kính sợ Chúa và nghi ngờ tình yêu thương của Ngài.

(2) Sự thiếu lòng kính sợ Chúa bắt đầu từ chỗ không học biết Chúa và Lời Ngài. Vì vậy sự dạy dỗ cho con cái luật pháp Chúa để chúng học tập kính sợ Đức Giê-hô-va là mạng lịnh của Đức Chúa Trời cho người làm cha mẹ, cũng như cho người hướng dẫn người khác (Phục 5:1; 6:4-9,13). Cho nên sự quở trách người Lê-vi trong sự bội đạo của Y-sơ-ra-ên là sự nhắc nhở chúng ta trách nhiệm quan trọng này.

2. Sự đoán xét của Chúa.

Đáp lại lời than phiền “nào Đức Chúa Trời của sự chánh trực ở đâu?” (2:17), Ma-la-chi rao báo cho dân sự đang bội nghịch Chúa về ngày đoán xét sắp đến. Trong 3:1-2, Ma-la-chi rao báo sự hiện đến của hai nhân vật:

(1) Sứ giả dọn đường: “Nầy, ta sai sứ giả ta, người sẽ dọn đường trước mặt ta” (3:1a). Đối chiếu với sự kiện đã xảy ra trong Tân ước, thì sứ giả dọn đường mà đấng tiên tri Ê-sai và Ma-la-chi loan báo đó chính là Giăng Báp-tít, là người “lấy tâm thần quyền phép của Ê-li mà” đến (Ê-sai 40:3-5; Mác 1:2-3; Lu-ca 1:16-17). Và Chúa Giê-xu cũng đã xác nhận Giăng là sứ giả phải đến (Mat 11:10-14).

(2) Đấng đoán xét là Chúa: “…và Chúa mà các ngươi tìm kiếm sẽ thình lình vào trong đền thờ Ngài, tức là thiên sứ của sự giao ước mà các ngươi trông mong” (3:1). Chúa còn có danh hiệu là thiên sứ của sự giao ước, đó chính là Đấng Christ, mà Giăng đã giới thiệu Ngài với dân Y-sơ-ra-ên (Mat 3:3,10-12; Giăng 1:26-29). Như vậy sự loan báo của Ma-la-chi về sự hiện đến của sứ giả và Chúa đã ứng nghiệm trong Giăng và Chúa Giê-xu. Ngài là Cứu Chúa cũng là Đấng đoán xét Y-sơ-ra-ên như sự bày tỏ trong 3:2-6: “Nhưng ai sẽ đương nổi ngày Ngài đến, và ai đứng được khi Ngài hiện ra? Vì Ngài giống như lửa của thợ luyện, như tro của thợ giặt. Ngài sẽ ngồi như kẻ luyện bạc và làm cho sạch; Ngài sẽ chùi các con trai Lê-vi, làm cho chúng nó sạch như vàng và bạc, chúng nó sẽ dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va trong sự công bình”. Trong sự hiện đến lần thứ nhất với ân điển, Chúa dùng nước của báp têm kêu gọi sự ăn năn và tin nhận Ngài để được tha tội, và dùng lửa của Thánh Linh để thánh hoá đời sống dân Chúa (Mat 3:7-11). Nhưng lần hiện đến thứ hai với sự đoán xét, Ngài sẽ chọn lọc kẻ thuộc về Ngài, như trong lời cảnh cáo của Giăng: “Ngài sẽ chứa lúa vào kho, còn rơm rạ thì đốt trong lửa chẳng hề tắt” (Mat 3:12).

3. Lời kêu gọi ăn năn.

Vì sự đoán xét lớn dường ấy, nên Ma-la-chi kêu gọi dân sự hãy trở lại cùng Đức Chúa Trời để không bị hư mất: “Vì Ta là Đức Giê-hô-va, Ta không hề thay đổi; bởi cớ đó, các ngươi là con trai Gia-cốp, chẳng bị diệt vong. Từ những ngày tổ phụ các ngươi, các ngươi đã xây bỏ luật lệ ta và không vâng giữ. Hãy trở lại cùng Ta, thì Ta sẽ trở lại cùng các ngươi” (3:6-7). Đức Chúa Trời thành tín với giao ước Ngài, nên dầu dân sự xây bỏ Chúa, nhưng nếu biết ăn năn xây bỏ điều ác, Ngài sẽ sẵn sàng tiếp nhận trở lại. Điểm bắt đầu của sự thật lòng trở lại là trả cho Chúa số phần mười mà từ lâu nay họ đã trộm của Ngài. Đối với người Y-sơ-ra-ên, sự dâng phần mười là một bổn phận bắt buộc theo quy định trong luật pháp Môi-se. Đây là mạng lịnh của Đức Chúa Trời truyền dạy Y-sơ-ra-ên phải dâng lại phần mười về số hoa lợi họ có trong xứ mà Ngài ban phước cho để dùng cho người Lê-vi là người thay mặt dân sự hầu việc Chúa trong đền thờ (Phục 14:22-29; 26:12). Cho nên người trốn tránh hay thiếu sót bổn phận này bị kể là kẻ ăn trộm Chúa, vì số phần mười đó thuộc về Ngài. Chúa phán: “Các ngươi nói rằng; chúng tôi ăn trộm Chúa ở đâu? Các ngươi đã ăn trộm trong các phần mười và trong các của dâng” (3:8). Đó là nguyên nhân khiến họ bị mất phước trước mặt Chúa. “Các ngươi bị rủa sả, vì các ngươi, thảy cả nước, đều ăn trộm Ta” (c.9).

Bởi cớ đó Ma-la-chi kêu gọi dân sự trở lại cùng Đức Chúa Trời trước hết với sự dâng phần mười. Bằng sự thách thức họ hãy thử Chúa xem Ngài có “mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng!” (c.10). Thật ra không phải Đức Chúa Trời ban phước vì của dâng, nhưng vì tấm lòng trung tín vâng theo mạng lịnh Ngài. Đức Chúa Trời luôn thành tín, nên người trung thành với Chúa chắc sẽ hưởng phước hạnh của lời Ngài hứa vậy. Có thể ngày nay một số người viện cớ không có sự bắt buộc dâng phần mười trong thời ân điển, để rồi bỏ qua sự dâng hiến hay xao lãng trong sự dâng hiến cho Chúa. Nhưng thật ra với sự tự nguyện dâng và với lòng biết ơn cứu rỗi của Chúa sự dâng hiến đó hẳn phải trội hơn cả phần mười nữa (2Côr 8:1-6; 9:7,15). Từ xưa nay đã có rất nhiều con cái Chúa được phước trong sự trung tín dâng phần mười. Có nhiều đời sống nêu gương sáng cho chúng ta như sự trung tín của ông Le Tourneau, người làm chủ nhiều cơ sở kỹ nghệ danh tiếng. Trước kia ông là người bán hàng tầm thường, nhưng không quên dâng cho Chúa phần mười. Về sau được trở thành người giàu có, ông không chỉ dâng một phần mười nhưng dâng cho đến chín phần mười lợi tức của mình. Ông John Wesley người sống trong thế kỷ 18, lúc thiếu thời làm việc năm đầu được 150 mỹ kim, ông dâng cho Chúa 10 mỹ kim. Qua năm sau lương ông tăng gấp đôi, nhưng vẫn tiêu dùng 140 mỹ kim và dâng Chúa 160 mỹ kim. Sang năm thứ ba ông lãnh 600 mỹ kim, nhưng vẫn cứ sống với 140 mỹ kim còn 460 mỹ kim ông dâng cho Chúa. Còn chúng ta thì sao?

4. Lời Hứa Ban Phước.

Trong sự sa sút, dân sự ngã lòng trước sự hưng thịnh của kẻ ác. Nhưng Ma-la-chi đã tỏ cho biết người kính sợ Chúa nhận được lời hứa nầy: “Bấy giờ những kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va nói cùng nhau, thì Đức Giê-hô-va để ý mà nghe; và một sách để ghi nhớ được chép trước mặt Ngài cho kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va và tưởng đến danh Ngài” (3:16). Lời nói của kẻ dấy nghịch Chúa chỉ là lời hư không và bị Chúa đoán phạt, nhưng lời nói của người công bình được Chúa ghi nhớ! Thật là phước hạnh biết bao! Thật là an ủi biết bao! Đôi lúc chúng ta bi quan tưởng như Chúa không nghe mình. Nhưng hãy nhớ Đức Chúa Trời đang lắng nghe từng lời nói, chú ý từng việc làm của người kính sợ Chúa và ghi nhận trong sách của Ngài. Trong 3:17-18, Ma-la-chi cho thấy sự khác biệt giữa người công bình và kẻ kiêu ngạo trong ngày cuối cùng: Kẻ ác bị Chúa xét đoán và bị hủy diệt. Trái lại người công bình được Chúa ban thưởng và nhận làm cơ nghiệp của Ngài. Vì thế, Ma-la-chi kêu gọi dân sự hãy trở lại cùng Đức Chúa Trời, sống trong sự kính sợ Chúa và trung thành hầu việc Ngài. Vì công việc của chúng ta trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu (1Côr 15:58).

5. Đời Sống Và Sứ Mạng.

Qua việc rao giảng các sứ điệp, chúng ta tìm thấy trong Ma-la-chi hai đức tính đáng nêu gương cho người hầu việc Chúa, đó là ngay thẳng và can đảm. Ông nhận lời Chúa như thế nào thì ban phát lại cho dân sự thể ấy. Với lòng ngay thẳng và can đảm chỉ thẳng tội của người lãnh đạo, của dân sự thảy đều là kẻ trộm tiền phần mười của Chúa! Đây không phải là điều dễ nói, nhưng ông không chút ngần ngại nói điều đáng phải nói!

Tóm lại ba điểm chính trong sứ mạng Ma-la-chi là: Cảnh cáo tội lỗi của Y-sơ-ra-ên, rao báo sự hiện đến của sứ giả dọn đường và sự hiện đến của Đấng Mê-si, kêu gọi dân sự trở lại cùng Đức Chúa Trời và trung thành hầu việc Ngài. Điểm nổi bật là thách thức dân sự dâng phần mười cho Chúa, đây cũng là sự thách thức cho chúng ta hôm nay. Qua các sứ điệp của Ma-la-chi nhắc nhở chúng ta kiểm điểm lại chính mình về tấm lòng kính sợ Chúa. Cũng khuyến khích anh em chúng ta trong đời sống tin kính Chúa và trung tín phục sự Ngài.

TỔNG KẾT.

Qua các bài học, chúng ta đã học khoảng bốn mươi danh nhân trong Kinh Thánh. Đó là những anh hùng đức tin của thời Cựu Ước. Họ là những người nam, người nữ sống trong những thời đại, những hoàn cảnh khác nhau. Hoặc giàu có như Gióp, hay đơn sơ nghèo nàn như A-mốt, hoặc có địa vị như Giô-sép, Môi-se, Đa-vít, Đa-ni-ên… họ đều là những người sống trong thế gian, nhưng dám phân rẽ với thế gian để sống theo tiếng gọi của Chúa. Như Nô-ê, không đồng hóa trong nếp sống bại hoại của loài người lúc bấy giờ, nhưng đã đồng đi cùng Đức Chúa Trời và vâng lịnh Ngài đóng tàu để cứu gia đình khỏi nước lụt. Như Áp-ra-ham vâng lời Chúa, lìa bỏ quê hương mình đến xứ Chúa hứa ban và trở nên nguồn phước cho muôn dân. Như Môi-se không sợ vua giận, nhất định từ bỏ danh hiệu là con công chúa Pha-ra-ôn, để theo phục sự Đức Giê-hô-va. Như Ê-xơ-tê sẵn sàng bỏ địa vị hoàng hậu và mạng sống của mình cho sứ mạng Chúa gọi giải nguy dân tộc mình. Đặc biệt với Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên, Đa-ni-ên, Ô-sê, Giô-ên, A-mốt, Áp-đia, Giô-na, Mi-chê, Na-hum, Ha-ba-cúc, Sô-phô-ni, A-ghê, Xa-cha-ri, Ma-la-chi là những người đã mang sứ điệp của Chúa cảnh cáo tội lỗi của dân sự, rao sự đoán xét của Chúa cho thế gian và loan báo về sự hiện đến của Đấng Cứu Thế Mê-si. Họ đã trung thành với sứ mạng cho dù bị bắt bớ, bị bỏ ngục tù, và bị đe dọa tánh mạng.

Những vị đó đã đi qua, nhưng để lại cho chúng ta những gương sáng chói về đời sống kính sợ, trung thành phục sự Chúa.

Hôm nay chúng ta có nghe tiếng Chúa gọi và mạnh dạn dấn thân bước theo những vị anh hùng đức tin ấy không?

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Lời rao báo về sự đoán xét của Chúa:

a. Xin đọc Ma-la-chi 1:2-3,6-7,13-14; 2:5-17; 3:5-8 và tìm hiểu tình trạng sa sút thuộc linh của dân Y-sơ-ra-ên đến mức độ nào?

b. Với sự bất kính của Y-sơ-ra-ên, Ma-la-chi cảnh cáo họ thế nào? (1:14).

c. Trong sự đoán xét dân Chúa, Ma-la-chi nói đến “sứ giả ta” và Chúa (3:1-4). Hai nhân vật này chỉ về ai? Và với sứ mạng nào? (Mat 3:10-12; 1:26-27; Công 2:36).

2. Lời kêu gọi ăn năn:

a. Trong 3:10, Ma-la-chi kêu gọi dân Chúa làm điều gì?

b. Tại sao dân Chúa phải trung tín trong sự dâng phần mười? (3:7-12).

3. Lời hứa ban phước:

a. Người trở lại cùng Chúa được phước gì? (3:16-18).

b. Từ 3:18-4:4: So sánh sự khác nhau giữa người công bình và người gian ác. Sự khác nhau này đem đến cho người kính sợ Chúa sự an ủi nào? (3:13-15).

4. Ma-la-chi với sứ mạng Chúa gọi:

a. Qua sự thi hành sứ mạng Chúa gọi, chúng ta tìm thấy trong Ma-la-chi có những đặt tính nào nêu gương cho người hầu việc Chúa?

b. Các sứ điệp của Ma-la-chi đem lại chúng ta sự cảnh tỉnh nào? Và khuyến khích chúng ta trong sứ mạng nào?

5. Xin ghi nhận những điểm quan trọng trong sứ điệp của Ma-la-chi.

6. Nhìn lại chính mình, xin cho biết:

a. Trong nếp sống đạo, bạn bày tỏ sự kính sợ Chúa như thế nào?

b. Bạn là người trung tín dâng hiến cho Chúa hay là kẻ ăn trộm của Ngài?

c. Đối với người sai lạc đường lối Chúa, bạn có can đảm cảnh cáo, kêu gọi họ trở về cùng Chúa không? Xin cho biết cách bạn làm?

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

CÁCH CHỌN TRÁI CÂY (tt).

– Măng cụt ngon không phải là trái to. Chọn trái có đường kính chừng 4-5cm. Quả nhỏ hơn là măng mọc ở cuối cành, không ngon. Cuống phải tươi, vỏ bóng vừa phải. Đó là trái chín cây. Trái có bụi phấn bám quanh vỏ là trái ngon, ít mủ.

– Chọn trái bơ chín có thể ăn ngay bằng cách lấy ngón tay ấn vào chỗ cuống. Nếu mềm thì đó là trái đã chín.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 31.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 31.5.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 31.05.2015.

1. Đề tài: XA-CHA-RI – NGƯỜI RAO BÁO VỀ SỰ TRỊ VÌ CỦA VUA VINH HIỂN.

Kinh Thánh: Xa-cha-ri 8-14.
3. Câu gốc: “Đức Giê-hô-va sẽ làm vua khắp đất; trong ngày đó, Đức Giê-hô-va sẽ là có một, và danh Ngài cũng sẽ là có một” (Xa-cha-ri 14:9).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 139 – 141.

5. Thể loại: Thuyết trình.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn thuyết trình.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

I. GIỚI THIỆU.

Xa-cha-ri là con trai của Ba-ra-chi, cháu Y-đô. Ông bắt đầu chức vụ tiên tri sau A-ghê hai tháng, để tiếp tục khuyến khích nhóm dân hồi hương ở Giê-ru-sa-lem hoàn tất việc xây lại đền thờ Chúa.

Tên Xa-cha-ri có nghĩa là “Chúa nhớ đến”. Sứ mạng Chúa gọi ông đúng với ý nghĩa tên của ông, chứng tỏ Chúa không bao giờ quên Y-sơ-ra-ên, tuyển dân của Ngài. Như tiên tri Ê-sai và Ê-xê-chi-ên, Xa-cha-ri có những dự ngôn rất rõ ràng về 2 lần hiện đến của Đấng Mê-si, với những sự hiện thấy đặc biệt có liên quan đến con người và công việc của Đấng Christ trong tương lai.

Điểm nổi bật trong các sứ điệp của Xa-cha-ri là rao báo sự vinh quang của Giê-ru-sa-lem trong thời trị vì của vị Vua trên muôn vua. Trong ngày phước hạnh ấy, Giê-ru-sa-lem sẽ đóng vai trò nào?

II. DẪN GIẢI.

1. Giê-ru-sa-lem, Thành Của Vua Lớn.

Giê-ru-sa-lem còn có tên gọi là “Sa-lem”, có nghĩa “bình an” (Sáng 14:18). Trước kia Giê-ru-sa-lem ở trong tay dân Giê-bu-sít, nhưng bị vua Đa-vít chinh phục và trở thành đế đô của vương quốc Y-sơ-ra-ên thống nhất (2Sa 5:6-9). Từ đó Giê-ru-sa-lem đã trải qua nhiều thăng trầm theo dòng lịch sử Y-sơ-ra-ên và thế giới. Giê-ru-sa-lem đã có lần nổi bật như vì sao sáng của các dân trong thời hoàng kim của Sa-lô-môn, vị vua khôn ngoan xuất chúng, nhưng rồi bị tàn phá bởi bàn tay tàn bạo của vua Nê-bu-cát-nết-sa, tiếp theo là sự phá huỷ của quân La Mã; rồi đến gót chân giày xéo của quân Hồi Giáo; kế đó các dân bản xứ thay nhau tranh giành trong khi dân Do Thái bị tản lạc khắp thế giới. Sau đệ nhị thế chiến, dân Do Thái bắt đầu được trở về lập quốc trên mảnh đất tổ tiên ngày xưa, mà phần lớn bị người Ả-rập chiếm cứ. Giê-ru-sa-lem ở trong tình trạng bị phân chia đông và tây Giê-ru-sa-lem, và đông Giê-ru-sa-lem nằm trong tay người Hồi Giáo. Trong cuộc chiến chớp nhoáng gọi là “6 ngày của tháng 6” năm 1967, dân Do Thái với quân số nhỏ bé nhưng đã đánh tan lực lượng khổng lồ của liên minh Ai-cập. Kết cuộc, biên giới Do Thái được mở rộng thêm một phần tư so với phần đất hiện có, tái chiếm và ở dưới quyền kiểm soát của chính quyền Y-sơ-ra-ên. Đến mùa hè năm 1980, quốc hội Do Thái đã bỏ phiếu dời thủ đô về Giê-ru-sa-lem, với lời tuyên bố của thủ tướng Begin như sau: “Giê-ru-sa-lem, thành của Đa-vít là thủ đô muôn đời của dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, và sẽ mãi mãi bất phân chia cho tất cả mọi thế hệ trong tương lai”. Mặc dầu đã có dự án tái thiết đền thờ Giê-ru-sa-lem, nhưng hiện nay đền thờ Hồi Giáo vẫn còn tọa lạc trên phần nền cũ của đền thờ Giê-ru-sa-lem vang bóng một thời mà vua Sa-lô-môn xây cất. Đây là một chướng ngại vật chẳng khác nào như cái gai trước mắt người Do Thái! Mặc dầu theo luật, người Do Thái phải tôn trọng tín ngưỡng của mọi tôn giáo và các nơi thánh, nhưng sự tranh chấp chủ quyền phần đất Giê-ru-sa-lem giữa người Do Thái và Hồi Giáo vẫn là vấn đề nóng bỏng và cứ âm ỷ cháy cho đến một ngày nào đó lời tiên tri trong Kinh Thánh được ứng nghiệm hoàn toàn cho thành phố lịch sử đặc thùnày. Trong lịch sử loài người, không có thành phố nào trải qua nhiều biến cố, tai ương như Giê-ru-sa-lem. Không có thành nào nhận được lời hứa phước hạnh và hoà bình trong tương lai như Giê-ru-sa-lem muôn thuở! Không có thành nào được vinh hạnh của lời hứa trở nên ngôi trị vì Vua trên muôn vua. Cũng như không có thành nào được gọi là “thành yêu dấu của Chúa” như Giê-ru-sa-lem! Ngay từ buổi ban đầu, Giê-ru-sa-lem là nơi ngự trị của Mên-chi-xê-đéc, vị vua hoà bình của Sa-lem. Và trong ngày sau cùng của thế giới, Đấng Christ, con vua Đa-vít cũng được gọi là Mên-chi-xê-đéc sẽ làm vua Giê-ru-sa-lem, đem hòa bình cho các dân trên đất.

Như lời tiên tri Xa-cha-ri đã rao báo, Giê-ru-sa-lem hay là Si-ôn, tên một ngọn đồi phía đông nam Giê-ru-sa-lem sẽ được xây lại. Thành này sẽ được gọi là thành chân thật, là núi thánh của Đức Giê-hô-va, để làm nơi ngự trị cho vị Vua Lớn sắp đến (Xa-cha 8:1-3). Trong sự trị vì của Đấng Mê-si, Giê-ru-sa-lem chẳng những là thủ đô của quốc gia Y-sơ-ra-ên phục hồi, nhưng còn là thủ đô của thế giới. Phước hạnh sẽ ra từ Giê-ru-sa-lem, các dân tộc, các thứ tiếng khắp nơi sẽ đổ về Giê-ru-sa-lem để tìm kiếm Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên và ơn thương xót của Ngài: “…có nhiều dân và nhiều nước mạnh sẽ đến tìm kiếm Đức Giê-hô-va vạn quân tại Giê-ru-sa-lem, và ở đó nài xin ơn Đức Giê-hô-va” (Xa-cha 8:22). Trong thời vua Sa-lô-môn, có nhiều nước chạy đến nghe sự khôn ngoan của vua. Nhưng trong tương lai, Giê-ru-sa-lem sẽ có Đấng tôn trọng hơn vua Sa-lô-môn (Mat 12:42). Ngài sẽ ngồi trên ngôi Đa-vít, sẽ dẫn Y-sơ-ra-ên vào tuyệt điểm của vinh quang hơn cả thời hoàng kim xa xưa của vua Sa-lô-môn. Ngài sẽ khiến mọi dân tộc trên thế giới đến Giê-ru-sa-lem để biết luật pháp và sự công nghĩa của Đức Giê-hô-va (Xa 8:23; 14:8).

2. Đấng Trị Vì Giê-ru-sa-lem.

Sự kiện Chúa Giê-xu cỡi lừa (dấu hiệu của vua hoà bình) vào thành Giê-ru-sa-lem là điều ứng nghiệm lời tiên tri của Xa-cha-ri đã loan báo: “Hãy nói với con gái thành Si-ôn rằng: Nầy, Vua ngươi đến cùng ngươi, nhu mì, cỡi lừa và lừa con là con của lừa cái mang ách” (Xa 9:9; Mat 21:1-5). Như vậy, danh hiệu Đức Giê-hô-va là Vua Công Bình nhu mì cỡi lừa được mô tả trong Xa-cha-ri 9:9; 14:9 chỉ về Đấng Mê-si, tức là Chúa Cứu Thế Giê-xu. Ngài đã vào thành Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất để chịu giết làm nên sự cứu rỗi cho loài người. Ngài cũng sẽ cỡi lừa vào thành Giê-ru-sa-lem lần thứ hai để làm Vua trên muôn vua. Trong sự trị vì của Đấng Christ, Ngài sẽ giải cứu Y-sơ-ra-ên, đoán xét các nước nghịch cùng dân Chúa, dạy cho mọi người biết sự công nghĩa, chánh trực của Đức Giê-hô-va, và đem lại sự hoà bình cho khắp đất (Xa 2:10-12; 14:9-12; Mi 4:2-3).

Trong Xa-cha-ri 8:4-19; Xa-cha-ri cho chúng ta nhìn thấy viễn cảnh vô cùng phước hạnh của Giê-ru-sa-lem trong thời trị vì của Vua Hoà Bình, một quang cảnh thanh bình tràn đầy phước lạc, với dân cư đông đúc và trường thọ, với những ông bà cụ già cầm gậy thong thả đi trong các đường phố, với sự trở về vui mừng của người dân xa xứ lâu ngày, với sự công bằng xã hội và sự giàu mạnh, bình an của xứ sở. Trái hẳn với quang cảnh ảm đạm của Giê-ru-sa-lem trong thời Xa-cha-ri lúc ấy, với sự hoang vu, dân số ít ỏi và đầy chết chóc; với sự tản lạc lưu đày của dân sự; với sự bất công và đầy dẫy tội lỗi; với sự bất an, rủa sả và buồn bã.

Lời hứa phước hạnh của Giê-ru-sa-lem trong tương lai đã đem lại cho dân sự Chúa đang tản lạc niềm an ủi và hy vọng với lòng trông đợi sự hiện đến của Chúa Cứu Thế. Trong niềm mong chờ nầy, tiên tri Xa-cha-ri cũng đã có lời kêu gọi dân Chúa hãy tiến đến đời sống theo tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời với sự lánh xa điều ác và làm điều chân thật, công bình theo sự dạy dỗ của luật pháp Đức Chúa Trời (8:16-17) để có đời sống xứng đáng với người làm công dân của một thủ đô tiêu biểu cho sự công bình của thế giới, và để trở thành người đi rao giảng luật pháp Chúa cho muôn dân. Điều này nhắc nhở chúng ta: Muốn trở thành người dạy đạo cho kẻ khác, thì trước hết chính mình phải sống theo đạo ấy.

Tóm lại qua các dự ngôn của Xa-cha-ri, chúng ta có thể nhìn thấy Đấng Christ trong hình ảnh của Vua Hoà Bình sắp đến! Giê-ru-sa-lem là nơi trị vì của Ngài trong nước ngàn năm bình an. Nhìn vào các biến chuyển của thế giới hiện nay, cho thấy lời tiên tri của Xa-cha-ri đang và sẽ ứng nghiệm. Là người sẽ được dự phần trong Nước Chúa, chúng ta hãy cầu nguyện cho Giê-ru-sa-lem hòa bình (Thi 122:6), và cầu nguyện cho ngày Chúa mau đến, cũng như làm trọn sứ mạng của người đem ơn cứu rỗi của Chúa Giê-xu cho mọi người, và loan tin cho thế gian biết rằng Vua Hoà Bình của nhân loại sắp đến, Đấng mà chẳng những Cơ đốc nhân trông đợi, nhưng cả thế giới cũng đang mong chờ, để chấm dứt mọi bất công xã hội, trừ diệt chiến tranh, và đem lại bình an thực sự cho tất cả mọi người trên đất. Là điều khát khao nhất của con người mà trong đời này không ai có thể thỏa đáp ước mơ ấy.

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Thành Giê-ru-sa-lem trong tương lai:

a. Giê-ru-sa-lem được đặt trong vị thế nào? (Xa-cha-ri 8:1-3).

b. Giê-ru-sa-lem đóng vai trò gì? (Xa-cha-ri 8:20-23; 14:8).

2. Đấng trị vì Giê-ru-sa-lem:

a. Đấng trị vì Giê-ru-sa-lem là ai? (Xa 9:9; 14:9; Mat 21:1-9).

b. Trong sự trị vì của Chúa, Ngài sẽ làm gì cho Giê-ru-sa-lem và các dân trên đất? (Xa 2:10-12; 8:4-19; 14:9-12).

c. Xin đọc Xa-cha-ri 8:4-20: Mô tả quang cảnh của Giê-ru-sa-lem trong thời Xa-cha-ri và Giê-ru-sa-lem trong thời trị vì của Đấng Mê-si.

3. Trong sự rao báo lời hứa phước hạnh, Xa-cha-ri khuyến cáo dân sự điều gì? Tại sao? (Xa 8:16-19).

4. Qua sứ điệp, Xa-cha-ri rao báo Đấng Mê-si trong hình ảnh nào? Và khuyến khích Cơ Đốc nhân chúng ta hôm nay trong sứ mạng nào?

5. Ghi nhận những điểm quan trọng trong sứ điệp của Xa-cha-ri.

6. Nhìn lại chính mình, xin cho biết:

a. Đời sống bạn có sự chuẩn bị gì cho Nước hầu đến?

b. Lòng bạn trông đợi Vua Hoà Bình và sốt sắng rao báo sự hiện đến của Ngài như thế nào?

c. Bạn có thái độ nào đối với Giê-ru-sa-lem, thành của Vua Thánh?

 

 

 

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

CÁCH CHỌN TRÁI CÂY (tt)

– Chôm chôm, vải, nhãn ngon, nhiều nước là thứ vỏ mỏng, nặng. Nhãn nên lựa thứ to, màu sậm và nặng.

– Mít tố nữ có cuống chỉ chừng 0,5 cm. Đừng nhầm với mít tây có cuống dài hơn (1-1,5cm). Mít tây ăn chua hơn mít tố nữ.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 24.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 24.5.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 24.05.2015 (Lễ Ngũ Tuần).

1. Đề tài: NGƯỜI ĐẦY DẪY ĐỨC THÁNH LINH.

2. Kinh Thánh: Lu-ca 1:15; 41-45; 67-79; 2:25-32; Công Vụ 2:11; 10:45-46; 4:8-12; 31; 13:4-12; 1Côr 14:4; 27-28.

3. Câu gốc: “Hãy nhờ Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin. Hãy dùng sự bền đỗ trọn vẹn mà tỉnh thức về điều đó, và cầu nguyện cho hết thảy các thánh đồ” (Ê-phê-sô 6:18).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 136 – 138.

5. Thể loại: Thuyết trình.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn thuyết trình.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

NGƯỜI ĐẦY DẪY ĐỨC THÁNH LINH.

Không ai có thể phủ nhận rằng trong những năm gần đây Hội Thánh Ngũ Tuần là giáo phái Tin lành phát triển nhanh chóng nhất khắp thế giới. Chúng ta phải tạ ơn Chúa và cần học hỏi tinh thần truyền giáo của anh chị em Ngũ Tuần… Một trong những đặc điểm các con cái Chúa trong Hội Thánh Ngũ Tuần thường nghĩ là được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Đầy dẫy Đức Thánh Linh là một đề tài phải cần khá nhiều giấy mực để trình bày. Trong khuôn khổ của bài học này, chúng ta chỉ nghiên cứu về phương diện người đầy dẫy Đức Thánh Linh mà thôi. Chúng ta cùng tìm hiểu xem “Người đầy dẫy Đức Thánh Linh sẽ làm gì?”

1. Người Đầy Dẫy Đức Thánh Linh Biết Im Lặng Chờ Đợi (không làm gì một thời gian dài).

Kinh Thánh cho chúng ta biết Giăng Báp-tít đã được đầy dẫy Đức Thánh Linh từ khi còn trong lòng mẹ (Lu 1:15), nhưng ông không làm gì cho đến mấy chục năm sau. Cho nên, chưa chắc người được đầy dẫy Đức Thánh Linh là phải làm điều nầy điều kia cho Chúa liền. Người đầy dẫy Đức Thánh Linh biết chờ đợi đến thời điểm Chúa muốn mình làm.

2. Người Đầy Dẫy Đức Thánh Linh Sẽ Xác Quyết Ơn Phước Chúa Ban Cho Người Khác.

Khi Ma-ri mang thai Chúa đến thăm Ê-li-sa-bét, là mẹ của Giăng Báp-tít, thì Ê-li-sa-bét được đầy dẫy Đức Thánh Linh bèn xác quyết phước hạnh mà Chúa ban cho Ma-ri (Lu 1:41-45). Điều đáng buồn của chúng ta ngày nay là thay vì xác quyết ơn phước Chúa ban cho anh chị em mình, chúng ta hay vấp phải lầm lỗi là nói ra, hoặc làm giảm giá trị ơn phước Chúa ban cho người khác. Xác quyết những điều Chúa ban cho thật là cần thiết trong việc gây dựng thân thể của Đấng Christ.

3. Người Đầy Dẫy Đức Thánh Linh Sẽ Ca Ngợi Chúa.

Khi Xa-cha-ri được đầy dẫy Đức Thánh Linh ông bèn cất tiếng ca ngợi Đức Chúa Trời (Lu 1:67-79). Cụ Si-mê-ôn khi được Đức Thánh Linh cảm động thì cất tiếng ca ngợi Đức Chúa Trời (Lu 2:25-32). Trong ngày lễ Ngũ Tuần, khi các môn đồ được đầy dẫy Đức Thánh Linh họ bèn nói về sự cao trọng của Đức Chúa Trời (Công Vụ 2:11). Khi các tín đồ tại nhà Cọt-nây đầy dẫy Đức Thánh Linh họ bèn ngợi khen Đức Chúa Trời (Công Vụ 10:45-46). Sự ca ngợi Chúa ở đây không hẳn là phải hát không thôi, mà là biết cất tiếng lên nói lời tôn vinh Chúa về kinh nghiệm phước hạnh Chúa ban cho mình.

4. Người Đầy Dẫy Thánh Linh Sẽ Dạn Dĩ Rao Truyền Phúc Âm.

Khi Phi-e-rơ được đầy dẫy Đức Thánh Linh ông liền giảng đạo Chúa cho những quan quyền mà bình thường ông rất ngại giao tiếp với họ. Khi đầy dẫy Đức Thánh Linh ông chẳng sợ họ nữa, ngược lại ông rất dạn dĩ rao truyền về Chúa cho họ (Công Vụ 4:8-12). Ông nói rất thẳng và rất mạnh, không chút sợ hãi gì, đến độ những người nghe cũng phải lấy làm lạ. Khi Hội Thánh của Chúa đầy dẫy Đức Thánh Linh thì các con cái Chúa trong Hội Thánh cũng rao truyền đạo Đức Chúa Trời cách dạn dĩ (Công Vụ 4:31).

Dầu môi trường để truyền giảng dường như không thuận lợi, Hội Thánh được đầy dẫy Đức Thánh Linh vẫn sốt sắng và mạnh dạn rao truyền đạo Chúa. Vì thế, Hội Thánh có lòng nóng cháy và dạn dĩ lo việc truyền bá Phúc Âm là một trong những dấu hiệu củaHội Thánh đang được đầy dẫy Đức Thánh Linh.

5. Người Đầy Dẫy Đức Thánh Linh Sẽ Có Khả Năng Ngôn Ngữ Phi Thường.

Có hai thứ ngôn ngữ mà người đầy dẫy Đức Thánh Linh có thể kinh ngiệm được. Một là ngoại ngữ, hai là tiếng lạ, cả hai đều bởi Đức Thánh Linh ban cho cách đột xuất, chứ không phải tập nói tiếng lạ như mọi người lầm tưởng. Giả bộ nói tiếng lạ để cho người khác tưởng mình được đầy dẫy Đức Thánh Linh hầu loè thiên hạ, là khinh thường Đức Thánh Linh chứ không phải chuyện nhỏ. Không nói được tiếng lạ, hoặc không có khả năng tự nhiên nói ngoại ngữ không có nghĩa là không được đầy dẫy Đức Thánh Linh! Có vô số người đuợc đầy dẫy Đức Thánh Linh mà không hề có ơn nói ngoại ngữ hay nói tiếng lạ. Người có ơn nói ngoại ngữ sẽ dùng ơn đó mà truyền bá Phúc Âm cho những dân tộc khác. Người có ơn nói tiếng lạ sẽ dùng ơn đó mà gây dựng cho chính mình hay cho người khác, nếu có người thông hiểu và dịch lại (1Côr 14:4, 27-28).

6. Người Đầy Dẫy Thánh Linh Sẽ Bày Tỏ Quyền Năng Chúa.

Phao-lô khi rao giảng đạo Chúa ở thành Ba-phô trên đảo Chíp-rơ, thì bị một thuật sĩ tên là Ê-ly-ma phá rối. Người nầy tìm mọi cách ngăn trở không cho người ta tin nhận Chúa. Phao-lô đầy dẫy Đức Thánh Linh bèn quở trách tên thuật sĩ và phạt cho tên ấy bị mù, tức thì tên ấy không nhìn thấy ngay tại chỗ. Nhờ đó người ta biết quyền năng của Chúa và tin nhận Ngài (Công Vụ 13:4-12).

Hội thánh Chúa cần phải có những người đầy dẫy Đức Thánh Linh. Hôm nay là thời kỳ Đức Thánh Linh đang hành động. Ngọn gió Thánh Linh đang thổi vào hội thánh Ngài khắp mọi nơi để tìm kiếm những người thật sự khát khao Ngài. Người đầy dẫy Đức Thánh Linh có khi phải chờ đợi một thời gian dài trước khi làm gì cho Chúa. Người đầy dẫy Đức Thánh Linh sẽ xác quyết ơn Chúa ban cho, lòng đầy vui mừng luôn ca ngợi Chúa, sốt sắng rao truyền đạo Chúa. Đôi khi được Chúa cho có khả năng nói ngoại ngữ thông thạo để phục vụ Chúa, hoặc có khả năng nói tiếng lạ để gây dựng cho chính mình hoặc Hội Thánh. Thỉnh thoảng cũng được Ngài ban cho quyền năng để sửa phạt những người chống đối, ngăn trở người khác tin Chúa. Đó là những đặc điểm của người được đầy dẫy Đức Thánh Linh.

Mục sư Đặng Ngọc Báu (có sửa).

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

CÁCH CHỌN TRÁI CÂY (tt).

– Chuối già ngon là chuối trái không quá to. Chuối quả to là chuối già lùn không thơm. Nên lựa thứ da vàng có thâm kim. Đó là chuối già hương rất thơm.

– Xoài ngon là xoài cát, xoài thơm. Xoài ngon, vỏ căng vàng đều, khúc đầu chín vàng mà cứng. Trên chót đuôi có chiếc mắt nhỏ, là  xoài hạt mỏng.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 17.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 17.5.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 17.05.2015 (Lễ Thăng Thiên)

1. Đề tài: BÍ QUYẾT ĐƯỢC LÒNG TRONG SẠCH.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 51:1-19.

3. Câu gốc: “Đức Chúa Trời ôi! Hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch, và làm cho mới lại trong tôi một thần linh ngay thẳng”(Thi Thiên 51:10).

4. Đố Kinh Thánh: Không đố Kinh Thánh.

5. Thể loại: Truyền giảng.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Các nhà hiền triết đông tây kim cổ đều than rằng lòng người gian ác, sâu độc. Kinh Thánh quyết rằng lòng người là xấu xa, ô uế, dối trá vô cùng: “lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa, ai có thể biết được?” (Giê 17:9), nên được tấm lòng trong sạch là quý báu biết bao. Hơn nữa Kinh Thánh cho biết người có tấm lòng trong sạch là người được phước (Mat 5:8). Vì vậy tôi muốn mỗi thanh niên có tấm lòng ấy.

I. SẴN SÀNG XƯNG TỘI LỖI CỦA MÌNH (Thi 51:1-6).

Đa-vít là một vị vua rất sang trọng, song khi ông phạm tội với Đức Chúa Trời về việc lấy vợ của U-ri, thì ông đã hết lòng ăn năn mà xưng tội lỗi mình, không giấu chi hết, với một tấm lòng đau thương thống hối (c.3-4).

1. Xưng tội mà ông đã phạm.

2. Ông còn xưng cả nguyên tội của mình nữa (c.5).

Hạt giống tội lỗi đã có trong loài người từ khi còn là một bào thai và hạt giống ấy theo thời gian mà phát triển. Đa-vít đã nhận tất cả như vậy, ông không giấu tội, không đổ thừa cho ai khác. Muốn được phước của Chúa ta cũng phải học tập gương Đa-vít như vậy.

II. HẾT LÒNG XIN CHÚA THA THỨ (Thi 51:7-9).

“Lấy chùm kinh giới tẩy sạch tội lỗi”. Lê-vi Ký 14:1-8 cho biết:

– Hai con chim vẫn sống và tinh sạch: Chúa Giê-xu.

– Cây hương nam và chùm kinh giới: Nhân tánh và thần tánh của Chúa.

– Con chim bị cắt cổ và con chim được thả đi: Sự chết và sự sống lại của Chúa Giê-xu.

– Chim nầy nhúng vào huyết chim kia rồi thả đi: Chúa đem huyết Ngài vào nơi trên trời.

– Chậu sành: Thân thể Chúa.

– Nước chảy: Đức Thánh Linh (Hêb 9:14).

Chỉ Chúa có quyền rửa sạch gian ác của chúng ta. Làm sạch luôn luôn như nước chảy mãi mãi. Làm sạch hết mọi điều gian ác. Ôi! Đa-vít khẩn thiết cầu xin Chúa tha thứ cho mình cách trọn vẹn. Sau khi ông đã nhận biết tội lỗi, ông cũng hết lòng muốn từ bỏ và xin Chúa tha thứ. Ông khao khát một tấm lòng trong sạch là dường nào!

III. XIN CHÚA TÁI TẠO LÒNG MÌNH (Thi 51:10).

1. Dựng Nên Một Lòng Trong Sạch.

Dầu Chúa đã tha thứ và rửa sạch song vẫn có thể tái phạm như trước, bởi vì tấm lòng cũ có bản tánh tội, nên ông cầu xin Chúa tạo nên trong mình một lòng trong sạch. Đó có thể gọi là sự tái sanh, nhận bản tánh Đức Chúa Trời. Với tấm lòng ấy ta mới có thể sống thỏa lòng,  sung sướng phước hạnh được. Tấm lòng ấy mới thấy được Đức Chúa Trời (Giăng 3.3).

2. Làm Mới Lại Một Thần Linh Ngay Thẳng.

Đó là sự nên thánh cũng như Chúa đã dạy trong Êxê 36:26, Giê 31:33. Bây giờ Chúa ghi khắc luật pháp của Ngài vào lòng ta và luật pháp ấy trở thành một bản tính của ta vậy. Bây giờ, dầu ta không gắng công ra sức gì mà vẫn ăn ở một cách trong sạch.

IV. BAN CHO ĐẦY DẪY ĐỨC THÁNH LINH (Thi 51:11-12).

Đức Thánh Linh ngự trong lòng ta một cách đầy dẫy là phương pháp giải quyết mọi nan đề. Nếu một tấm lòng trong trắng thì tốt, song không ích gì nếu không viết chữ trên ấy. Cũng vậy, lòng trong sạch của chúng ta dâng cho Đức Chúa Trời để viết vào đó sự yêu thương, sự vui mừng, sự bình an… của Ngài.

Đức Chúa Trời sẽ dắt dẫn cho đường lối ta một cách vững chắc. Ngài bảo đảm cho ta một cuộc đời hạnh phước. Không có gì đáng sợ bằng không có Đức Chúa Trời, minh hoạ bằng câu chuyện về vua Sau-lơ, người không có Đức Chúa Trời.

* Lời kết:Các bạn thanh niên yêu dấu! Sau khi nghe về “Bí quyết giữ lòng trong sạch” các bạn nghĩ gì? Các bạn có ước muốn mình có tấm lòng trong sạch không? Còn chần chờ gì nữa, các bạn hãy mau mau đến với Chúa Giê-xu trong tinh thần:

– Sẵn sàng xưng tội lỗi mình.

– Hết lòng xin Chúa tha thứ.

– Xin Chúa tái tạo lòng mình.

Khi bạn làm theo những điều hướng dẫn trên, tức thì Đức Chúa Trời ban Đức Thánh Linh đầy dẫy trong lòng bạn và Ngài sẽ hướng dẫn đời sống bạn, giữ lòng bạn luôn được trong sạch!

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

CÁCH CHỌN TRÁI CÂY (tt)

– Sầu riêng ngon không nhất thiết là trái có mùi thơm, màu vỏ xanh hay vàng. Trái ngon là trái có gai nở tròn trịa bằng nhau, không có vết xước, thủng sâu, không bị nứt ra, lắc thử có cảm giác bên trong như lỏng, rung (ngọt, béo) vỗ nghe âm thanh trầm, lấy tay bóp 2 gai câu vào thấy không cứng (chín không sượng).

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 10.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 10.5.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 10.05.2015.

1. Đề tài: LỄ MẪU THÂN.

2. Kinh Thánh: Châm Ngôn 31:10-31.

3. Câu gốc: “Người nữ khôn ngoan xây cất nhà mình; song kẻ ngu dại lấy tay mình mà phá hủy nó đi” (Châm 14:1).

4. Đố Kinh Thánh: Thi 133 – 135.

5. Thể loại: Kịch 5’.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn kịch.

* CÂU CHUYỆN THAM KHẢO.

BẢO VỆ TRÊN TAY.

Mục sư Thomas Collins kể rằng: Một thiếu phụ nơi ông hầu việc Chúa, sống rất bi quan và cảm thấy dường như Chúa đã bỏ mình. Một hôm gặp thiếu phụ đang bế con, Mục sư Collins bảo rằng:

– Bà buông đứa bé rơi xuống sàn nhà đi!

Thiếu phụ nhìn Mục sư ngạc nhiên, không hiểu tại sao Mục sư lại nói như thế?

Mục sư bảo: Nếu có ai trả cho bà một số tiền lớn để buông đứa bé rơi xuống sàn nhà, bà có chịu  làm không?

Hơi tức giận, thiếu phụ nói: Dù cho tôi tiền nhiều như sao trên trời, tôi cũng không buông con tôi xuống.

Lúc ấy, Mục sư ôn tồn bảo: Bà nghĩ tình thương của bà đối với đứa trẻ nầy có lớn hơn tình thương của Chúa đối với con cái Ngài chăng?

Nghe vậy, thiếu phụ bừng tỉnh.

* Trong những lúc gặp thử thách, đôi khi chúng ta nghi ngờ về sự gìn giữ của Chúa, có khi tưởng rằng Chúa bỏ rơi mình. Nên nhớ rằng, chúng ta đang ở trong tay Chúa Giê-xu, được chính Ngài bảo bọc, không có nơi nào an toàn hơn trong đôi tay toàn năng ấy.

LÒNG NHÂN TỪ CẢM HÓA.

Một bà mẹ lo lắng nhiều vì đứa con trai không đi nhà thờ mà lại theo những bạn bè xấu và tỏ ra bất mãn mọi chuyện. Người mẹ đau khổ tìm mọi cách để đưa con về đường tốt, nhưng tất cả đều vô ích. Chúa nhật nọ, bà nảy ra một ý tưởng và gọi đứa con trai lại, và nói:

“Hãy đem gói đồ này đến cho gia đình đối diện nhà chúng ta. Nếu con làm dùm mẹ điều này, mẹ hứa sẽ không quấy rầy con nữa”.

Có lẽ không muốn nghe tiếng mẹ la rầy nữa, chàng thanh niên đã nhận lời mẹ yêu cầu. Anh ta đi đến địa chỉ như mẹ dặn, bước vào một căn nhà nghèo nàn và anh thấy một người đàn bà đau ốm với ba đứa con nhỏ đang khóc vì đói. Chàng thanh niên trao vội gói đồ và muốn rút lui ngay, nhưng người đàn bà đã gọi anh trở lại:

– “Anh ơi, anh không thể đi đuợc khi tôi chưa kịp cám ơn anh. Anh là người cứu độ mà Chúa gởi đến cho chúng tôi. Xin Ngài trả công cho anh”.

Chàng thanh niên ra về lòng đầy cảm động. Ngay hôm sau anh trở lại địa chỉ nầy với một gói đồ khác mà anh đã mua với chính tiền của anh và còn ở lại chơi với mấy đứa nhỏ. Chàng thanh niên đã thay đổi cuộc sống, vì lòng nhân hậu đã làm anh mỗi ngày thêm hạnh phúc.

MẸ LÀM CON THEO.

Người chồng bảo vợ: “Mình đừng đậu xe hơi dưới gốc cây lớn trước nhà, kẻo nhựa cây nhỏ xuống làm dơ xe!”

Nhưng người vợ cứ để xe như thế vì thấy tiện cho việc đi lại của mình. Người chồng nhắc đi nhắc lại mãi, cuối cùng người vợ tức mình nói: “Không ai sai khiến được tôi hết!”

Ít lâu sau, người vợ bảo cậu con trai nhỏ của mình: “Con cất xe đạp của con đi!”

Bà thật kinh ngạc khi thấy đứa con trai lặp lại chính lời của bà: “Không ai sai khiến được con hết!”

NÊN DÂNG TUỔI THANH XUÂN CHO CHÚA.

Một thiếu nữ người bản xứ được một bà giáo sĩ nhận làm con nuôi. Cô được bà rước về ở chung, bà yêu thương cô như con ruột. Bà cho cô đi học và dạy Kinh Thánh cho cô. Cô đã tìm gặp Chúa, tin nhận Ngài làm Cứu Chúa cho cuộc đời mình. Bà giáo sĩ rất vui thỏa, và thường khuyên cô nên sớm dâng mình cho Chúa để trở nên người phục vụ Chúa như bà. Nhưng cô ấy cứ hẹn nay, hẹn mai mãi.

Thình lình một ngày kia, cô lâm bệnh nặng, phải vào bệnh viện điều trị. Mỗi ngày bà giáo sĩ đến cầu nguyện và ủi cô, thăm viếng cô. Ngày đầu bà ôm đến một bó hoa thật tươi đẹp. Đây là những loại hoa cô rất yêu thích. Cô vui lắm, nhưng sau giờ thăm bà mang hoa ra về. Cô hơi buồn, nhưng nghĩ rằng vì quá lo cho cô nên bà quên tặng hoa. Hôm sau, cũng bó hoa trên tay, những cánh hoa bắt đầu héo, không còn tươi đẹp như trước. Cô tự an ủi: Thôi có héo đôi chút cũng không sao, Song lúc ra về, bà giáo sĩ cũng quên để lại. Cô hơi bực tức về cái quên kỳ cục của bà. Ngày thứ ba, bà giáo sĩ ôm bó hoa đã tàn úa, đầu hoa bị gục xuống không còn chút vẻ gì tươi đẹp nữa. Lần này,trước khi ra về, bà đến trước giường cô nói: “Mẹ tặng bó hoa nầy cho con, mong con vui như những bông hoa tươi thắm”.

Cô gái không cầm được bực tức, nói: “Ba ngày trước bó hoa còn tươi đẹp, mẹ không tặng con. Bây giờ hoa đã úa tàn rồi, mẹ mới tặng con. Mẹ làm con buồn lắm!”

Bà giáo sĩ nhìn cô gái âu yếm và nói: “Con ơi, đời con giống như bó hoa nầy. Khi con còn thanh xuân mạnh khỏe, mẹ khuyên con nên dâng đời mình cho Chúa để phục vụ Ngài, nhưng con cứ lần lữa mãi. Con định đến lúc héo tàn, bệnh hoạn rồi mới chịu dâng đời mình cho Chúa hay sao?”

NHỜ CHÚA CẤT SỰ TRẢ THÙ.

Một đứa bé thường hay đánh lại đứa nào đánh nó. Mẹ nó dạy: “Con hãy nhờ Chúa mà thắng tính ấy”.

Hôm sau bà hỏi nó: “Con ơi, hôm nay sao con có vẻ vui như thế?”

Nó đáp: “Thưa mẹ, hôm nay con chỉ đánh trả lại bạn đánh con một cái mà thôi!”

Bà khuyên: “Con hãy nhờ Chúa cất sự giận ra khỏi lòng và đặt sự nhu mì, nhịn nhục thay cho tính xấu xa đó, hầu giúp con đắc thắng luôn. Như thế mới đẹp ý Chúa và vui lòng mẹ”.

Cách vài ngày sau đứa bé về thưa với mẹ: “Mẹ ơi, hôm nay con đã thắng cơn giận, con không đánh trả bạn một cái nào hết”.

Mẹ nó hỏi: “Bề ngoài con nín chịu, nhưng trong lòng con muốn đánh lại bạn không?”

Nó thưa: “Mẹ ơi, trong lòng con thật muốn như vậy”.

Vài ngày sau nữa, nó chạy về thưa: “Mẹ ơi, nhờ Chúa con không đánh lại bạn mà trong lòng con cũng chẳng còn muốn đánh bạn chút nào cả”.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

CÁCH CHỌN TRÁI CÂY.

– Bưởi ngon là bưởi cầm lên thấy nặng đều, vỗ thấy âm thanh đều, màu sắc vỏ tươi.

– Dưa hấu ngon là có núm cuống nhỏ, vỏ có nhiều gân, trái tròn, nặng (trái nhẹ là dưa bọng ruột vì đã quá già). Vỏ dưa bóng, thẳng da, không nhám và sậm màu.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 03.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 03.5.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 03.05.2015.

1. Đề tài: CHIẾU SÁNG CHO NGƯỜI.

2. Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 5:14-16.

3. Câu gốc: “Sự sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời” (Mat 5:16).

4. Đố Kinh Thánh: Đố theo chủ đề.

5. Thể loại: Họp bạn – Đố Kinh Thánh.

* CHỈ DẪN: Họp bạn.

1. Tham dự: Mời một hay nhiều ban phụ nữ của các Hội Thánh tham dự họp bạn.

2. Chương trình: Nhiều tuần trước ngày họp bạn, mời đại diện các ban phụ nữ họp lại để cùng hoạch định chương trình và phân chia công tác:

– Thời gian, địa điểm, chủ đề, câu gốc, thể loại thực hiện…

– Phân chia trách nhiệm cho từng ban: Tập hát, làm chứng, đố Kinh Thánh, phần thưởng, sinh hoạt, hướng dẫn chương trình, ẩm thực… Mỗi ban chịu một số tiết mục, nên mời một người soạn và đố Kinh Thánh.

3. Tiết mục: Các tiết mục nên có trong ngày họp bạn là: Bài ca mới, ca ngợi và cảm tạ, đố vui, kịch, trò chơi lớn…

4. Bảng tên: Dự kiến số người tham dự và số người cho mỗi nhóm để chuẩn bị các màu giấy thích hợp cho việc chia nhóm, mỗi màu là một nhóm. Bảng tên phải ghi rõ tên và Hội Thánh, để mọi người dễ làm quen. Sau đó mỗi nhóm cử một trưởng nhóm, một thư ký nhóm điều khiển nhóm mình tham gia trò chơi và sinh hoạt.

5. Phần thưởng: Phần thưởng cho sinh hoạt nhóm phải sử dụng phù hợp cho giờ thông công sau đó.

* CHỈ DẪN: Đố Kinh Thánh.

Họp bạn kỳ này đúng vào dịp đầu năm mới âm lịch, người đố Kinh Thánh nên soạn câu đố theo đề tài năm mới, nội dung phải phù hợp với trình độ của ban viên, nếu không đủ Kinh Thánh thì đố theo trí nhớ (xem cách đố Kinh Thánh trong “Phương Pháp Tổ Chức Các Ban Ngành Trong Hội Thánh”).

1. Mỗi ban phụ nữ nên cử ra một đại diện tham gia ban giám khảo. Các giám khảo phải có đáp án trước để việc chấm điểm được chính xác và công bằng.

2. Mỗi câu trả lời đúng được 10 điểm, sai bị trừ 5 điểm. Sau đó tổng kết và phát thưởng.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

TRÀ.

– Giữ trà thơm lâu.

Không cho trà tiếp xúc với ánh sáng. Hãy cho trà vào hộp thiếc có lót giấy hoặc lọ bằng sành sứ. Nếu cho vào lọ thủy tinh, nó sẽ mất thơm.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 28.06.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 28.06.2015

in NAM GIỚI on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 28.06.2015.

1. Đề tài: LỄ KỶ NIỆM 104 NĂM TIN LÀNH ĐẾN VIỆT NAM.

2. Kinh Thánh: Ê-phê-sô 1:3-14.

3. Câu gốc: “Hãy nhớ những người dắt dẫn mình, đã truyền đạo Đức Chúa Trời cho mình; hãy nghĩ xem sự cuối cùng đời họ là thể nào, và học đòi đức tin họ” (Hêb 13:7).

4. Đố Kinh Thánh: Gióp 1-4.

5. Thể loại: Thuyết trình.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 25.01.2015.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Sơ lược tiểu sử Mục sư A.B. Simpson, sáng lập viên Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp.

Tấn sĩ Albert Benjamin Simpson là một mục sư Gia Nã Đại, sinh ngày 18 tháng 12 năm 1843 tại tỉnh Prince Edward, Island. Ông tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa của mình năm 14 tuổi. Ông vâng theo tiếng Chúa gọi dâng mình cho chức vụ thánh nên đã vào trường cao đẳng Thần học Toronto để học Lời Chúa và tốt nghiệp năm 1865. Dầu chỉ mới 21 tuổi, ông đã được phong chức Mục sư và chăn bầy chiên của Chúa tại chi hội Hamilton (Ontario) là một Hội Thánh lớn nhất thời bấy giờ ở Gia Nã Đại.

Trong thời gian 9 năm phục vụ Chúa ở chi hội này dầu không có dịp tổ chức một chiến dịch truyền giảng nào cả, nhưng Hội Thánh ông tăng thêm 750 tín hữu. Sau đó chi hội Louisville ở Kentucky mời ông. Sau khi đã hầu việc Chúa ở đây một thời gian đem lại nhiều thành tích vẻ vang cho nhà Chúa, có một chi hội lớn hơn nữa ở Nữu Ước mời ông và ông nhận lời đến phục vụ Chúa tại Hội Thánh ấy năm 1879. Dầu hầu việc Chúa giữa một Hội Thánh sang trọng, giàu có và cũng thâu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp nhưng lòng ông chưa thỏa mãn. Chúa đã đặt khải tượng truyền giáo trong tâm hồn ông. Trong một khải tượng, Chúa đã cho ông thấy vô số người đang đau khổ, thất vọng, nửa sống, nửa chết. Họ rên siết kêu ông mau mau đến cứu giúp họ. Ông đã quỳ gối bên giường và đã hứa nguyện với Chúa sẽ vâng theo sứ mạng Ngài.

Ông luôn nghĩ cách đem Tin Lành cho các quốc gia, các dân tộc xa xôi trên thế giới. Vì vậy, sau hai năm hầu việc Chúa ở Nữu Ước, vào tháng 11 năm 1881, ông từ chức Mục sư chi hội này và ra khỏi Hội Thánh Trưởng Lão để bắt đầu một chức vụ hoàn toàn theo sự điều khiển của Đức Chúa Trời.

Từ bỏ một phụ cấp thường niên 5.000 mỹ kim để bắt đầu một chức vụ hoàn toàn bởi đức tin với một gia đình bảy miệng ăn giữa một đô thị rộng lớn như Nữu Ước, không nơi trú ngụ, không một xu dính túi thì không phải là dễ. Sau buổi giảng đầu tiên tại một phòng diễn thuyết đã có bảy người tin Chúa và gia nhập phong trào của ông. Kể từ 7 người nhảy lên 32 người và với số 32 tín đồ, ông tổ chức một Hội Thánh trong năm 1882. Nhưng không bao lâu, Hội Thánh của ông phải thay đổi chỗ nhóm nhiều lần như dân Do Thái lưu lạc trong đồng vắng khi xưa. Vào năm 1889, Hội Thánh ông tìm được một địa điểm xứng hiệp nên đã xây một Nhà Thờ mang tên “The New York Gospel Tabernacle”. Nhà thờ ấy được khánh thành vào năm 1890 và được Chúa bảo quản dùng làm trung tâm truyền giáo cho đến ngày nay. Cũng trong năm ấy, Hội Thánh hoàn thành một bệnh xá để cứu giúp bệnh nhân. Ông cũng rất quan tâm đến công tác truyền giảng Tin Lành cho những người bình dân. Năm 1885, ông đã tổ chức nhiều ban chứng đạo đem Tin Lành cứu vớt những phần tử bần cùng trụy lạc, bị xã hội ruồng bỏ. Ông nhận thức được địa vị quan trọng của phụ nữ Tin Lành trong xã hội và trong Hội Thánh. Bởi vậy ông tổ chức các ban thanh niên, thiếu nhi và phụ nữ Tin Lành. Ông cũng rất cảm thương số phận bơ vơ của các cô nhi nên đã mở một cô nhi viện. Là một Mục sư năng động, ông thường đi nhiều nơi để phân phát Lời Đức Chúa Trời và cổ động cho công cuộc truyền giáo. Ông sốt sắng tổ chức nhiều hội đồng và các chiến dịch giảng Tin Lành. Chúa luôn luôn đổ phước lớn, và ban cho ông nhiều kết quả lạ lùng. Ông nhận biết rằng, muốn công việc nhà Chúa mở mang và tiến triển thì phải huấn luyện cho thật nhiều “tay đánh lưới người”. Quả thật, Mục sư A. B. Simpson là một nhà giáo dục Tin Lành đầy kinh nghiệm. Theo sáng kiến của ông, vào năm 1883, một trường Cao đẳng huấn luyện giáo sĩ được thiết lập ở Nyack cách thành phố Nữu Ước 25 dặm. Khoá thứ nhất của trường chỉ có 12 sinh viên và 2 giáo sư. Nhưng nay trường này là một trường Cao đẳng Thần học rất lớn.

Tấn sĩ A. B. Simpson cũng là một nhà văn Tin Lành có biệt tài, một thi sĩ nổi tiếng. Ông đã xuất bản nhiều sách giải nghĩa Kinh Thánh, sách bồi linh, bài giảng rất linh động. Nhiều bài thi ca, thánh ca được tuôn ra từ ngòi bút của ông làm rung động nhiều tâm hồn. Ông đã sáng lập tờ tuần báo “The Alliance Weekly”. Trải qua nhiều năm, tờ báo này là cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Truyền Giáo Phước âm Liên hiệp với nhiệm vụ thông tin và giãi bày Lời Chúa rất linh động.

Tấn sĩ A. B. Simpson là người đã lập ước với Chúa, người có một sứ mạng và đầy ân tứ như chúng ta đã biết, nhưng ông cũng là một người có khải tượng. Phải, ông là người có một khải tượng truyền giáo.

Gánh nặng truyền giáo đè trĩu hai vai ông. Ông cầu nguyện, dâng tiền cho công cuộc truyền giáo để gởi giáo sĩ đi truyền giáo ở các miền xa xăm. Đó là mục tiêu của chức vụ ông. Đó là sứ mạng của chức vụ ông. Ông từ bỏ Hội Thánh giàu sang, từ bỏ phụ cấp đầy đủ, từ bỏ mọi sự chỉ vì sứ mạng ấy. Tâm hồn ông ca khúc khải hoàn khi Chúa là Đức Chúa Trời thành tín đã vùa giúp ông thực hiện được điều Ngài đã truyền phán với ông, cho ông lập được Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp vào năm 1897. Hội được thành lập theo ý Chúa và được Chúa đại dụng đem Tin Lành chiếu rọi nhiều quốc gia và nhiều dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Ngày 28 tháng 10 năm 1919 Tấn sĩ ngồi dưới hiên nhà mình và tiếp chuyện giáo sĩ Jude Clark ở Jamaica mới về. Tấn sĩ chuyện trò rất thân mật với giáo sĩ và tha thiết hiệp nguyện với ông. Sau khi giáo sĩ Clark từ giã, Tấn sĩ thình lình ngã ra bất tỉnh. Sáng hôm sau, đẹp ý Chúa, linh hồn Tấn sĩ đi về nước sáng láng.

Sau bốn lễ truy niệm Tấn sĩ, Hội Thánh quàn tạm quan tài ông trong một nhà mồ ở nghĩa địa Woodlawn Cemetery. Đến ngày 21 tháng 5 năm 1920, khi Hội đồng thường niên của Hội bế mạc, các đại biểu chở quan tài của Tấn sĩ về cử hành lễ an táng tại khuôn viên của giáo hội.

Mục sư Tấn sĩ A. B. Simpson, người nhận được khải tượng truyền giáo từ Chúa, người đã triệt để vâng theo tiếng Chúa gọi, đó là người Đức Chúa Trời đã dùng đem Tin Lành truyền sang Việt Nam, và chẳng những Việt Nam thôi mà cả mấy chục nước trên thế giới nữa.

Quả thật Đức Chúa Trời đã dùng một người. Hôm nay Đức Chúa Trời vẫn cần một người. Ngài đang kiếm người ấy. Người ấy là ai? Đó có thể là các bạn và tôi, miễn là chúng ta hoàn toàn phó dâng đời sống mình cho Ngài.