Chuyên mục: PHỤ NỮ

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG PHỤ NỮ 11.08.2019

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG PHỤ NỮ 11.08.2019

in PHỤ NỮ on 6 Tháng Tám, 2019

Chúa nhật 11.08.2019

  1. Đề tài: HỌC HỎI LẪN NHAU.
  2. Kinh Thánh: Công vụ 18:1-24; 19:6.
  3. Câu gốc: “Vậy, người khởi sự giảng cách dạn dĩ trong nhà hội. Bê-rít-sin và A-qui-la nghe giảng, bèn đem người về với mình, giãi bày đạo Đức Chúa Trời cho càng kỹ lưỡng hơn nữa” (Công vụ 18:26).
  4. Đố Kinh Thánh: Sáng thế ký 16-18.
  5. Thể loại: Học Kinh Thánh nhóm.

* CHỈ DẪN: Học Kinh Thánh nhóm.

  1. Tài liệu: Ủy viên linh vụ dựa vào tài liệu để chọn phương pháp học Kinh Thánh, soạn câu hỏi, và viết sẵn ra giấy để trao cho các nhóm.
  2. Phương pháp học Kinh Thánh phải tùy theo phần Kinh Thánh làm nền và khả năng của ban viên.
  3. Nếu bạn không có phương pháp học Kinh Thánh, bạn có thể soạn 2-3 cụm câu hỏi cho giờ học Kinh Thánh nhóm. Mỗi cụm câu hỏi gồm có:

– Câu hỏi quan sát (Nêu sự việc đã xảy ra).

– Câu hỏi suy luận (Tìm sự dạy dỗ của Lời Chúa).

– Câu hỏi áp dụng (Ứng dụng sự dạy dỗ vào đời sống).

  1. Thảo luận: Để giờ học Kinh Thánh có kết quả, ủy viên linh vụ và các trưởng nhóm nên cùng học với nhau trước để nắm vững nội dung của buổi học, nhờ đó các nhóm trưởng sẽ tự tin khi hướng dẫn nhóm mình và không lệch mục tiêu ban đầu.
  2. Thời gian học Kinh Thánh.
  3. 5 phút giải thích và chia nhóm.
  4. 20 phút thảo luận.
  5. 10 phút tường trình.
  6. 5 phút đúc kết.
  7. Giải thích: Đọc phần Kinh Thánh làm nền, giải thích phương pháp học, đọc câu hỏi rồi tiến hành chia nhóm.
  8. Chia nhóm: Tùy theo số ban viên, có thể chia thành nhiều nhóm từ 5 đến 10 người.
  9. Vị trí: Ủy viên linh vụ sắp xếp chỗ học Kinh Thánh cho các nhóm.
  10. Bài học: Giao phần tài liệu và câu hỏi đã soạn trước cho các trưởng nhóm.
  11. Trưởng nhóm và thư ký nhóm: Trưởng nhóm phải được chọn trước để cùng học với Ủy viên linh vụ, nhiệm vụ chính của trưởng nhóm là đưa ra câu hỏi và gợi ý để các bạn trả lời, hướng dẫn buổi thảo luận đi đúng mục tiêu. Thư ký nhóm được cử ra để ghi lại kết quả của buổi thảo luận và tường trình trong giờ đúc kết.
  12. Giờ tường trình và đúc kết: Các thư ký nhóm lần lượt trình bày kết quả giờ học Kinh Thánh của nhóm mình. Sau đó, Ủy viên linh vụ sẽ đúc kết để nhẹ nhàng sửa lại những điểm sai, nhấn mạnh những sự dạy dỗ quan trọng và kêu gọi ban viên làm theo sự dạy dỗ nhận được qua buổi thảo luận.

* Câu hỏi học Kinh Thánh:

  1. Xem Công vụ 18:1-17 cho biết:

(1.1) Xin bạn cho biết A-bô-lô là người như thế nào?

(1.2) Theo Kinh Thánh mô tả sự “khéo nói và hiểu Kinh Thánh” của A-bô-lô có nghĩa gì?  

 (1.3) Bạn học được điều gì qua tinh thần rao giảng đạo Chúa của A-bô-lô?

  1. Xem Công vụ 18:26 cho biết:

(2.1) Khi nghe A-bô-lô giảng dạy về đạo Chúa, A-qui-la và
Bê-rít-sin đã làm gì với A-bô-lô?

(2.2) Vì sao A-qui-la và Bê-rít-sin phải làm vậy với A-bô-lô? Xin cho biết thái độ của A-bô-lô khi được A-qui-la và Bê-rít-sin giúp đỡ?

(2.3) Bạn học được gì qua tinh thần hầu việc Chúa của A-qui-la, Bê-rít-sin và của A-bô-lô?

III. Xem Công vụ 19:8-12 cho biết:

(3.1) Khi Phao-lô đi đến nơi nào giảng đạo thì ông thường lưu lại nơi đó rất lâu để làm gì?

(3.2) Việc nầy sẽ đem lại ích lợi gì cho người mới tin?

(3.3) Theo bạn, muốn cho người khác hiểu biết lẽ đạo cách rõ ràng thì bạn phải giúp đỡ cho họ bằng cách nào?

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Hôm nay chúng ta học chuyện Bê-rít-sin và A-qui-la. Sau khi nghe A-bô-lô giảng họ đã đưa A-bô-lô về nhà mình để giãi bày đạo Chúa cách kỹ càng. Tinh thần hiếu học là tinh thần rất tốt. Là anh chị em trong Chúa, chúng ta cần học tập lẫn nhau. Nếu để ý kỹ chúng ta sẽ thấy, nghe được những điều hay của người khác để dùng làm bài học cho mình.

  1. NHU CẦU HỌC HỎI (Công vụ 18:24-25).

Sau khi truyền giáo tại A-thên, Phao-lô đi đến Cô-rinh-tô và ở lại một năm rưỡi (Công vụ 18:1-17). Từ đó ông đi thuyền đến Ê-phê-sô với A-qui-la và Bê-rít-sin là những người mà ông đã có dịp ở chung tại Cô-rinh-tô. Ông để hai người ở lại Ê-phê-sô còn ông đi thăm viếng các Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem và An-ti-ốt.

Ê-phê-sô là một thành phố rộng lớn với 300.000 dân ở bờ biển phía Tây thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Ê-phê-sô là thủ đô của Tiểu Á thuộc đế quốc La-mã. Trong khi Phao-lô vắng mặt, có một người tên là A-bô-lô đến viếng Ê-phê-sô.

A-bô-lô là một người Do-thái được sinh trưởng tại A-léc-xan-tri là một thành phố rộng lớn với hơn sáu trăm ngàn dân thuộc đủ mọi chủng tộc bao gồm người Ai-cập, La-mã, Hy-lạp, Do-thái và là một trung tâm văn học đương thời.

A-bô-lô là một tay “khéo nói và hiểu Kinh Thánh… Người đã học đạo Chúa; nên lấy lòng rất sốt sắng mà giảng và dạy kỹ càng những điều về Đức Chúa Giê-xu, dẫu người chỉ biết phép báp-têm của Giăng mà thôi” (Công vụ 18:24).

Nguyên văn của “khéo nói” cũng có nghĩa là uyên bác và hùng biện. A-bô-lô được học tập từ trường đại học danh tiếng A-léc-xan-tri và cũng có thể là nơi đó ông đã tập luyện tài diễn thuyết và hùng biện của mình. Ông cũng là người “hiểu” Kinh Thánh. Có thể ông đã học tập Cựu Ước từ lúc còn thơ ấu và cứ tiếp tục học cho đến trưởng thành. Quá khứ và sự hiểu biết của ông đã giúp ông trở nên một nhân vật đáng kể trong việc mở mang Nước Trời.

Ngày nay, có thể chúng ta không biết tương lai sẽ đem lại cho mình điều gì, tuy nhiên nếu chúng ta cứ nắm lấy mọi cơ hội để học tập và trau dồi tài khéo chắc Chúa sẽ dự bị cho chúng ta những công tác thích hợp với khả năng mình. Mỗi một người trong chúng ta nên có một nền học vấn như A-bô-lô, hiểu biết Kinh Thánh, uyên bác trong sự học tập và sốt sắng nói về Chúa cho người khác. Chúng ta không biết A-bô-lô tin Chúa ở đâu lúc nào, dẫu sao A-léc-xan-tri là một thành phố rộng lớn có đông người Do-thái, có thể một tín hữu nào đó từ Pha-lê-tin đến để truyền đạo Chúa cho ông. Trong lúc nầy ông chỉ biết có báp têm của Giăng mà thôi, A-bô-lô cần học hỏi nhiều hơn nữa về Đấng Christ hầu cho sự hiểu biết của ông được trọn vẹn. Tuy là ông chỉ biết Chúa qua sự học hỏi, chưa hiểu gì về Đấng Christ, nhưng điều mà chúng ta có thể học hỏi nơi ông là lòng sốt sắng rao truyền đạo Đức Chúa Trời của ông.

   2. GIÚP NGƯỜI KHÁC HỌC (Công vụ 18:26).

Tôi có nghe chuyện của một ông cụ kia khi được hỏi rằng có việc gì cụ đã làm khiến cụ ghi nhớ lâu nhất? Cụ trả lời rằng cụ nhớ nhất là lúc có một cậu bé đến hỏi cụ chỉ đường cho cậu, và khi cậu bé vừa đi vừa hát trên con đường mà ông cụ chỉ cho, cụ cảm thấy trong lòng lâng lâng sung sướng. Mỗi người trong chúng ta đều có một cơ hội nào đó để giúp những người khác trên chặng đường đời của họ. A-qui-la và Bê-rít-sin đã có cơ hội để ghi lại một phần kinh nghiệm lâu dài trong cuộc đời của A-bô-lô. Mặc dầu A-bô-lô là một người trí thức còn A-qui-la và Bê-rít-sin chỉ là hai người may lều, nhưng họ đã khôn ngoan giúp đỡ A-bô-lô hiểu biết về Chúa và tiếp nhận Ngài. A-bô-lô dầu là trí thức, ông vẫn có tinh thần chịu học hỏi, không tự cao, kiêu ngạo nên Tin lành của Chúa đã thấm nhuần vào ông và ông trở nên một người kết quả cho Chúa.

III. KẾT QUẢ CỦA SỰ HỌC HỎI (Công vụ 18:27-28).

Sau khi A-bô-lô hiểu rõ sứ điệp của Cơ Đốc giáo, ông đi đến
A-chai. Có thể A-bô-lô đã nghe nhiều lần về vùng đất này, nên ông quyết định đến đó để giảng dạy. Khi đến A-chai, việc đầu tiên mà ông làm là giúp anh em tín hữu tại đó. Ông đã nhờ Chúa mà “bổ ích cho kẻ đã tin theo” (c.27).

Từ thư thứ nhất của Phao-lô cho Hội Thánh Cô-rinh-tô, chúng ta được biết A-bô-lô đã ở lại Cô-rinh-tô một thời gian. Phao-lô nhắc lại công tác của A-bô-lô như sau: “Tôi đã trồng, A-bô-lô đã tưới…” (1Cô-rinh-tô 3:6). Một công tác quan trọng khác của A-bô-lô tại Cô-rinh-tô là hầu việc Chúa giữa những người chưa biết Ngài. Cũng như tại Ê-phê-sô, A-bô-lô đến nhà hội của người Do-thái và “bẻ bác” người Do-thái về sự cứng lòng của họ.

Một trong những ân tứ Chúa ban cho A-bô-lô là tài hùng biện trước công chúng. Ông đã dạn dĩ trình bày minh bạch Tin lành của Chúa trong các nhà hội Do-thái. Ông hiểu rõ Kinh Thánh nên ông đã “bày tỏ” cho người ta thấy rằng: Đức Chúa Giê-xu là Đấng Christ. Có thể ông đã căn cứ vào những lời tiên tri của Cựu Ước để chứng tỏ cho người ta thấy rằng chính Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a mà Cựu ước đã đề cập đến.

  1. TÌM KIẾM NHỮNG NGƯỜI NÀO CẦN HỌC HỎI (Công 19:1-6).

Trong lúc A-bô-lô hầu việc Chúa tại Cô-rinh-tô, Phao-lô đi trở lên phương Bắc rồi trở xuống thành Ê-phê-sô, nơi ông đã từng đến trong khoảng thời gian ngắn ngủi. Lần nầy Phao-lô quyết định ở lại lâu hơn. Trong những ngày đầu tiên Phao-lô giúp cho các môn đồ của Giăng chịu báp têm nhân danh Đức Chúa Giê-xu. Sau khi
Phao-lô đặt tay trên họ, họ được đầy dẫy Thánh Linh, họ nói tiếng ngoại quốc và nói tiên tri.

Nhờ có tinh thần khiêm nhường học hỏi, các môn đồ của Giăng đã nhận được những ân tứ vô cùng đặc biệt từ Đức Thánh Linh.

Trong hai năm Phao-lô và những bạn đồng lao làm việc ròng rã, siêng năng đến nỗi “Mọi người ở trong cõi A-si, hoặc người Giu-đa hay là người Gờ-réc đều nghe đạo Chúa”. Chúng ta không rõ
Phao-lô đã dùng phương pháp nào trong việc quảng bá Lời Chúa cho dân chúng; nhưng điều chúng ta đọc thấy ở đây là ông đã “dạy dỗ hằng ngày” (Công vụ 19:9). Nhóm lại ở nhà thờ để học Lời Chúa mỗi ngày là điều khó thực hiện đối với những gia đình tín hữu phải làm lụng suốt cả tuần lễ. Tuy nhiên nếu Hội Thánh có nhiều gia đình tín hữu ở rải rác trong thành phố, mỗi gia đình có thể luân phiên tiếp đón bạn hữu đến học Lời Chúa tại nhà riêng của mình. Như vậy, việc học Lời Chúa hằng ngày có thể thực hiện được. Bạn cũng hãy xét xem gia đình bạn có thể mở rộng để đón lớp Kinh Thánh tư gia một tháng một lần hoặc hai tuần lễ một lần chưa? Chắc chắn bạn sẽ được phước lớn từ nơi Chúa và là nguồn phước cho nhiều người khác nữa.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

Bảo quản trà: Trà gói kỹ, cất vào tủ lạnh, trà sẽ giữ được mùi trong một thời gian dài. Hoặc cho trà vào lọ thiếc có lót bằng sành sứ, không nên cho vào lọ thủy tinh, để nơi thoáng.

 

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG PHỤ NỮ 10.02.2019

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG PHỤ NỮ 10.02.2019

in PHỤ NỮ on 2 Tháng Tám, 2019

Chúa nhật 10.02.2019

  1. Đề tài: THAM GIA PHỤC VỤ.
  2. Kinh Thánh: Công-vụ 2:37-47.
  3. Câu gốc: “…Hãy hối cải, ai nấy phải nhân danh Đức Chúa Giê-xu chịu báp-têm, để được tha tội mình; rồi sẽ được lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh” (Công-vụ 2:38).
  4. Đố Kinh Thánh: Phi-lê-môn – Hê-bơ-rơ 1-2.
  5. Thể loại: Thuyết trình.

* CHỈ DẪN: Thuyết trình.

  1. Giao đề tài thuyết trình cho một nhóm trước nhiều tuần lễ.
  2. Nhóm sẽ họp lại để cùng nghiên cứu đề tài: “THAM GIA PHỤC VỤ”.
  3. Nhóm cử một nhóm viên đảm trách thuyết trình. Cả nhóm có trách nhiệm cung cấp thêm tài liệu. Người thuyết trình sẽ dựa vào tài liệu để soạn.
  4. Soạn xong, người thuyết trình sẽ trình bày những ý chính trước nhóm để lấy ý chung. Tránh đưa ra những ý kiến riêng.
  5. Sau giờ thuyết trình, các nhóm khác sẽ đặt câu hỏi, cả nhóm chịu trách nhiệm đề tài cùng nhau trả lời.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Giả sử bạn là người nộp đơn xin việc làm tại một cơ quan, công ty hoặc xí nghiệp nào đó, có lẽ bạn phải chờ người ta duyệt xét đơn từ của mình. Nếu bạn hội đủ điều kiện tuyển dụng, người ta sẽ mời bạn vào phỏng vấn. Khi được phỏng vấn dĩ nhiên bạn sẽ muốn kể ra học vấn, khả năng, kinh nghiệm của mình cách đầy đủ, tốt đẹp. Chúng ta hãy thử tưởng tượng xem nếu những người sau đây được Chúa phỏng vấn cách kỹ lưỡng và được tuyển chọn theo tiêu chuẩn thông thường thì họ có thể nhận được việc Chúa giao cho không?

– Nô-ê, người say sưa sau biến động kinh hoàng.

– Môi-se, người cà lăm, lại phạm tội sát nhân.

– Áp-ra-ham, người già quá.

– Gia-cốp, người nói láo, kẻ tranh giành quyền lợi, địa vị.

– Na-ô-mi, người góa bụa cay đắng.

– Đa-vít, khi còn là thiếu niên dáng người nhỏ quá, mặc áo giáp không vừa, chẳng có kinh nghiệm chiến trường.

– Đa-vít, khi lớn tuổi lại phạm tội tà dâm.

– Sa-lô-môn, khi còn trẻ thì tài hoa, giàu có quá còn lúc về già lại đâm ra hư hỏng, hoang đàng.

– Ê-li, người kiệt lực, nản chí và chỉ muốn chết.

– Ô-sê, người kết hôn với một người nữ trắc nết.

– A-mốt, người trồng tỉa cây vả, ngoài ra chẳng biết gì khác.

– Giô-na, người trốn chạy, tránh né Chúa.

– Phi-e-rơ, người nóng nảy, bộp chộp.

– Ma-thê, người lo lắng những chuyện vu vơ, vớ vẩn, vụn vặt.

– Ma-ri, người lười biếng, chẳng muốn phụ việc nhà.

– Giăng Mác, người bỏ cuộc khi gặp thách thức, khó khăn.

– Phao-lô, kẻ bắt bớ cố làm tàn hại Hội Thánh của Chúa.

– Ti-mô-thê, người đau bệnh kinh niên trong đường tiêu hóa.

Bạn hãy yên tâm, Đức Chúa Trời không đòi chúng ta phải là người hội đủ những điều kiện về học vấn, khả năng và kinh nghiệm trước khi Ngài có thể sử dụng chúng ta. Ngài cũng không căn cứ vào khiếm khuyết hoặc lỗi lầm của chúng ta để khước từ chúng ta. Điều quan trọng trong sự hầu việc Chúa là sự thay đổi nhân cách để thích ứng với công tác thiêng liêng. Người hầu việc Chúa có thể là người có tài hoặc chẳng có tài nào đáng kể nhưng phải là người có đức và sẵn sàng để Chúa uốn nắn mình, tôi luyện mình, sử dụng mình cho mục đích tốt lành, xứng đáng và trọn vẹn của Ngài.


  1. ĐƯỢC ĐỨC THÁNH LINH CẢM THÚC (Công-vụ 2:37).

Lời Chúa có dạy rằng nếu chẳng phải bởi Đức Thánh Linh cảm động thì không ai có thể xưng nhận Đấng Christ. Cũng vậy, nếu chẳng phải bởi Đức Thánh Linh cảm động thì không ai có thể hầu việc Chúa cách hết lòng và đầy ý nghĩa. Khi ý thức rõ tình thương và sự hi sinh Chúa dành cho chính mình, chúng ta đáp ứng lại tình thương và sự hi sinh đó bằng niềm tin đơn sơ, chân thành. Khi nhận biết rõ cần rao giảng Tin Lành, truyền Phúc Âm của Chúa, chúng ta dâng mình hầu việc Chúa. Sự đáp ứng của chúng ta, sự dâng mình của chúng ta cần phải do Đức Thánh Linh cảm thúc. Không phải vì chúng ta muốn mà được. Nếu chẳng phải bởi ý Chúa, nếu chẳng do quyền của Chúa thì việc chúng ta làm có hay đến mấy hoặc tốt đến mấy cũng chỉ là việc gượng ép luống công.

Sau khi dân chúng nghe Phi-e-rơ rao giảng Lời Chúa, lòng họ cảm động và hỏi Phi-e-rơ cùng những sứ đồ khác “Hỡi anh em, chúng ta phải làm chi?”. Có thể là lúc đó Phi-e-rơ rao giảng mà quên khuyên mời chăng? Chúng ta không biết có thật như vậy hay không, nhưng phản ứng của dân chúng quả là phản ứng đầy khích lệ. Khi đã được chính Đức Thánh Linh cảm thúc thì chẳng cần được nhắc nhở hoặc mời gọi, người nghe cũng sẵn sàng đáp ứng.

2. ĂN NĂN TỘI LỖI TRƯỚC MẶT CHÚA (Công-vụ 2:38-41).

Ăn năn tội lỗi bao gồm ít nhất bốn điều: Buồn rầu, bức rức, bối rối, buông rơi. Người có lòng ăn năn thật không phải chỉ hối tiếc một chút về sự vấp phạm của mình nhưng còn khổ sở, đau đớn, buồn rầu vì nó nữa. Khi nhận biết tội lỗi của mình, vua Đa-vít nói:

“Đức Chúa Trời ôi! Xin hãy thương xót tôi, tùy lòng nhân từ của Chúa; xin hãy xóa các sự vi phạm tôi, theo sự từ bi rất lớn của Chúa. Xin hãy rửa tôi cho sạch hết trọi gian ác, và làm tôi được thanh khiết về tội lỗi tôi. Vì tôi nhận biết các sự vi phạm tôi, tội lỗi tôi hằng ở trước mặt tôi. Tôi đã phạm tội cùng Chúa, chỉ cùng một mình Chúa thôi, và làm điều ác trước mặt Chúa; hầu cho Chúa được xưng công bình khi Chúa phán, và được thanh sạch khi Chúa xét đoán” (Thi-thiên 51:1-4).

Sự buồn rầu của Đa-vít là sự buồn rầu hết sức chân thành.

Cũng vậy, khi nhận biết tội lỗi của mình, người con trai hoang đàng nói: “Thưa cha, tôi đã đặng tội với trời và với cha, không đáng gọi là con của cha nữa, xin cha đãi tôi như đứa làm mướn của cha vậy” (Lu-ca 15:18b-19). Lương tâm của đứa con trai hoang đàng đó có bị giày vò, dằn vặt từ ngày nay sang ngày khác khiến nó cứ phải bức rức, khó chịu mãi. Nó bối rối vì cớ tội lỗi nó đã vấp phạm. Và cuối cùng nó phải quyết định từ bỏ tội lỗi, dứt khoát buông rơi tội lỗi.

Ăn năn tội lỗi liên hệ đến ba phương diện: Lý trí, cảm xúc và ý chí. Người có lòng ăn năn chân thành là người nhận biết cách rõ ràng tội của mình. Lý trí của người đó cho thấy rõ người đó đã vấp phạm. Người nhận biết tội của mình, không che đậy, không biện bạch, không bào chữa. Lòng người đó ghê tởm tư tưởng bất chính, việc làm sai quấy của mình. Ý chí người đó dứt khoát chuyển hướng, quăng hết gánh nặng tội lỗi và hướng đến Chúa để nài xin Chúa tha thứ.

Người ăn năn tội lỗi và được Chúa tha thứ là người có đời sống đổi mới, một đời sống hiến dâng, một đời sống phục vụ. Có người nói Đức Chúa Trời gớm ghét tội lỗi nhưng Ngài yêu thương tội nhân. Điều đó đúng nhưng không được lạm dụng. Người đã được Chúa tha thứ phải lấy lòng kỉnh kiền mà bước đi theo Chúa, phải thận trọng trong cách ăn nết ở của mình, không còn để mình bị buộc trói dưới ách tôi mọi của tội lỗi nữa.

Xét về thời gian, sự ăn năn tội lỗi trước mặt Đức Chúa Trời có ảnh hưởng trên quá khứ, hiện tại lẫn tương lai. Về quá khứ người có lòng ăn năn thống hối trước mặt Đức Chúa Trời biết rõ tội lỗi của mình đã được tẩy xóa và mình hoàn toàn được buông tha khỏi hình phạt do tội lỗi gây nên. Về hiện tại, người có lòng ăn năn thống hối trước mặt Đức Chúa Trời ý thức rằng mình đã được Chúa mua chuộc bằng giá rất cao, bởi đó người không dám tái phạm, không dám lầm lẫn, liều lĩnh, hoặc để cho ma quỉ lung lạc mình nữa. Về tương lai, người có lòng ăn năn thống hối trước mặt Đức Chúa Trời biết rõ sự cứu rỗi mình nhận được là sự cứu rỗi chắc chắn và mình sẽ được dự phần trong nước Thiên đàng của Chúa. Chúa đã tha tội một lần đủ cả. Sự cứu rỗi của người đó được bảo đảm bởi chính Đức Chúa Giê-xu Christ chớ chẳng phải bởi việc lành hoặc sự công bình của chính mình.

III. HẦU VIỆC CHÚA TRONG HỘI THÁNH (Công-vụ 2:42-47).

Sau khi ăn năn tội lỗi trước mặt Đức Chúa Trời và tin nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa, các môn đồ trong Hội Thánh ban đầu đã làm gì? Họ học hỏi lời Đức Chúa Trời cách hào hứng. Họ thông công cách hớn hở. Họ đến cùng Chúa để cầu nguyện cách hân hoan. Họ hô hào, cổ động lòng kính sợ Chúa. Họ cứ hội hiệp lại với nhau và chuyên tâm thờ phượng Chúa và gìn giữ sự hòa thuận, hiệp một. Họ biết rằng khi hoàng hôn của đời này buông xuống, họ sẽ ra khỏi hình hài trần thế để hồi hương trong nước huy hoàng của Chúa. Bởi vậy, cho nên họ cứ làm chứng cho Chúa cách hăng hái, họ cứ hầu việc Chúa cách trung tín. Kết quả thật tốt lành: Chúa ban phước khiến cho Hội Thánh ngày càng đông người hơn.

Theo học giả William Barclay thì Hội Thánh ban đầu có chín đặc điểm.

(1) Đó là một Hội Thánh chịu học hỏi.

(2) Đó là một Hội Thánh của sự thông công.

(3) Đó là một Hội Thánh cầu nguyện.

(4) Đó là một Hội Thánh kính sợ Đức Chúa Trời.

(5) Đó là một Hội Thánh có nhiều dấu kỳ, phép lạ.

(6) Đó là một Hội Thánh biết chia sẻ.

(7) Đó là một Hội Thánh thờ phượng.

(8) Đó là một Hội Thánh đầy đủ hạnh phúc.

(9) Đó là một Hội Thánh mà người khác không thể nào bắt chước để trở nên giống như vậy được.

Hội Thánh ban đầu của Chúa là Hội Thánh có tinh thần vị tha rất cao. Khuynh hướng thông thường của con người là khuynh hướng vị kỷ. Tuy nhiên, khi được Chúa đổi mới, tôi luyện người tin có thể suy nghĩ đến Chúa và tha nhân hơn là chỉ nghĩ đến chính mình. Đó là lý do khiến họ dám tình nguyện san sẻ hết những gì mình có thể san sẻ, đóng góp hết những gì mình có thể đóng góp mà không hề sợ bị thiệt thòi.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC

Trị mụn cám.

Mụn cám không có ngòi, da vẫn nhẵn vì mụn là những hột nhỏ lấm tấm, nổi lên ở dưới da như có chất màu trắng trong.

Cách trị: Dùng bột ngô trộn lòng trắng trứng gà đắp lên da, dần sẽ hết.

 

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG PHỤ NỮ 03.02.2019

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG PHỤ NỮ 03.02.2019

in PHỤ NỮ on 2 Tháng Tám, 2019

Chúa nhật 03.02.2019

  1. Đề tài: SINH NHẬT QUÝ I.

  2. Kinh Thánh: Thi-thiên 139:13-16.
  3. Câu gốc: Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng. Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm” (Thi thiên 139:14).
    1. Đố Kinh Thánh: Tít 1-3.
    2. Thể loại: Ca ngợi – Cảm tạ.

    * CHỈ DẪN: Sinh nhật (Ca ngợi – Cảm tạ).

    1. Mỗi quí, tổ chức một buổi sinh nhật cho các bạn sinh trong quí đó. Sinh nhật của quí 1 dành cho các bạn sinh trong tháng 1, 2, 3, quí 2 (tháng 4, 5, 6), quí 3 (tháng 7, 8, 9), quí 4 (tháng 10, 11, 12).
    2. Với những người không nhớ ngày sinh, xin lấy ngày tin Chúa, hoặc bất kỳ ngày tháng nào có nhiều kỷ niệm đáng ghi nhớ để làm sinh nhật.
    3. Thư ký ghi vào sổ và giao danh sách các ban viên có ngày sinh nhật trong quí cho thủ quỹ để mua quà. Thủ quỹ mua quà nhiều hơn số cần phòng khi có khách, thân hữu… đến dự và cũng có ngày sinh trong quí đó. Món quà nho nhỏ và có thể để dành lâu ngày (cây viết bi…).
    4. Mời những người “sinh nhật” lên phía trên. Toàn ban Phụ nữ hát chúc mừng và cầu nguyện đặc biệt cho họ. Nếu có bánh sinh nhật thì tất cả những người sinh nhật cùng cầm dao và cắt bánh trước khi cầu nguyện.
    5. Tặng quà cho mỗi người sinh nhật.
    6. Mời từng người “sinh nhật” có lời cảm tạ Chúa hoặc hát tôn vinh Ngài – Có thể mời các bạn cùng hát bài thánh ca mà mình thích.
    7. Trò chơi và ăn bánh sinh nhật.

    * TRÒ CHƠI DÀNH CHO NGƯỜI CÓ SINH NHẬT.

    THẮP NẾN SINH NHẬT.

                – Chuẩn bị: Dùng giấy bìa cứng làm một số cây nến, ghi lời yêu cầu vui, ngắn gọn lên giấy, cuộn lại nhét vào cây nến, dùng băng keo dán cây nến lên bảng (số nến tương đương với số người có ngày sinh trong quí).

    Nếu dùng nến thật thì cũng gắn lời yêu cầu vào như nến bằng giấy rồi bạn đốt nến và sắp lên bàn sao cho đẹp mắt.

    Ví dụ: Về lời yêu cầu: “Chúc bạn sinh nhật vui vẻ! Mời bạn uống một lượt 2 ly nước”, hoặc “Mừng sinh nhật bạn! Bạn có thể mời người hát tặng bạn một bài”…

    – Cách chơi: NHD mời từng người có ngày sinh trong quí lên và chọn cho mình một cây nến. Tìm xem cây nến có chứa điều gì bí ẩn và khi tìm ra được hãy đọc lớn điều bí ẩn đó lên và thực hiện.

    * TRÒ CHƠI TẬP THỂ.

    LỤT ĐẠI HỒNG THỦY

    Cách chơi: Vẽ 2 vòng tròn đồng tâm (lớn hoặc nhỏ tùy theo số lượng người chơi). Vòng này cách vòng kia khoảng 0,6m. Chia làm 3 khu vực. Vòng trong cùng là “con tàu”; khoảng cách từ vòng trong ra vòng ngoài là “núi”; và khoảng cách bên ngoài 2 vòng tròn là “mặt đất”. NHD bắt đầu kể chuyện nước lụt thời Nô-ê. Đang khi kể, NHD bất chợt hô lên chữ “nước dâng lên”, thì tất cả mọi người tham gia đứng bên ngoài phải nhảy lên “núi” hoặc NHD hô chữ “ngập lụt” thì tất cả phải nhảy vào trong “tàu”; tương tự “nước cạn” thì mọi người phải nhảy xuống “mặt đất” (nhảy ra ngoài hai vòng tròn). Ai không nhảy vào kịp hoặc nhảy lộn là người thua cuộc.

    * Lưu ý: Để giúp cho trò chơi thêm sinh động hơn, thì NHD nên vẽ vòng tròn nhỏ hơn một tí so với lượng người tham gia; đồng thời thường xuyên hô lớn những chữ như “dâng lên”, “ngập lụt”, hay “nước cạn” một cách bất thình lình trong lúc kể chuyện.

    * HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC

    Trị mụn trứng cá.

    Đừng nên nặn khi mụn còn non, sẽ để lại vết thâm trên da. Hãy để mụn già, lấy móng tay khẽ ấn vào chân mụn sẽ lôi ra được một ngòi cứng và trắng. Sau đó lấy alcol 90o mà thoa lên.


CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG PHỤ NỮ 27.01.2019

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG PHỤ NỮ 27.01.2019

in PHỤ NỮ on 2 Tháng Tám, 2019

Chúa nhật 27.01.2019

  1. Đề tài: CA NGỢI CHÚA.
  2. Kinh Thánh: Thi-thiên 90:12-17.
  3. Câu gốc: “Cầu xin Chúa dạy chúng tôi biết đếm các ngày chúng tôi, hầu cho chúng tôi được lòng khôn ngoan” (Thi-thiên 90:12).
  4. Đố Kinh Thánh: Đố theo chủ đề.
  5. Thể loại: Đố Kinh Thánh – Sinh hoạt.

* CHỈ DẪN: Đố Kinh Thánh – Sinh hoạt.

  1. ĐỐ KINH THÁNH

Người đố Kinh Thánh: Soạn khoảng 5-10 câu đố. Có thể soạn câu đố Kinh Thánh theo phương cách sau đây:

  1. Đố lật mau: Nêu tên sách, đoạn, câu Kinh Thánh. Ai đọc lên trước sẽ được điểm.
  2. Đố tìm: Nêu lên sự kiện hoặc đọc lên câu Kinh Thánh, rồi yêu cầu các bạn tìm địa chỉ (sách, đoạn, câu.)
  3. Đố đối chiếu: Đọc lên câu Kinh Thánh trong các đoạn đang đố và yêu cầu tìm câu có ý tương tự trong một nơi khác của Kinh Thánh. Hoặc đọc một câu Kinh Thánh – ngoài các đoạn đang đố – và yêu cầu tìm câu có ý tương tự trong các đoạn đang đố.
  4. Đố cử điệu: Ra cử điệu (kịch câm) theo ý nghĩa của câu Kinh Thánh và yêu cầu các bạn tìm câu Kinh Thánh.
  5. Đố hình vẽ: Vẽ lên bảng ý nghĩa câu Kinh Thánh và yêu cầu các bạn tìm câu Kinh Thánh.
  6. Đố con số: Ghi lên bảng hay tờ giấy các con số muốn đố. Ví dụ: 5, 2, 5.000, 12 – Trả lời: Mác 6:38-40.
  7. Đố liên hệ: Ví dụ:

Tôi là vợ của Y-sác (Trả lời: Tôi tên là Rê-bê-ca).

Gia-cốp là chồng của chúng tôi (Chúng tôi là Lê-A, Ra-chên, Bi-la và Xinh-ba).

Gô-li-át đã chết bởi tay tôi (Tôi là Đa-vít).

  1. Đố ca dao, tục ngữ: Ví dụ: “Thương cho roi cho vọt” – Hê-bê-rơ 12:6.
  2. Đố mẫu tự: Ví dụ: A. Trả lời: A-đam – B. Trả lời: Bê-tên.
  3. Đố Thánh ca: Nêu lên địa chỉ câu Kinh Thánh (Thi-thiên 119:105) và yêu cầu tìm ý nghĩa đó trong một bài Thánh ca (TC 432). Người tìm được phải hát 1 câu trong bài Thánh ca đó. Hoặc đàn một bài Thánh ca (TC 362) và yêu cầu các bạn tìm ra câu Kinh Thánh có ý tương tự (Ê-sai 6:8).
  4. Đố chữ: Viết câu Kinh Thánh lên bảng, nhưng không theo thứ tự hoặc bỏ sót nhiều chữ.
  5. Đố trí nhớ: Nêu lên sự kiện hoặc đọc lên địa chỉ câu Kinh Thánh. Yêu cầu các bạn trả lời (không được lật Kinh Thánh).
  6. Đố vui (đố mẹo): Để tạo không khí vui tươi ở cuối giờ đố Kinh Thánh.

Vd 1: Trong Kinh Thánh ông nào nhiều thẹo nhất? – Đa-vít.

Vd 2: Tiên tri nào làm bột ngọt? – A-mốt (Bột ngọt A-One).

Vd 3: Ai hát dở nhất trong Kinh Thánh? – Ca-lép.

  1. SINH HOẠT.

Người lo sinh hoạt có thể soạn ra một số trò chơi hoặc tham khảo các trò chơi sau đây:


ĐOÁN BẠN

* Cách chơi: Một người được chọn ra giữa vòng, bịt mắt. Tất cả còn lại vừa hát vừa đi về bên phải. NHD ra lệnh ngưng bài hát và dẫn người bịt mắt đến một người nào đó, để hai người nói chuyện, hỏi thăm… Người không bịt mắt (con dê) phải giả giọng để người bịt mắt không nhận ra. Sau vài ba câu hỏi, người bịt mắt phải đoán xem người nào đã tiếp chuyện với mình.

TÌM CHIÊN ĐẦU ĐÀN

* Cách chơi: Một người được cử ra khỏi khu vực chơi làm chủ chiên, người điều khiển chỉ định một người làm chiên đầu đàn và tất cả cùng hát đồng thời làm các động tác của chiên đầu đàn. Trong vòng 2 hoặc 3 bài hát, chủ chiên phải chỉ đúng con chiên đầu đàn. Khi chỉ đúng chiên đầu đàn, người điều khiển sẽ thổi một tiếng còi và chiên đầu đàn phải chạy quanh vòng tròn để tránh chủ chiên đang rượt bắt. Tất cả các con chiên khác vẫn tiếp tục hát.

THẬT THÀ

– Cách chơi: Chia thành hai nhóm bằng nhau, đứng thành hàng ngang đối diện nhau, cách khoảng 6 hoặc 7m. Mỗi người góp vào giữa một chiếc dép. NHD thổi còi, người đứng đầu chạy nhanh về đống dép, dùng chân tìm đúng chiếc dép của mình (không được lấy dép người khác), kẹp vào hai đầu gối nhảy về đập vào vai người thứ hai. Người thứ hai tiếp tục cho đến hết. Nhóm nào xong trước là thắng cuộc.

* Lưu ý:

– Tất cả các động tác chỉ được dùng chân, cấm dùng tay.

– Khi kẹp được dép vào đầu gối, nhảy về chỗ, nếu bị rớt, tự động dùng đầu gối kẹp dép lại rồi tiếp tục nhảy.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC

Tự làm mặt nạ không cần tốn nhiều tiền.

Lòng trắng trứng gà: Khi dùng trứng gà, lấy tay quẹt lòng trắng còn xót nằm trong vỏ trứng là đủ làm mặt nạ chống vết nhăn rồi.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG PHỤ NỮ 20.01.2019

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG PHỤ NỮ 20.01.2019

in PHỤ NỮ on 2 Tháng Tám, 2019

in PHỤ NỮ on 2 Tháng Tám, 2019

 Chúa nhật 20.01.2019

  1. Đề tài: NĂNG LỰC PHỤC VỤ.
  2. Kinh Thánh: Công-vụ 2:1-36.
  3. Câu gốc: “Hết thảy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, khởi sự nói các thứ tiếng khác, theo như Đức Thánh Linh cho mình nói” (Công-vụ 2:4).
  4. Đố Kinh Thánh: 2Ti-mô-thê 1-4.
  5. Thể loại: Học Kinh Thánh nhóm.

* CHỈ DẪN: Học Kinh Thánh Nhóm.

  1. Tài liệu: Ủy viên linh vụ dựa vào tài liệu để chọn phương pháp học Kinh Thánh, soạn câu hỏi, và viết sẵn ra giấy để trao cho các nhóm.
  2. Phương pháp học Kinh Thánh phải tùy theo phần Kinh Thánh làm nền và khả năng của ban viên.
  3. Nếu bạn không có phương pháp học Kinh Thánh, bạn có thể soạn 2-3 cụm câu hỏi cho giờ học Kinh Thánh nhóm. Mỗi cụm câu hỏi gồm có:

– Câu hỏi quan sát (Nêu sự việc đã xảy ra).

– Câu hỏi suy luận (Tìm sự dạy dỗ của lời Chúa).

– Câu hỏi áp dụng (Ứng dụng sự dạy dỗ vào đời sống).

  1. Thảo luận: Để giờ học Kinh Thánh có kết quả, ủy viên linh vụ và các trưởng nhóm nên cùng học với nhau trước để nắm vững nội dung của buổi học, nhờ đó các nhóm trưởng sẽ tự tin khi hướng dẫn nhóm mình và không lệch mục tiêu ban đầu.
  2. Thời gian học Kinh Thánh.
  3. 5 phút giải thích và chia nhóm.
  4. 20 phút thảo luận.
  5. 10 phút tường trình.
  6. 5 phút đúc kết.
  7. Giải thích: Đọc phần Kinh Thánh làm nền, giải thích phương pháp học, đọc câu hỏi rồi tiến hành chia nhóm.
  8. Chia nhóm: Tùy theo số ban viên, có thể chia thành nhiều nhóm từ 5 đến 10 người.
  9. Vị trí: Ủy viên linh vụ sắp xếp chỗ học Kinh Thánh cho các nhóm.
  10. Bài học: Giao phần tài liệu và câu hỏi đã soạn trước cho các trưởng nhóm.
  11. Trưởng nhóm và thư ký nhóm: Trưởng nhóm phải được chọn trước để cùng học với ủy viên linh vụ, nhiệm vụ chính của trưởng nhóm là đưa ra câu hỏi và gợi ý để các bạn trả lời, hướng dẫn buổi thảo luận đi đúng mục tiêu. Thư ký nhóm được cử ra để ghi lại kết quả của buổi thảo luận và tường trình trong giờ đúc kết.
  12. Giờ tường trình và đúc kết: Các thư ký nhóm lần lượt trình bày kết quả giờ học Kinh Thánh viên làm theo sự dạy dỗ nhận được qua buổi thảo luận.
  13. Xem Công-vụ 1:1-3 cho biết:

(1) Thánh Linh giáng lâm vào ngày nào? Lúc đó môn đồ đang làm gì?

(2) Việc các môn đồ đầy dẫy Đức Thánh Linh minh chứng điều gì về lời hứa của Chúa Giê-xu?

(3) Bạn đã kinh nghiệm những điều Chúa hứa ban chưa? Xin chia sẻ điều bạn nhận được khi đặt đức tin trên lời Chúa hứa.

  1. Xem Công-vụ 2:4-6 cho biết:

(1) Cho biết các sứ đồ khởi sự nói các thứ tiếng khác, đó là tiếng gì? Người nghe có hiểu được không?

(2) Đức Thánh Linh ban cho môn đồ nói các thứ tiếng khác để làm gì? Điều nầy cần thiết như thế nào?

(3) Bạn có khao khát nói được các thứ tiếng không? Mục đích để làm gì?

III. Xem Công-vụ 2:7-36 cho biết:

            (1) Khi nhận Đức Thánh Linh Phi-e-rơ đã mạnh dạn làm điều gì?

            (2) Bài giảng của Phi-e-rơ nhấn mạnh về điều gì và đem lại kết quả như thế nào trong ngày lễ Ngũ-tuần?

(3) Xin cho biết đời sống bạn có phải là bài giảng sống cho mọi người chung quanh nhìn biết Đức Chúa Trời chưa?

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Vào cuối năm 1999, tại nơi tôi làm việc có một cái máy in đột nhiên ngừng hoạt động. Ông bạn già của tôi đến bên máy in rút sợi dây điện ra rồi bước sang nơi gần đó pha cà phê uống. Mấy phút sau, ông trở lại bên máy in, cắm đầu dây diện vào một chỗ trống của “powerge protector” thay vì cắm vào ổ điện trong vách tường. Ông cứ đứng ngắm nghía mãi mà không thấy máy in khởi động gì cả. Sau đó có người nhắc ông là sắp đến tuổi hưu trí thật rồi.

Giả sử bạn có sử dụng dụng cụ cắt tóc bằng điện thật tốt, còn mới tinh nhưng không có điện sử dụng, thì bạn không thể dùng dụng cụ cắt tóc đó được. Trường hợp khác, xe của bạn có thể là xe rất tốt nhưng xe lại hết xăng hoặc ống dẫn xăng bị nghẹt, hoặc bơm xăng hư, bạn cũng không thể sử dụng chiếc xe đó được.

Nguồn năng lực của môn đồ chính là Đức Thánh Linh. Môn đồ của Chúa sống động và hiện hữu cách ý nghĩa là nhờ quyền năng của Đức Thánh Linh.


  1. ĐỨC THÁNH LINH GIÁNG LÂM (Công-vụ 2:1-3).

Trước khi lìa trần gian, Chúa Giê-xu gọi các môn đồ đến bên Ngài để phán dặn cách rõ ràng: “Nhưng vì Ta đã nói những điều đó cho các ngươi, thì lòng các ngươi chứa chan sự phiền não. Dầu vậy, Ta nói thật cùng các ngươi: Ta đi là ích lợi cho các ngươi; vì nếu Ta không đi, Đấng Yên ủi sẽ không đến cùng các ngươi đâu; song nếu Ta đi, thì Ta sẽ sai Ngài đến. Khi Ngài đến thì sẽ khiến thế gian tự cáo về tội lỗi, về sự công bình và về sự phán xét. Về tội lỗi, vì họ không tin Ta; về sự công bình, vì Ta đi đến cùng Cha và các ngươi chẳng thấy Ta nữa;  về sự phán xét, vì vua chúa thế gian này đã bị đoán xét. Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi. Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến. Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh Ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi” (Giăng 16:6-14).

Lời hứa này của Chúa Giê-xu được ứng nghiệm vào ngày lễ Ngũ tuần. Trong khi các môn đồ đang nhóm lại, thình lình có tiếng từ trời vang lên như tiếng gió thổi ào ào khắp cả nhà. Kinh Thánh không cho biết cảnh trạng đó xảy ra trong bao lâu, nhưng có lẽ đủ lâu để các môn đồ nhận biết quyền năng phi thường của Đức Thánh Linh. Sức mạnh của Chúa là sức mạnh vô song. Sự hiện diện của Chúa là sự hiện diện lạ lùng, trước chưa từng có, sau cũng không có y như ngày hôm đó. Khi Đức Thánh Linh giáng xuống cùng các môn đồ, họ không còn có thể tự mình làm gì hoặc nói gì. Họ được Thánh Linh cai quản, cảm thúc. Họ cảm thấy giống như có lửa trên lưỡi của mình. Rồi sau đó họ mở miệng ra nói tiếng lạ, một thứ tiếng khác với ngôn ngữ họ thường dùng mỗi ngày.

Kinh nghiệm của các môn đồ trải qua là kinh nghiệm hết sức đặc biệt. Kinh nghiệm đó đánh giá sự khởi đầu một chuyển biến quan trọng, một kỷ nguyên mới trong lịch sử Hội Thánh Chúa. Trong kỷ nguyên mới đó Đức Thánh Linh bắt đầu thi hành công tác của Ngài để tiếp nối công việc của Đấng Christ trong các Hội Thánh của Ngài, khởi đầu từ thành Giê-ru-sa-lem cho đến khắp cả toàn cầu.

  1. QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA (Công-vụ 2:4-6).

Như chúng ta đã biết, khi Đức Thánh Linh bắt đầu ngự trị trong đời sống của các môn đồ, Ngài không ngừng ban phước cho họ. Đức Thánh Linh cảm động lòng của nhiều người đến nỗi họ cứ vui mừng, hớn hở, muốn nhóm hiệp lại với nhau luôn luôn. Có thật nhiều người Giu-đa và những kẻ mộ đạo từ khắp các nơi cùng đến Giê-ru-sa-lem. Điều làm họ ngạc nhiên nhiều hơn cả là họ được nghe các sứ đồ làm chứng, giảng dạy bằng tiếng mẹ đẻ của họ, không phải tiếng nói các sứ đồ vẫn dùng thường ngày. Thật là lạ lùng. Các sứ đồ có vào trường ngoại ngữ để học tiếng bao giờ đâu, nhưng khi họ mở miệng cắt nghĩa về lẽ đạo của Đức Chúa Trời, thì lời họ nói ra thật là rõ ràng, bày tỏ được những sự cao trọng của Đức Chúa Trời.

Công-vụ 2:4 cho biết các sứ đồ khởi sự nói các thứ tiếng khác. Công-vụ 2:6-12 nhận định các thứ tiếng khác đó là tiếng của những dân tộc sống rải rác quanh vùng Giê-ru-sa-lem: Bạt-thê, Mê-đi, Ê-la-mít, Mê-sô-bô-ta-ni, Giu-đê, Cáp-ra-đốc, Bông, A-si, Phi-ri-gi, Bam-phi-ly, Ê-díp-tô, Ly-by, Rô-ma, Cơ-rết, Ả-rập. Như vậy, tiếng khác hoặc tiếng lạ cũng là tiếng nói phổ thông của một dân tộc nào đó.

Khi giảng dạy Lời Chúa bằng tiếng nước ngoài cần phải có người thông dịch hoặc cắt nghĩa, ngoại trừ trường hợp người rao giảng có thể giảng trực tiếp bằng tiếng nước ngoài. Đức Thánh Linh chẳng hề ban phước cho môn đồ của Ngài để họ “chạy bá vơ, đánh gió” bao giờ. Thà rằng nói chỉ có đôi lời mà ích lợi cho người nghe còn hơn là nói thật nhiều lời mà chẳng có ai hiểu, cũng chẳng gây dựng được điều gì cả.

III. LÀM CHỨNG QUA ĐỨC THÁNH LINH (Công-vụ 2:7,8,11b,13).

Lời chứng của các môn đồ nhân ngày Lễ Ngũ tuần là lời chứng ý nghĩa đối với người nghe. Chúng ta không rõ các môn đồ đã chuẩn bị bài học, bài giảng hoặc bài làm chứng như thế nào nhưng chúng ta biết họ là những người đã từng đi với Đức Chúa Giê-xu Christ, họ đã từng sống với Ngài. Điều đó quan trọng hơn tất cả mọi kỹ thuật, mọi phương pháp. Họ không tự nói ra sự hiểu biết của mình, nhưng họ được Đức Thánh Linh cảm động để nói ra Lời của Ngài. Công-vụ 2:11 nói rõ là các môn đồ đã bày tỏ được sự cao trọng của Đức Chúa Trời.

Ngày nay, khi chúng ta giảng dạy, huấn luyện hoặc chứng đạo chúng ta có để ý đến mục tiêu bày tỏ được sự cao trọng của Đức Chúa Trời chăng? Chúng ta yêu thương nhau, nhờ đó mà thế nhân nhận biết chúng ta là con cái Đức Chúa Trời. Chúng ta làm việc lành, nhờ đó mà thiên hạ ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời. Chúng ta nói lời tốt đẹp hoặc lời ân hậu để làm sáng danh Cha chúng ta trên trời cao.

  1. NHẬN BIẾT ĐỨC THÁNH LINH (Công-vụ 2:14-17a,33).

Trong số những môn đồ thân tín của Chúa Giê-xu, Phi-e-rơ là người nhanh nhẹn, bạo dạn hơn cả. Ngay sau khi nhận lãnh quyền năng của Đức Thánh Linh, ông lập tức đứng lên kêu gọi dân chúng cẩn thận lắng nghe lời ông rao giảng về Đức Chúa Giê-xu Christ. Trước hết, ông cho biết kinh nghiệm lạ lùng mà họ chứng kiến trong ngày Lễ Ngũ tuần là kinh nghiệm thật. Các môn đồ của Chúa chẳng phải vì say rượu mà nói ra lời bậy bạ, nhưng họ là những người được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Họ làm được những việc lạ lùng kỳ diệu, chẳng hạn như nói tiếng của người xứ khác, vì cớ Đức Thánh Linh ở cùng họ. Họ nhận biết Đức Thánh Linh ở cùng mình và họ muốn người chưa tin Chúa cũng hiểu rõ điều đó.

Phi-e-rơ sau đó nói tiếp rằng Đức Thánh Linh giáng xuống như thế là để ứng nghiệm lời tiên tri Giô-ên đã nói từ trước. Người ta thường nói: “Nói có sách, mách có chứng”. Lời nói có nguồn gốc hẳn hoi, có xuất xứ minh bạch là lời có giá trị. Kinh nghiệm thuộc linh của các môn đồ không tự nhiên mà xảy ra. Đức Chúa Trời khiến điều đó xảy ra theo ý định Ngài đã từng có trước.

Tại đây, chúng ta học thêm được một điều nữa là Phi-e-rơ thường trưng dẫn Cựu ước vì đó là căn bản niềm tin của người Do-thái. Đối với họ, Cựu ước mang tính cách thiêng liêng, cao quí, cần thiết cho đời sống mỗi ngày. Ngoài những sự dạy dỗ nhằm xây dựng đời sống tin kính, trong Cựu ước còn có những lời tiên tri về sự giáng sinh, về đời sống, về chức vụ, sự chết, và sự sống lại của Chúa Giê-xu. Hơn thế nữa, trong Cựu ước còn có lời dự ngôn về sự quang lâm của Đức Thánh Linh.

Lập luận của Phi-e-rơ thật là vững vàng, chứng cớ ông trưng dẫn hết sức rõ ràng. Bao nhiêu hồ nghi phải tiêu tán. Cũng không nên ngờ vực, hoang mang, trái lại cần phải vững lòng tin cậy Đức Chúa Giê-xu người làng Na-xa-rét, Đấng công bình, thánh khiết trọn vẹn nhưng lại bị vu oan và đã chết thay cho nhiều người. Sau khi Chúa sống lại và về trời, Ngài ban Đức Thánh Linh cho các môn đồ hầu cho họ có thể hầu việc Chúa cách đắc thắng.

HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC

Tự làm mặt nạ không cần tốn nhiều tiền.

Sữa bò tươi: Khi uống sữa bò tươi còn lại một ít, thoa lên mặt, có hiệu quả rất tốt trong việc làm da mặt nõn nà.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG PHỤ NỮ 13.01.2019

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG PHỤ NỮ 13.01.2019

in PHỤ NỮ on 2 Tháng Tám, 2019

in PHỤ NỮ on 2 Tháng Tám, 2019

Chúa nhật 13.01.2019

  1. Đề tài: CHUẨN BỊ PHỤC VỤ.
  2. Kinh Thánh: Công-vụ 1:1-26.
  3. Câu gốc: “Lúc ở với các sứ đồ, Ngài dặn rằng đừng ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem, nhưng phải ở đó chờ điều Cha đã hứa” (Công-vụ 1:4).
  4. Đố Kinh Thánh: 1Ti-mô-thê 4-6.
  5. Thể loại: Chia sẻ.

* CHỈ DẪN: Chia sẻ.

  1. Mời người chia sẻ từ hai tuần trước.
  2. Ghi ra giấy đề tài, phần Kinh Thánh làm nền, câu gốc, phần Kinh Thánh tham khảo và trao cho người chia sẻ để người ấy chia sẻ đúng nhu cầu và chương trình của Ban Phụ nữ. Nếu người chia sẻ cần, xin cho mượn cả phần tài liệu tham khảo. Yêu cầu diễn giả dựa trên đề tài, phần Kinh Thánh, câu gốc, phần bố cục gợi ý trong tài liệu để soạn bài chia sẻ.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Người ta thường nói vạn sự khởi đầu nan. Hầu như bất kỳ việc gì bắt đầu cũng đều khó. Việc càng quan trọng bắt đầu càng khó khăn. Bởi vậy, cho nên muốn thực hiện một công tác mới cách thành công, ai nấy đều cần phải chuẩn bị cách chu đáo. Công tác quan trọng của Hội Thánh ban đầu là công tác truyền giáo. Công tác này đòi hỏi sự vâng phục, tin cậy, dấn thân và thường xuyên tương giao với Chúa qua sự cầu nguyện, học Kinh Thánh, thờ phượng, chứng đạo.

Để chuẩn bị cho sự hầu việc Chúa cách ý nghĩa và kết quả, môn đồ của Chúa cần siêng năng học Lời Chúa để hiểu rõ lời hứa cùng công tác Chúa trao phó. Khi đã hiểu rõ thánh ý và đường lối của Chúa, môn đồ của Chúa cần sống theo Lời Chúa hầu có thể làm trọn công tác Chúa trao phó.

  1. Lời Hứa (Công-vụ 1:4-5).

Công vụ các sứ đồ là sách viết về lịch sử Hội Thánh trong thế kỷ ban đầu. Trong lịch sử Hội Thánh, công tác truyền giáo là công tác quan trọng hơn hết. Để khởi đầu công tác này, Chúa Giê-xu cẩn thận căn dặn môn đồ đừng ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem. Họ cần ở lại trong thành, chờ đợi điều Chúa hứa cùng họ. Chúa hứa rằng Ngài sẽ làm lễ báp-têm cho họ bằng Đức Thánh Linh.

Trước đó, Giăng đã từng làm lễ báp-têm cho môn đồ của mình về sự ăn năn để được tha tội. Khi Chúa Giê-xu đi khắp các thành, các làng, giảng dạy trong các nhà hội, chữa lành các thứ tật bệnh cho họ. Phép báp-têm của Chúa Giê-xu khác với lễ báp-têm của Giăng ở điều này: Trong khi lễ báp-têm của Giăng chỉ tượng trưng cho sự ăn năn để được tha tội thì phép báp-têm của Chúa Giê-xu còn tượng trưng cho sự sống mới đầy ý nghĩa và phong phú.

Đang khi Chúa Giê-xu còn tại thế Ngài đã từng hứa ban Đức Thánh Linh cho những người tin nhận Ngài. Đến lúc Chúa Giê-xu lên trời, Đức Thánh Linh là Đấng tiếp nối công việc của Chúa Giê-xu trên dương thế trong đời sống của những người tin theo Chúa. Đức Thánh Linh là Đấng Yên ủi, dạy dỗ, dẫn dắt, thêm sức. Không có Đức Thánh Linh trong đời sống, con cái Chúa chẳng làm chi được. Khi được Đức Thánh Linh ngự trị, con cái Chúa có thể làm được những sự tốt lành nhờ Đấng ban thêm sức cho mình. Đó là lý do Chúa căn dặn các môn đồ ngày xưa phải kiên nhẫn chờ đợi Đức Thánh Linh.

Nếu môn đồ của Chúa bắt đầu sớm, không ở dưới sự dạy dỗ, dẫn dắt, thêm sức của Đức Thánh Linh thì cho dù họ có nhọc nhằn, lao khổ đến mấy cũng khó có thể thành công. Trong khi họ gặp hoạn nạn, nếu không có Đức Thánh Linh an ủi, rất có thể họ dễ ngã lòng. Chúa muốn con cái Chúa bắt đầu cách vững vàng, chắc chắn.

  1. Công Tác (Công-vụ 1:6-8).

Công tác Chúa trao phó cho các môn đồ rất rõ ràng. Các môn đồ có bổn phận đi ra truyền giáo khắp nơi, khởi sự ở nơi gần, rồi đến những nơi xa hơn, cho đến khi chu toàn trách nhiệm. Từ gần đến xa, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp là tiến trình tự nhiên và hợp lý.

Trẻ sơ sinh bú sữa, ăn cháo, ăn thức ăn tán nhuyễn trước khi có thể ăn cơm. Chúng nó tập lật, tập bò, đứng chựng, tập giữ thăng bằng trước khi có thể bước đi cách tự nhiên. Học sinh đến trường tập nhận diện phụ âm, nguyên âm trước khi ráp chữ và tập đọc từng chữ. Cũng vậy, môn đồ của Chúa thường được Chúa trao phó bổn phận nho nhỏ trước khi Ngài ủy thác cho họ những nhiệm vụ lớn lao hơn hết.

Phi-e-rơ là môn đồ có lòng sốt sắng, nhiệt thành hơn hết trong số các môn đồ của Chúa ngày xưa. Khi nghe Chúa phán bảo trước về sự chết của Ngài, ông nói ngay: “Dầu mọi người vấp phạm vì cớ thầy, song tôi chắc không bao giờ vấp phạm vậy. Đức Chúa Giê-xu phán rằng: “Quả thật, ta nói cùng ngươi, chính đêm nay, trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối ta ba lần” (Ma-thi-ơ 26:33-34).

Chúa Giê-xu biết sức lực của các môn đồ. Chúa biết khả năng của họ. Ngài muốn trao cho họ cái ách dễ chịu và cái gánh nhẹ nhàng. Khi môn đồ của Chúa dâng mình hầu việc Ngài, Chúa muốn công việc họ làm được đầy vui thỏa. Khi họ đi ra để làm chứng về Ngài, Chúa muốn họ đi ra với tấm lòng tràn ngập bình an và nét mặt rạng rỡ niềm vui. Khi họ mở miệng thuật lại ơn lành Chúa ban cho họ, Chúa muốn họ nói ra lời ân hậu, có ích cho người nghe. Khi có người nào hoặc gia đình nào tiếp đón họ cách niềm nở, họ nên dâng vinh hiển lên Chúa. Nếu có hất hủi, xua đuổi họ, họ cũng chẳng nên buồn. Khi họ cầu chúc lời bình an mà người ta đón nhận, đó là điều tốt; song nếu người ta không nhận thì lời cầu chúc đó lại thuộc về họ. Như vậy, dù gặp nghịch cảnh hay thuận cảnh, họ vẫn cứ trung tín hầu việc Chúa hầu có thể mang đạo sự sống đến cho nhiều người.

  1. Vâng phục (Công-vụ 1:9-11).

Tin cậy và vâng phục Chúa là bổn phận tất yếu của môn đồ Đấng Christ. Chúa có thể chọn người có ảnh hưởng thật lớn trong xã hội. Chúa có thể chọn người có kiến thức uyên bác. Chúa cũng có thể chọn người có tài năng đặc biệt. Tuy nhiên, đặc tính chung của những người được Chúa tuyển chọn ngày xưa là tin cậy và vâng phục.

Có ảnh hưởng lớn trong xã hội là điều tốt. Có kiến thức uyên bác cần thiết cho việc học tập Lời Chúa và giải bày Lời Chúa cách mạch lạc dễ hiểu là điều tốt hơn. Có tài năng đặc biệt thường dễ trở nên hữu dụng cho công việc nhà Chúa là điều càng tốt hơn nữa. Tuy nhiên, có hết thảy những điều này mà thiếu sự tin cậy và vâng phục  thì quả là thiếu sót vô cùng lớn lao.

Chúa truyền phán cho các môn đồ ngày xưa nhờ Đức Thánh Linh giáng trên họ. Họ tin Lời Chúa. Họ vâng theo lời ấy và Chúa đã thưởng họ bằng sự vinh hiển chói lòa của Ngài khi Ngài thăng thiên. Những môn đồ được phước nhiều hơn cả là những môn đồ tin Chúa, theo Chúa cách trung tín và thấy rõ quyền năng của Ngài.

Khi các môn đồ đang đứng ngó chăm lên trời thì có một đám mây tiếp Ngài khuất đi. Trong khi các môn đồ còn đang sững sờ thì lại có tiếng từ trời phán cùng họ: “Hỡi người Ga-li-lê, sao các ngươi đứng ngóng lên trời làm chi? Giê-xu này đã được cất lên trời khỏi giữa các ngươi, cũng sẽ trở lại như cách các ngươi đã thấy Ngài lên trời vậy”.

  1. Cầu nguyện (Công-vụ 1:12-14).

Sau khi các môn đồ chứng kiến tận mắt sự thăng thiên vinh hiển của Chúa, họ đã làm gì? Họ nhóm hiệp lại để cầu nguyện trong phòng cao ở Giê-ru-sa-lem. Bác sĩ Lu-ca thuật rõ chi tiết là họ đồng lòng, hiệp ý với nhau mà cầu nguyện. Họ tiếp tục tương giao với Đức Chúa Trời qua sự tôn vinh, cảm tạ, cầu thay, nài xin, khẩn nguyện. Đối với họ, cầu nguyện là điều vô cùng quan trọng và thiết yếu. Cầu nguyện chẳng khác nào hơi thở của họ.

Trong phòng cao hôm đó có Phi-e-rơ, Giăng, Gia-cơ, Anh-rê, Phi-líp, Thô-ma, Ba-thê-lê-my, Si-môn Xê-lốt, và Giu-đa con của Gia-cơ. Hết thảy những người đó bền lòng đồng một ý mà cầu nguyện với các phụ nữ và Ma-ri là mẹ Đức Chúa Giê-xu cùng anh em Ngài. Ngoại trừ Giu-đa Ích-ca-ri-ốt là kẻ phản Chúa, tất cả các môn đồ thân tín của Chúa đều có mặt trên phòng cao.

Có người nghĩ rằng vì sợ dòm ngó hoặc lùng bắt nên các môn đồ đã lên phòng cao. Thật ra, sự can đảm trong lòng các môn đồ mạnh hơn sự sợ hãi. Sự bình an của họ lớn hơn nỗi âu lo. Hơn nữa, các môn đồ vừa thấy Chúa yêu dấu của họ được cất lên trời. Tự nhiên họ muốn gần gũi với Chúa. Vừa được biệt riêng, lại vừa được gần Chúa hơn một chút dù sao vẫn thích hợp hơn, tốt hơn bất cứ nơi nào khác. Làm môn đồ của Chúa thì phải nhớ làm chứng tốt cho Chúa. Dù gần hay xa, ai nấy trong chúng ta đều phải nhớ tìm dịp tiện làm chứng cho Chúa mỗi ngày. Hội Thánh phát triển mạnh là Hội Thánh trung tín trong việc chứng đạo. Môn đồ hữu dụng của Chúa là môn đồ siêng năng trong việc chứng đạo.

Khi chứng đạo cá nhân, hoặc khi truyền giáo, chúng ta cần được Đức Thánh Linh hướng dẫn, ban cho sự khôn ngoan. Bổn phận của mỗi chúng ta là phải tin cậy Chúa, vâng phục Chúa và gần gũi với Chúa luôn luôn. Khi chúng ta đồng lòng, hiệp ý với nhau, thế nhân dễ thấy rõ chúng ta là con cái Đức Chúa Trời và bởi đó họ dễ tin Chúa hơn.

HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC

Tự làm mặt nạ không cần tốn nhiều tiền.

Dưa leo xắt miếng: Khi ăn dưa leo dư lại một khúc, xắt miếng mỏng dán lên mặt, đó là mặt nạ dưỡng trắng da rất tốt. Dưa leo để tủ lạnh, hiệu quả càng tốt.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 28.6.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 28.6.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 28.06.2015

(Kỷ Niệm 104 Năm Tin Lành Đến Việt Nam).

1. Đề tài: TỪ TỐI QUA SÁNG.

2. Kinh Thánh: Giăng 1:5; 4:22-24; 5:24.

3. Câu gốc: “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài” (Giăng 1:12).

4. Đố Kinh Thánh: Châm 4-6.

5. Thể loại: Thuyết trình.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn thuyết trình.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Tin Lành được truyền đến Việt Nam đã 103 năm qua. Ban đầu, từ một nhóm người ít ỏi, bé nhỏ, Hội Thánh đã tiến nhanh đến chỗ có thể kết hợp được một tập thể rộng rãi, đông đảo như ngày nay. Một câu hỏi cho người quan tâm là: Các tôi con Chúa trong giai đoạn đầu đã hoạt động như thế nào để Hội Thánh được phát triển và trưởng thành? Để biết được điều này chúng ta phải quay về với quá khứ qua tập hồi ký “Bốn mươi sáu năm chức vụ”, của cụ cố Mục sư Lê Văn Thái để biết rõ và dâng lời tạ ơn Đức Chúa Trời về những điều kỳ diệu Ngài làm cho Hội Thánh tại Việt Nam.

Vì thì giờ có hạn, xin được giới thiệu chương đầu tiên của sách:

TỪ TỐI QUA SÁNG.

Tin Lành đã được truyền giảng tại Đà Nẵng từ năm 1911. Nhưng lúc bấy giờ mọi người trong gia đình chúng tôi đều ở trong sự tối tăm đúng như Lời Kinh Thánh đã chép: “Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hề nhận lấy sự sáng” (Giăng 1:5).

I. GIAI ĐOẠN CHỐNG ĐỐI CƠ ĐỐC GIÁO.

…Xin nói rõ là gia đình chúng tôi lúc bấy giờ theo thuyết thờ ông bà, một hình thức tôn giáo mang tính chất thuần túy Đông Phương. Tôi nhận thấy mình có nhiệm vụ bảo vệ những truyền thống tinh thần của dân tộc, nên mỗi khi nghe người rao giảng đạo Gia-tô, phân phát sách báo Gia-tô hoặc gặp phải những người theo đạo Gia-tô, tôi liền chống trả mãnh liệt. Tôi đã áp dụng mọi phương tiện để đối phó ngay cả việc ném đá vào đầu các giáo sĩ tôi cũng không từ nan.

Chẳng những thế thôi, ròng rã mấy năm, tôi vẫn cứ theo tranh luận với các giáo sĩ và phá tán những người rao truyền Tin Lành…

Nhưng lạ lùng thay, ân điển và lòng yêu thương vô lượng của Chúa đã chuẩn bị cứu tôi. Khởi điểm khiến tôi đi sâu vào việc nghiên cứu chân lý Tin Lành và tìm được ơn cứu rỗi, là do vấn đề đã được một ông truyền đạo nêu lên: “Tin đạo Tin Lành bỏ ông bỏ bà, hay không theo đạo Tin Lành bỏ ông bà?” Vấn đề có vẻ thích thú. Tôi bắt đầu suy nghĩ, cố tìm những luận cứ vững chắc, sắc bén ngõ hầu có thể bẻ gãy dễ dàng những lý lẽ của “đối phương”. Tôi tin chắc tôi sẽ thắng.

Một đêm kia, tại tòa giảng Hải Châu ông truyền đạo nầy lại tuyên bố cách quả quyết: “Ai không theo Tin Lành, không tin nhận Đức Chúa Giê-xu, không thờ Đức Chúa Trời là bỏ ông bà”. Để chứng minh, ông đọc luôn một câu chữ Hán: “Mộc hữu bổn, thủy hữu nguyên, nhân sanh hồ tổ”. Rồi ông lớn tiếng giải thích: “Cây có cội, nước có nguồn, người có tông có tổ”. Cây không cội, nước không nguồn, người không tông tổ thì sao gọi là có ông bà được? Đức Chúa Trời dựng nên loài người, nhưng người không thờ phượng Ngài. Kinh Thánh chép rằng: “Đức Chúa Trời dựng nên loài người… Ngài dựng nên người nam cùng người nữ” (Sáng 1:27). Không tin nhận Đức Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời và không tin theo Tin Lành của Ngài thì khác nào cây mất cội, nước mất nguồn, người mất ông bà! Ông cứ theo cái đà ấy mà giải thích thao thao bất tuyệt. Rồi ông lại đặt câu hỏi: “Quý vị biết mình thờ ông bà mấy đời không?” Chúng tôi chưa kịp phản ứng thì ông lại bắt sang vấn đề phổ hệ thờ ông bà, cách biên mục lục trên bài vị đặt ở bàn thờ để thờ Ngũ – Đại – Mai – Thần – Chủ, tức là ông Cao, Tằng, Tổ, Khảo, Hiển. Ông giải thích: Khi có một người trong tộc qua đời, muốn giữ cho đúng câu Ngũ Đại Mai Thần Chủ phải sửa lại bài vị, tức nhiên là phải xóa tên ông Cao, đem tên ông Tằng đặt vào chỗ ông Cao, đem tên ông Tổ đặt vào chỗ ông Tằng, đem tên ông Khảo vào chỗ ông Tổ, đem tên ông Hiển vào chỗ ông Khảo và biên tên ông mới qua đời đặt vào chỗ ông Hiển. Như vậy là bỏ ông bà chớ không phải thờ ông bà. Nhìn vào thính giả ông tiếp tục đặt một câu hỏi khác: “Như vậy, muốn thờ ông bà phải làm sao?” Rồi ông lại giải thích: “Muốn thờ ông bà cho thật đúng nghĩa phải giữ nguồn, tìm gốc, tưởng nhớ và tôn kính Đấng sinh thành mình mãi mãi. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa dựng nên loài người, nên hễ ai tìm kiếm Ngài tức là tìm nguồn, tìm gốc, tưởng nhớ và tôn kính Đấng sinh thành mình mãi mãi. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hoá dựng nên loài người, nên hễ ai tìm kiếm Ngài tức là tìm nguồn, giữ gốc, là thờ Tông, thờ Tổ vậy”.

Ngồi trong nhà nghe giảng những lời nầy, đầu tôi nóng bừng lên. Tâm can tôi sục sôi như lửa bốc, vì mọi người trong gia đình tôi đều theo thuyết thờ ông bà rất mực cung kính. Không ai có quyền xúc phạm đến một hình thức thờ phượng đã ăn sâu vào lòng dân tộc, phỉ báng đạo giáo của tổ tiên là một điều sỉ nhục không thể tha thứ được. Sự căm tức của tôi càng lúc càng lên cao. Tôi muốn đứng lên tranh luận với ông truyền đạo nầy, nhưng tôi ngần ngại không biết ông trưng dẫn có đúng hay không. Nếu đúng thì sao? Tôi tự nhủ không cần phải gấp, đợi giảng xong về hỏi lại ông thân tôi xem gia đình chúng tôi thờ ông bà được mấy đời, rồi sẽ “chỉnh” ông ta sau.

Về đến nhà, ông thân tôi đã đi ngủ. Nhưng không thể đợi đến sáng hôm sau được, tôi bèn đánh thức ông cụ dậy và hỏi ngay: “Thưa thầy, gia đình chúng ta thờ ông bà được mấy đời?” Ông thân tôi vừa lấy làm lạ vừa khó chịu hỏi lại: “Mầy làm cái gì mà gấp quá vậy?” Tôi bèn thuật lại cho ông cụ nghe tất cả những điều ông truyền đạo đã giảng giải về sự thờ cúng tổ tiên. Cụ bảo: “Tao không nhớ phổ hệ gia đình ta ghi chép phải thờ ông bà mấy đời. Chờ ít lâu nữa sẽ có ngày Giỗ Tổ tại Huế, về xem mới biết được”.

…Sau khi ông thân tôi đi dự ngày Giỗ Tổ ở Huế về, có đem theo bản Sao Lục Phổ Hệ tộc Lê Văn của chúng tôi… Sau khi nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy điều ông truyền đạo nói về việc biên bài vị đặt trên bàn thờ, về Ngũ Đại Mai Thần Chủ là đúng, nhưng đối với bản gia phả của đại gia đình chúng tôi thì là sai. Gia phả tộc Lê Văn chúng tôi ghi mười đời chứ không phải năm đời như ông truyền đạo đã nói.

Thế là chúng tôi tin chắc mình có những lý lẽ vững chắc để đánh đổ ông truyền đạo. Tôi liền sửa soạn những câu hỏi “hóc búa” và đi ngay đến nhà giảng. Khi gặp ông truyền đạo tôi liền vào đề ngay: “Thưa ông, ông nói theo đạo Tin Lành, nhận Đức Chúa Giê-xu và thờ Đức Chúa Trời là có nguồn gốc, có căn nguyên là tìm được Tông, được Tổ, tại sao không thấy người Tin Lành đặt bàn thờ để thờ phượng? Ông truyền đạo liền giở quyển sách đang cầm trên tay ra, và đọc cho tôi nghe một câu như thế nầy: “Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết… Khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm  thần và lẽ thật mà thờ phượng… Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ phượng Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy” (Giăng 4:22-24). Ông nhắc lại những điểm quan trọng, nào là “các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết”, nào là “phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy”. Rồi ông vặn lại tôi: “Vấn đề là không phải đặt ra bàn thờ và bày lễ vật cúng tế, mà là hiểu biết, tôn kính, vâng giữ lời giáo huấn. Thờ phượng thật là lấy tâm thần lẽ thật mà thờ, tôn kính và làm theo lời răn dạy của đấng mình thờ, thầy có thờ như vậy hay không?” Tôi không trả lời nhưng lại hỏi một câu hỏi khác: “Ông nói Đức Chúa Trời dựng nên vạn vật, dựng nên loài người, như vậy thì ai dựng nên Đức Chúa Trời?” Ông truyền đạo lại giở và đọc một câu khác trong quyển sách đang còn cầm nơi tay: “Đức Chúa Trời phán rằng: Ta là Đấng Tự Hữu, Hằng Hữu” (Xuất 3:14). Để tôi có thể hiểu rõ hơn, ông giải thích: “Tự hữu, hằng hữu nghĩa là Ngài tự nhiên mà có, có từ trước vô cùng và nhất là còn đến đời đời vô cùng. Bởi đó, Ngài là Chủ tể của trời đất, muôn vật. Ngài dựng nên trời đất muôn vật, nhưng không ai dựng nên Ngài cả, vì như tôi đã nói (lời ông truyền đạo) sự hiện hữu của Ngài ở ngoài thời gian”.

Tôi lại đặt câu hỏi thứ ba: “Ông bảo là thờ ông bà theo mục lục của bài vị thì chỉ có năm đời thôi, nhưng sự thật gia phả của tộc tôi ghi tới mười đời kia mà?” Sau câu hỏi nầy tôi đinh ninh ông truyền đạo sẽ bí lối và không thể nào trả lời được. Tôi tin chắc thể nào tôi cũng thắng. Nhưng ông truyền đạo tươi cười và hỏi lại tôi một câu: “Được rồi, gia đình thầy thờ mười đời vậy thì cái ông thứ mười một ở đâu?” Tôi không trả lời được. Tôi không ngờ ông truyền đạo đã đưa tôi vào cái thế “kẹt” như vậy. Phải, còn ông thứ mười một ở đâu? Tôi bàng hoàng cả người đành phải im lặng ra về…

Từ đó, tôi cứ băn khoăn mãi… Tâm hồn tôi luôn luôn bị giày vò câu thúc đối với những vấn đề mà ông truyền đạo đã đặt ra. Đâu là sự thật, đâu là chân lý? Tôi bắt đầu suy nghĩ, cố gắng đi sâu vào giòng sinh hóa của vũ trụ và vạn vật. Nếu có ông tổ thứ mười thì phải có ông thứ mười một rồi đến cao hơn, đến dòng giống đến dân tộc và nhân loại. Như vậy phải có một Đấng dựng nên loài người, Đấng ấy chính là Đức Chúa Trời của đạo Gia-tô (Giê-xu). Khi đặt đến ý nghĩa Đức Chúa Trời là nguồn gốc của muôn loài vạn vật, linh hồn tôi như đang nhận được ánh sáng của chân lý cứu rỗi nhưng trong chính giờ phút ấy, bằng một tâm linh bàng hoàng xúc động, tôi nhận thấy quá khứ mình như trở lộn về với một bản ngã trần trụi đầy dẫy những ô uế xấu xa, giả dối, ôm ấp những dục vọng và tội lỗi thấp hèn. Làm thế nào có thể thờ phượng Đức Chúa Trời cho được? Tôi hết sức lo âu gần như hoảng hốt trong trạng thái tinh thần đau khổ và căng thẳng cùng tột ấy. Tôi tự hỏi: Phải làm sao để được hòa thuận cùng Đức Chúa Trời?

Ánh sáng của chân lý đã đến với tôi, sau những năm tháng dò dẫm trong bóng tối. Vào mùa xuân năm 1919, tại nhà giảng Hải Châu (Đà Nẵng), tôi đã quỳ gối tin nhận Đức Chúa Giê-xu là Cứu Chúa của đời mình, vì Ngài đã gánh vác tội lỗi tôi và chết trên thập tự giá vì cớ tôi.

Lúc ấy có giáo sĩ E.F. Irwin là người mấy năm trước đã bị tôi ném đá, chứng kiến.

II. NHỮNG BƯỚC CHẬP CHỮNG TRONG ÁNH SÁNG CỦA LỜI SỰ SỐNG.

Tôi thật sự trở nên một người mới trong Chúa. Gã thanh niên lúc trước ương ngạnh, thường hay làm ồn ào giữa đám đông, khuấy rối, cản trở bằng mọi cách không cho người khác vào nghe giảng hoặc cãi vả, la lối làm mất trật tự mỗi khi rao giảng xong – bây giờ trở nên sốt sắng đến dự các buổi giảng Tin Lành – thường ngồi ở hàng ghế thứ hai trong các buổi nhóm cầu nguyện hoặc thờ phượng. Gã thanh niên đó chính là tôi. Tay tôi không còn lăm le những viên đá nữa, nhưng chỉ có một quyển Tin Lành Giăng lúc nào cũng kề cận bên mình (vì lúc bấy giờ những sách khác chưa được phiên dịch sang tiếng Việt).

Từ ngày công khai tin nhận Chúa, tôi được người ta gán cho một cái tên mới: “Thầy Gia-tô”, “Anh Gia-tô”, có khi “Thằng Gia-tô”. Tại miền Trung, lúc bấy giờ người ta gọi các giáo sĩ giảng Tin lành là ông Gia-tô… người theo đạo Tin lành là người Gia-tô, bởi Giê-xu Christ được dịch sang Hán văn là Gia-tô Cơ Đốc…

Tại miền Bắc, trái lại người ta gọi đạo Tin Lành là Đạo Rối. Đi đến đâu cũng đều nghe dân chúng áp dụng một lối gọi như vậy. Nguyên nhân có lẽ do ác ý của một nhóm người bảo thủ, có thành kiến, muốn đánh lạc chân lý của Tin Lành, dùng hai chữ “Đạo Rối” để xuyên tạc gây một tiếng vang không tốt đối với đạo Chúa giữa các giới đồng bào chăng?

Khác với đồng bào miền Trung và miền Bắc, đồng bào miền Nam gọi đạo Tin Lành là “đạo Hoa Kỳ”. Không hiểu bởi lý do nào mà họ đã “Mỹ hóa” đạo Chúa như vậy, mặc dầu những tấm bảng treo trước phòng giảng đều được đề là Hội Thánh Tin Lành… Có lẽ họ thấy phần đông các giáo sĩ giảng Tin Lành đều là người Hoa Kỳ, nên đã gọi như vậy cũng nên.

Ngay từ buổi đầu, việc xưng hô danh hiệu của Tin Lành đã gặp nhiều khó khăn. Ba miền dùng ba từ ngữ khác nhau, mà mỗi từ ngữ đều mang tính chất khinh thường hoặc châm biếm, xuyên tạc sự thật. Những người có ác ý với giáo hội Tin Lành lợi dụng triệt để tình trạng bất lợi ấy để gieo rắc nghi ngờ, chia rẽ nhằm mục đích bất chính là ngăn trở công việc đầu tiên của Chúa ở Việt Nam. Nhưng Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã sắp đặt cách lạ lùng cho Hội Thánh Ngài, “Hội Thánh chỉ có một Thánh Linh”, Đức Chúa Trời tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy đều được ích chung” (1Côr 12:7; 2Côr 12:4).

1. Tạm Rời Gia Đình.

Bây giờ tôi xin trở lại những ngày đầu tiên tôi mới tin nhận Chúa. Thật, khi đức tin vừa chớm nở và niềm hy vọng đang lên, thì những sự bắt bớ cũng từ khắp các nơi tràn về nhằm ngăn trở và phá tan những mầm mống ấy.

Sự bắt bớ khởi đi từ những bạn bè của tôi lúc trước đã từng sống chung trong tính hư tật xấu, đến những người trong họ, ngoài làng. Tôi đi đâu cũng nghe người ta xầm xì to nhỏ: “…Thật tội nghiệp cho cái gia đình đó. Tội nghiệp cho ông cụ già có hai thằng con trai bất hiếu, chúng theo đạo hết, sau nầy ai cúng giỗ ông bà? Nhà vô phước!” Đó là đại khái những câu nói thường nhật nơi cửa miệng của những người trong thành phố hoặc trong xóm tôi ở.

…Bởi đó, ngoài việc gia tăng thì giờ cầu nguyện đặc biệt xin Chúa cứu ông thân tôi và gia đình… Tôi thiết tha xin Chúa giúp tôi tạm rời khỏi gia đình ít lâu. Trước là để tránh sự bắt bớ của bạn hữu, xóm làng, sau để khỏi phải nhìn nét mặt buồn phiền của ông thân tôi. Nhiều đêm nước mắt tôi hòa với mồ hôi trong những giờ cầu nguyện. Trước khi đi, tôi lặp đi lặp lại câu nầy với Chúa: “Xin Chúa giúp đỡ con, gìn giữ và dẫn dắt con trong lúc còn tuổi trẻ phải lìa gia đình để giữ vững đức tin”.

…Tôi xuống tàu thủy ở bến Đà Nẵng đi Huế. Mặc dầu ở Huế có nhiều bà con, nhưng tôi không đến nhà một người nào cả. Tôi cương quyết chỉ nhờ cậy sự giúp đỡ của Chúa và theo sự dẫn dắt của Ngài mà thôi. Lên khỏi tàu, trong khi rảo bước đi về hướng chợ Đông Ba, thì một người lạ đến bắt tay niềm nở mời tôi về nhà chơi. Vừa theo người ấy, tôi vừa suy nghĩ không biết ông ta là ai. Về đến nhà, nhờ sự giải thích của ông, tôi mới biết ông là một nhà thầu khoán. Ông có một người cháu đã làm việc với ông thân tôi nhiều năm nên rất quen biết tôi. Khi thầu được công trường… họ đã viết thư cho người vào Đà Nẵng gọi tôi. Khi gặp tôi tại Huế, họ tưởng là tôi đã nhận được thư rồi, nên đón tiếp rất niềm nở. Lúc bấy giờ tôi chỉ nói được một câu: “Cám ơn Chúa” vì tôi biết rằng: “Đức Giê-hô-va chỉ dẫn các bước của người” (Châm 16:9b).

…Chúa không chỉ giúp tôi giải quyết được những khó khăn của vấn đề tài chánh, nhưng Ngài còn cho tôi có cơ hội phát triển sung túc nữa là khác. Sau giờ làm việc, tôi vẫn cầu nguyện và xem đi xem lại quyển Tin Lành Giăng… Tâm linh tôi buồn bã trước những vui thú của đời nầy và luôn luôn cảm thấy cô quạnh giữa một xã hội náo nhiệt. Do đó, tôi quyết định rời bỏ công trường mà công việc làm ăn đang thịnh vượng để đi tìm một công trường khác – công trường thuộc linh.

Tôi sắp đặt công việc trao trả cho chủ thầu và trở lại quê nhà sau gần một năm xa cách. Chúa giúp đỡ tôi thi hành mọi sự đều được may mắn. Chúa nhìn thấy mọi ước vọng của lòng tôi… Chúa biết lòng tôi tha thiết muốn đưa nhiều người đến với Ngài. Chúa biết tôi nặng lòng với công trường thuộc linh hơn là công trường thế gian, nên khi tôi đi cũng như lúc tôi về Ngài đều giúp đỡ tôi luôn luôn được may mắn và dễ dàng.

2. Học Phước Am Yếu Chỉ.

Bước đầu trong cuộc hành trình theo Đức Chúa Giê-xu của tôi là trở lại học “Phước âm yếu chỉ” để chịu báp-tem… Tôi muốn được tha tội. Tôi ham thích sự ban cho của Đức Chúa Trời, bởi đó, hằng tuần tôi đều để thì giờ đi học giáo lý.

…Sau khi chịu báp-tem… có một việc xảy đến nhằm thử thách đức tin chúng tôi… Chúng tôi thường đi với các giáo sĩ để giúp đỡ sắp xếp buổi nhóm và làm chứng cho người chưa biết Chúa. Một tối nọ, vừa ra đến giữa sông thì giông tố nổi lên, nước tràn vào đò, mọi người đều sợ hãi. Trong đêm tối có những tiếng kêu la thất thanh. Phần đông những người đi chuyến đò nầy đều chưa tin Chúa. Chúng tôi khuyên ai ngồi chỗ nào cứ ngồi yên chỗ nấy. Riêng tín đồ thì cầu nguyện và hát thánh ca.

Khi chúng tôi đang hát, thì nghe tiếng của những người chèo đò la hoảng: “Chết rồi, đứt một quai chèo rồi!” Nhưng chúng tôi cứ hát cho đến khi đò tấp vào bờ, cách xa đến độ hơn trăm thước. Thuyền đầy ắp nước gần chìm. Mọi người chúng tôi đều ướt như chuột, nhưng tạ ơn Chúa gìn giữ, tất cả đều bình an. Sau đó có bốn người đi chung chuyến đò ấy đã trở lại tin nhận Chúa. Thật Chúa dùng cơn bão làm tăng thêm đức tin chúng tôi và làm sáng danh Ngài.

3. Một Người Tin Cả Nhà Được Cứu.

Tháng 5 năm 1924 có một Hội đồng nhóm tại Đà Nẵng, được mệnh danh là Hội đồng Phục hưng lần thứ nhất. Diễn giả chính là Mục sư Hoàng Nguyên Tố, người Trung Hoa…

Từ trước tới nay, ngoài sự khẩn thiết cầu xin Chúa cứu ông thân chúng tôi và gia đình, chúng tôi còn nhờ Hội Thánh và các ông bà đã tin Chúa tìm đủ cách để dẫn dắt gia đình chúng tôi trở lại với Chúa. Nhân lúc có Hội đồng… chúng tôi nhờ một người quen mời ông thân tôi đi nghe. Cám ơn Chúa, ông cụ nhận lời…

Sau giờ giảng, chúng tôi cùng ông cụ về nhà ăn cơm tối. Trong bữa ăn, chúng tôi cố tình nhắc lại bài giảng để dọ ý ông cụ thế nào? Ông cụ gật đầu tỏ ý thán phục: “Họ nói phải lắm”. Nghe câu ấy chúng tôi rất mừng rỡ nên hỏi lại: “Thưa, thầy đã nhận là họ nói phải lắm, vậy thầy tưởng có nên làm theo không?” Ông cụ suy nghĩ hồi lâu mới lên tiếng: “Làm theo cách nào?” Chúng tôi trình bày thêm để ông cụ được rõ là bất cứ ai hễ tin nhận Đức Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa thì tội lỗi được tha và linh hồn được cứu. Sau đó, chúng tôi cũng đọc cho ông cụ nghe lời Chúa phán: “Nếu các ngươi chẳng tin Ta là Đấng đó, thì chắc sẽ chết trong tội lỗi các ngươi” (Giăng 8:24). Ngài đã nói cách quả quyết cùng mọi người rằng: “Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, ai nghe lời Ta mà tin Đấng đã sai Ta, thì được sự sống đời đời, và không đến sự phán xét, song vượt khỏi sự chết mà đến sự sống” (Giăng 5:24). Đó là một sự kiện chắc chắn, vì “hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài” (Giăng 1:12).

Cụ lại hỏi: “Tin là làm sao?” Chúng tôi giải thích: Tin là lấy lòng thành kính quỳ gối xuống cầu nguyện, nhận mình là người có tội, và bằng lòng tiếp nhận Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa để tội ấy được tha và nhận lãnh sự yêu thương của Đức Chúa Trời. Cụ bằng lòng quỳ gối giữa nhà. Anh tôi là Mục sư Lê Hoàng Long và tôi cầu nguyện cho cụ tin nhận Chúa.

Sau khi cầu nguyện và hát ngợi khen, chúng tôi nhìn thấy nét mặt cụ rạng rỡ và đôi mắt sáng ngời. Cụ muốn nghe nói thêm về chuyện Kinh Thánh. Chúng tôi liền phân tích để ông cụ rõ về câu chuyện thế nào là thờ phượng thật và thế nào là không thật mà Chúa Giê-xu đã nói với người đàn bà Sa-ma-ri. Chúng tôi nhắc lại câu: “Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy”, để xin cụ cất bỏ bàn thờ trong nhà đi. Cụ tươi cười bảo: “Bay muốn làm gì thì làm”. Chúng tôi hết sức ngợi khen Chúa và bắt tay vào việc ngay. Tất cả những đồ thờ phượng bằng gỗ trên ba bàn thờ lớn giữa ba căn nhà đều được dọn ra ngoài sân. Nội trong đêm đó chúng tôi đập bể và đốt hết, đến hơn mười hai giờ khuya mới xong. Trở vào nhà chúng tôi sung sướng cầu nguyện tạ ơn Chúa. Đó là lần cầu nguyện đầu tiên trong gia đình không bị ngăn trở bởi bàn thờ. Ha-lê-lu-gia!

Đức tin của ông thân chúng tôi ngày càng thêm mạnh mẽ, dù gặp nhiều khó khăn thử thách, nhưng vẫn cứ kiên định cho đến khi về nước Chúa.

Tiếp theo đó bà kế mẫu của chúng tôi cũng đã tin nhận Chúa qua một cơn bạo bệnh. Sau khi đã uống nhiều thuốc của hai ông đông y, bà được đưa vào bệnh viện để được chữa bằng thuốc tây, nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Tất cả mọi người trong gia đình đều thất vọng. Trong khi đó thì chúng tôi âm thầm cầu xin Chúa cứu mẹ chúng tôi. Quả thật bởi ơn của Chúa, bà được chữa lành một cách lạ lùng. Do đó bà vui lòng tin nhận Chúa. Bởi phép lạ ấy, có mấy người trong họ ngoại chúng tôi thức tỉnh ăn năn. Các chị và các em chúng tôi cũng vậy, đều lần lượt trở lại với Chúa và dâng mình hầu việc Ngài, cho đến ngày nay vẫn còn đứng vững trong chức vụ cách đầy ơn. Thật đúng như Lời Chúa phán: “Một người tin cả nhà được cứu”.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Xi ra.

Xi đánh giày nhỡ bị khô, bạn có thể làm cho nó mềm lại bằng một trong các cách sau đây:

+ Cho sữa tươi nóng hay nước cốt chanh tươi vào.

+ Cho một ít dầu lửa hay dầu nhựa thông vào.

 

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 21.6.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 21.6.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 21.06.2015 (Lễ Phụ thân).

1. Đề tài: VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CHA.

2. Kinh Thánh: Sáng 21:8; Xuất 20:5; 21:22; 34:7; Giô 4:6,21,22; 29:6; Phục 6:4-9; 7:3; Ô-suê 11:3.

3. Câu gốc: “Các lời mà ta truyền cho ngươi ngày nay sẽ ở tại trong lòng ngươi; khá ân cần dạy dỗ điều đó cho con cái ngươi” (Phục 6:6-7a).

4. Đố Kinh Thánh: Châm 1-3.

5. Thể loại: Chia sẻ.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CHA.

Chúa nhật thứ ba tháng sáu hằng năm là ngày lễ Phụ thân. Lễ Phụ thân là ngày để con cái nghĩ đến công ơn của người cha hầu tri ân và sống xứng đáng với danh phận làm con. Đây cũng là ngày giúp cho người cha ý thức vai trò mình trong gia đình để sống yêu thương và chu toàn trách nhiệm đối với con cái.

Người Việt ta quan niệm:

Con có cha như nhà có nóc

Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.

Hoặc:

Còn cha gót đỏ như son

Mai sau cha chết gót con đen sì.

Và:

Bạc bảy đâu sánh vàng mười

Mồ côi đâu sánh cùng người có cha.

Đọc Kinh Thánh chúng ta sẽ thấy Lời Chúa viết về người cha nhiều hơn người mẹ. Điều này bày tỏ rằng người cha được Chúa ban địa vị thật cao trọng. Trở thành người cha chẳng những là một đặc ân cao quí Chúa cho, mà cũng là trách nhiệm lớn nhất của con người.

Nhân ngày lễ Phụ thân năm nay, chúng ta cùng tìm biết về “Vai trò của người cha trong Cựu Ước”.

1. Trách Nhiệm Đối Với Con Khi Chưa Sinh.

Trong Cựu Ước, người cha có trách nhiệm bảo vệ đứa con chưa chào đời của mình. Khi có một người gây thương tích cho một phụ nữ đang mang thai khiến sẩy thai, thì người gây thương tích phảibồi thường theo mức chồng phụ nữ nầy ấn định (Xuất 21:22).

2. Trách Nhiệm Sau Khi Con Ra Đời.

Theo luật lệ về sinh đẻ, người cha chịu trách nhiệm làm lễ cắt bì cho con trai vào ngày thứ tám (Lê-vi 12:3); phải phú dâng cho Đức Chúa Trời con trưởng nam của mình (Xuất 22:29). Khi con lớn lên, người cha sẽ tập cho con đi, cầm cánh tay mà dìu nó (Ô-sê 11:3). Lúc con đến ngày dứt sữa, người cha đặt tiệc ăn mừng (Sáng 21:8).

3. Trách Nhiệm Dạy Dỗ Con Cái.

Người cha có trách nhiệm dạy dỗ con cái. Người phải ân cần dạy dỗ cho con khi ở nhà, lúc ra ngoài, khi đi ngủ, lúc thức dậy (Phục 6:4-9). Người cha phải ghi tạc những mệnh lệnh Chúa vào lòng dạ, khắc vào thẻ bài đeo nơi tay và đeo trước trán. Rồi đem những mệnh lệnh nầy dạy cho con cái am tường (Phục 11:18-21). Người cha cũng dạy cho con về ý nghĩa các ngày lễ (Xuất 12:26-27; 13:8,14; Phục 6:20-25); và dạy cho chúng biết về lịch sử cuộc giải cứu và sự thành tín của Đức Chúa Trời đối với các bậc cha ông (Giô 4:6,21-22).

Sự dạy dỗ của người cha rất quan trọng, nên tác giả sách Châm Ngôn đã nhiều lần nhắc nhở các con cái phải nghe theo lời người cha khuyên dạy (Châm 1:8-9; 4:1; 6:20-22; 13:1; 15:5).

4. Trách Nhiệm Thực Thi Kỷ Luật.

Người cha có trách nhiệm giáo huấn và hướng dẫn con cái sống theo kỷ luật. Người phải “dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo; dầu khi nó trở về già cũng không hề lìa khỏi đó” (Châm 22:6). Đức Chúa Trời đã phạt Hê-li và không cho gia đình ông tiếp tục hành chức thầy tế lễ, vì ông đã biết “tính nết quái gở của các con trai mình, mà không cấm” (1Sa 3:13). Các con trai của Sa-mu-ên vì không được giáo huấn theo kỷ luật nên đã ăn hối lộ, bóp méo công lý và điều này làm cớ cho dân Y-sơ-ra-ên cầu xin một vua để cai trị họ (1Sa 8:1-5). Vua Đa-vít đã không dạy con khép mình vào kỷ luật, khiến gia đình phải chứng kiến cảnh con trai tự tôn làm vua (1Các 1:5-6).

Sách Châm Ngôn bày tỏ lẽ thật nầy: Người cha biết thương con thì không quên sửa trị con (3:11-12); ai kiêng roi vọt ghét con trai mình (13:24). Cổ nhân ta diễn giải lại: “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”.

Hơn nữa, dạy con lúc còn thơ ấu là không để chúng sa vào chốn diệt vong (19:18; 22:15; 23:13-14; 29:17).

5. Trách Nhiệm Sống Công Chính.

Người cha có trách nhiệm sống yêu kính Chúa, nếu không Ngài sẽ phạt luôn cả con cháu người ấy cho đến ba bốn thế hệ (đời) (Xuất 20:5; 34:7). Người cha bất kính sẽ khiến “con cái nó phải mồ côi, và vợ nó bị góa bụa” (Thi 109:9). Đa-vít đã sống bất kính nên “con trai đã sanh cho ngươi hẳn sẽ chết” (2Sa 12:14). Đây là số phận Đức Chúa Trời dành cho kẻ gian tà: “Dù họ có đông con cái, đứa chết vì gươm, đứa vì đói khát” (Gióp 27:14) KTHĐ.

Ngược lại, một người cha chân thật sẽ để lại cho “những con cháu người lấy làm có phước thay” (Châm 20:7). Gióp thường dâng tế lễ thiêu cho các con, vì người nói rằng: “Biết đâu con cái tôi phạm tội và âm thầm khước từ Đức Chúa Trời trong lòng” (Gióp 1:5).

Trách Nhiệm Cưới Vợ Gả Chồng Cho Con Cái.
Người cha trong thời Cựu Ước có trách nhiệm đối với hôn nhân của các con, người được Chúa ủy thác cưới vợ, gả chồng cho con cái (Giê 29:6). Tiêu chuẩn của việc dựng vợ gả chồng là không kết sui gia với người ngoại (Phục 7:3). Kinh Thánh thuật lại việc Áp-ra-ham sai người đầy tớ, đi cưới vợ cho con trai mình là Y-sác (Sáng 24:2-9).

Về sau, Y-sác căn dặn con trai mình là Gia-cốp và Ê-sau đừng cưới vợ người Ca-na-an và sự không vâng lời của Ê-sau đã làm cho cha không vừa lòng (Sáng 27:46-28:9). Khi Gia-cốp xuống cưới Ra-chên làm vợ, người cũng phải xin cha nàng chấp thuận (Sáng 29). Sam-sôn xuống Thim-na gặp một cô gái Phi-li-tin, trở về nhà ông cũng xin cha mẹ cưới cô ấy cho mình (Quan xét 14:1-2). Tuy nhiên Sam-sôn vì không nghe lời khuyên của cha mẹ nên đã bị thất bại trong hôn nhân.

Việc người cha được Chúa giao cho trách nhiệm cưới vợ, gả chồng cho con cái, cho nên dù bạn và “người ấy” đã gặp nhau “tình trong như đã mặt ngoài còn e” thì cũng chớ vội tiến tới hôn nhân.

Ta còn cần phải:

Em về em hỏi mẹ cha

Có cho em lấy chồng xa hay gần

Em về hỏi mẹ cùng thầy

Có cho anh cưới tháng nầy thì cho.

Qua bài học này, mong rằng các bạn thanh niên bước vào tuổi lập gia đình nhận biết vai trò, trách nhiệm của mình trước mặt Chúa để sống xứng đáng kết quả cho Chúa, cho gia đình, cho Hội Thánh.

Vì hôn nhân là việc quan trọng cả cuộc đời, người phối ngẫu (vợ, chồng) phải là người Chúa chọn, theo ý muốn Ngài chứ không theo ý muốn chúng ta, thì mới đem lại hạnh phúc.

Mục sư Tô Văn Ut (có sửa).

 

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

MẮC CỔ.

– Nuốt phải vật lạ trơn như nút áo, hột xí muội… đừng lo sợ. Hãy lấy một cục cơm (cơm cháy càng tốt), bóp chặt cho nuốt. Vật ấy sẽ trôi xuống bụng. Cần phải xem phân để tìm ra vật phải nuốt.

– Nuốt phải vật có ngạnh nhưng nhỏ như xương cá, xương heo vụn cũng có thể làm như trên.

– Nuốt phải vật nhỏ như kim tây, kim băng, phải đưa ngay đến bác sĩ để gắp ra. Tuyệt đối không cho đũa, muỗng vào cổ họng để tìm lấy ra, không cho uống thuốc xổ.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 14.6.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 14.6.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 14.06.2015.

1. Đề tài: SINH NHẬT QUÝ II.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 100.

3. Câu gốc: “Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách vui mừng, hãy hát xướng mà đến trước mặt Ngài” (Thi 100:2).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 148-150.

5. Thể loại: Ca ngợi – Cảm tạ.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

* TRÒ CHƠI DÀNH CHO NGƯỜI CÓ SINH NHẬT.

BÔNG HOA SINH NHẬT.

– Chuẩn bị: Cắt một số hoa bằng giấy màu và viết lời yêu cầu thật vui cuộn tròn lại dán vào nhụy hoa. Dùng băng keo hai mặt dán bông hoa lên bảng (hoa và người có ngày sinh trong quí phải tương đương).

– Cách chơi: NHD sẽ mời từng người có ngày sinh trong quí lên chọn và hái cho mình một bông hoa. Quan sát kỹ trong bông hoa sinh nhật có gì đặc biệt, xem và đọc lớn rồi thực hiện lời yêu cầu.

* TRÒ CHƠI TẬP THỂ.

VẬN CHUYỂN.

– Cách chơi: NHD chọn 5-10 người tùy theo sân chơi hẹp hay rộng. Vạch điểm xuất phát và đích cách nhau khoảng 15-20m. Tất cả người chơi đứng thành hàng ngang, cúi gập lưng, NHD đặt trên lưng mỗi người một cái nón hoặc một vật nào đó. NHD ra hiệu lệnh, những người chơi chạy về đích. Cố giữ sao cho đồ vật vẫn ở trên lưng (không dùng tay). Ai về đích trước không phạm luật là thắng cuộc.

* Chế biến: Có thể cho di chuyển về đích với đoạn đường ngắn hơn nhưng phải nhảy cò cò một chân.

ĐỒNG MỘT TÂM TÌNH.

– Cách chơi: Mỗi nhóm cử ra hai người hoặc toàn ban chia thành từng đôi một đứng thành hàng ngang. NHD dùng khăn quàng cột chặt chân phải người này với chân trái người kia từng đôi. Khi có lệnh từng đôi về đích. Đôi nào về đích trước là thắng cuộc.

– Lưu ý: Nên tổ chức chơi ở sân cỏ hoặc cát.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Vôi Vào Mắt.

Vôi bắn vào mắt rất nguy hiểm. Hãy hòa đường cát sạch với nước cho đặc, nhỏ vào mắt ngay, trước khi đưa đến bệnh viện.

 

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 07.6.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 07.6.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 07.06.2015.

1. Đề tài: MA-LA-CHI – NGƯỜI KÊU GỌI DÂN SỰ TRỞ LẠI CÙNG CHÚA (DÂNG 1/10).

2. Kinh Thánh: Ma-la-chi 3:1-18.

3. Câu gốc: “Các ngươi hãy đem hết thảy phần mười vào kho, hầu cho có lương thực trong nhà ta; và từ nay các ngươi khá lấy điều nầy mà thử ta, Đức Giê-hô-va vạn quân phán, xem ta có mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng!” (Ma-la-chi 3:10).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 142 – 147.

Thể loại: Học Kinh Thánh.
* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

1. Đọc Ma-la-chi 3:7-12 cho biết:

(1.1) Ma-la-chi kêu gọi dân sự Chúa làm điều gì?

(1.2) Tại sao họ phải trung tín dâng phần mười?

(1.3) Bạn và gia đình đã trung tín dâng phần mười chưa? Xin chia sẻ kinh nghiệm phước hạnh khi bạn trung tín dâng phần mười.

2. Đọc Ma-la-chi 3:16-18, cho biết:

(2.1) Người trở lại cùng Chúa được phước gì?

(2.2) Những phước nầy có giá trị gì đối với con dân Chúa?

(2.3) Những phước hạnh nầy khích lệ bạn thế nào trên bước đường đi theo Chúa?

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

I. GIỚI THIỆU.

Ma-la-chi là tiên tri sau cùng của thời Cựu ước. Tên Ma-la-chi có nghĩa “sứ giả của Ta”. Ông được Đức Chúa Trời kêu gọi để đem mạng lịnh của Ngài cho Y-sơ-ra-ên vào khoảng năm 435-400 T.C.

Với sự khuyến khích của tiên tri A-ghê và Xa-cha-ri, dân sự xây cất xong đền thờ Giê-ru-sa-lem. Nhưng sau đó họ bắt đầu ngã lòng, nghi ngờ tình yêu thương của Đức Chúa Trời, xao lãng việc thờ phượng Chúa và lìa bỏ luật pháp Ngài. Trong tình trạng sa sút nguội lạnh của dân sự nhất là sự giả hình của các nhà lãnh đạo tôn giáo, Ma-la-chi đem sứ điệp của Chúa cảnh cáo tội lỗi Y-sơ-ra-ên. Đồng thời Xa-cha-ri cũng loan báo ngày của Chúa sắp đến và kêu gọi sự ăn năn. Trong lời khuyên dân sự trở về cùng Đức Chúa Trời, điểm đặc biệt nhất của Ma-la-chi là thách thức dân Chúa trung tín trong sự dâng phần mười. Điều đó nhắc nhở Cơ đốc nhân chúng ta hôm nay thế nào trong đời sống tin kính Chúa?

II. DẪN GIẢI.

1. Sự Bội Nghịch Của Dân Y-sơ-ra-ên.

– Trong Ma-la-chi 1-3 mô tả sự bại hoại của dân Y-sơ-ra-ên trong hình ảnh của người con ngổ nghịch, mất sự tôn kính cha, như chúng ta nghe qua những lời đối đáp ngược ngạo bất kính của họ đối với Đức Chúa Trời:

(1) 1:2: Đức Chúa Trời phán: “Ta yêu các ngươi…”, nhưng họ trả lời rằng: “Chúa yêu chúng tôi ở đâu?”.

(2) 1:6: Đức Chúa Trời quở trách: “…Nếu ta là chủ, nào sự kính sợ ta ở đâu?” Họ trả lời: “Chúng tôi có khinh dể danh Ngài ở đâu?”.

(3) 1:7: Đức Chúa Trời quở trách: “Các ngươi dâng bánh ô uế trên bàn thờ ta…” nhưng họ trả lời: “Chúng tôi có làm ô uế Ngài ở đâu?” nhưng thật ra họ đã làm ô danh Ngài bởi sự lừa dối, khinh lờn đem những con sinh tế tàn tật, những con vật bị cướp dâng trên bàn thờ cho Chúa! Cho nên Ngài phán rằng: “Đáng rủa sả thay là kẻ hay lừa dối, trong bầy nó có con đực, mà nó hứa nguyện và dâng con tàn tật làm của lễ cho Chúa! Đức Giê-hô-va vạn quân phán: Vì ta là Vua lớn, danh ta là đáng sợ giữa các dân ngoại” (1:14). Trong khi đó dân Chúa lại khinh dể danh Ngài!

(4) Đức Chúa Trời quở trách họ làm phiền Ngài vì cớ đã nói những lời vô tín ấy là: “Ai làm điều dữ thì đẹp mắt Đức Giê-hô-va, và Ngài ưa thích những người như vậy; bằng chẳng vậy, thì nào Đức Chúa Trời của sự chánh trực ở đâu?” Nhưng họ trả lời: “Chúng tôi có làm phiền Ngài ở đâu?” (2:17).

(5) Đức Chúa Trời quở trách họ vì những lời nói nghịch cùng Ngài rằng: “Người ta hầu việc Đức Chúa Trời là vô ích; chúng ta giữ điều Ngài dạy phải giữ, và bước đi cách buồn rầu trước mặt Đức Giê-hô-va vạn quân, thì có lợi gì? Rày chúng ta kể kẻ kiêu ngạo là có phước, kẻ phạm sự hung ác là tấn tới: Họ đã thử Đức Chúa Trời, và đã được giải thoát!”. Nhưng họ trả lời: “Chúng tôi có nói gì nghịch cùng Ngài?” (3:13-15).

– Dân sự chẳng những chống nghịch Chúa, nhưng còn chối bỏ đường lối Ngài và sống cách buông lung theo tư dục. Họ làm điều gian dối, hoà mình với đời trong sự kết hôn với người ngoại đạo, và ly dị vợ là điều Đức Chúa Trời phán: “Ta ghét người nào bỏ vợ, và người nào lấy sự hung dữ che áo mình” (2:16). Cho nên tiên tri Ma-la-chi đem lời của Chúa quở trách tội lỗi dân sự, nhất là trách nặng người Lê-vi, là người được Chúa giao cho trách nhiệm dạy dỗ dân sự học biết luật pháp Ngài. Nhưng họ không làm tròn sứ mạng, trái lại chính họ lại xây bỏ đường lối Chúa và làm cho nhiều người vấp ngã trong luật pháp. Vì họ không kính sợ Chúa, nên Ngài phán: “Vậy nên ta cũng đã làm cho các ngươi ra khinh bỉ hèn hạ trước mặt cả dân…” (2:5-9). Trong sự bại hoại của dân Y-sơ-ra-ên chúng ta ghi nhận những điểm sau đây:

(1) Sự bội nghịch Chúa bắt đầu từ chỗ thiếu lòng kính sợ Chúa và nghi ngờ tình yêu thương của Ngài.

(2) Sự thiếu lòng kính sợ Chúa bắt đầu từ chỗ không học biết Chúa và Lời Ngài. Vì vậy sự dạy dỗ cho con cái luật pháp Chúa để chúng học tập kính sợ Đức Giê-hô-va là mạng lịnh của Đức Chúa Trời cho người làm cha mẹ, cũng như cho người hướng dẫn người khác (Phục 5:1; 6:4-9,13). Cho nên sự quở trách người Lê-vi trong sự bội đạo của Y-sơ-ra-ên là sự nhắc nhở chúng ta trách nhiệm quan trọng này.

2. Sự đoán xét của Chúa.

Đáp lại lời than phiền “nào Đức Chúa Trời của sự chánh trực ở đâu?” (2:17), Ma-la-chi rao báo cho dân sự đang bội nghịch Chúa về ngày đoán xét sắp đến. Trong 3:1-2, Ma-la-chi rao báo sự hiện đến của hai nhân vật:

(1) Sứ giả dọn đường: “Nầy, ta sai sứ giả ta, người sẽ dọn đường trước mặt ta” (3:1a). Đối chiếu với sự kiện đã xảy ra trong Tân ước, thì sứ giả dọn đường mà đấng tiên tri Ê-sai và Ma-la-chi loan báo đó chính là Giăng Báp-tít, là người “lấy tâm thần quyền phép của Ê-li mà” đến (Ê-sai 40:3-5; Mác 1:2-3; Lu-ca 1:16-17). Và Chúa Giê-xu cũng đã xác nhận Giăng là sứ giả phải đến (Mat 11:10-14).

(2) Đấng đoán xét là Chúa: “…và Chúa mà các ngươi tìm kiếm sẽ thình lình vào trong đền thờ Ngài, tức là thiên sứ của sự giao ước mà các ngươi trông mong” (3:1). Chúa còn có danh hiệu là thiên sứ của sự giao ước, đó chính là Đấng Christ, mà Giăng đã giới thiệu Ngài với dân Y-sơ-ra-ên (Mat 3:3,10-12; Giăng 1:26-29). Như vậy sự loan báo của Ma-la-chi về sự hiện đến của sứ giả và Chúa đã ứng nghiệm trong Giăng và Chúa Giê-xu. Ngài là Cứu Chúa cũng là Đấng đoán xét Y-sơ-ra-ên như sự bày tỏ trong 3:2-6: “Nhưng ai sẽ đương nổi ngày Ngài đến, và ai đứng được khi Ngài hiện ra? Vì Ngài giống như lửa của thợ luyện, như tro của thợ giặt. Ngài sẽ ngồi như kẻ luyện bạc và làm cho sạch; Ngài sẽ chùi các con trai Lê-vi, làm cho chúng nó sạch như vàng và bạc, chúng nó sẽ dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va trong sự công bình”. Trong sự hiện đến lần thứ nhất với ân điển, Chúa dùng nước của báp têm kêu gọi sự ăn năn và tin nhận Ngài để được tha tội, và dùng lửa của Thánh Linh để thánh hoá đời sống dân Chúa (Mat 3:7-11). Nhưng lần hiện đến thứ hai với sự đoán xét, Ngài sẽ chọn lọc kẻ thuộc về Ngài, như trong lời cảnh cáo của Giăng: “Ngài sẽ chứa lúa vào kho, còn rơm rạ thì đốt trong lửa chẳng hề tắt” (Mat 3:12).

3. Lời kêu gọi ăn năn.

Vì sự đoán xét lớn dường ấy, nên Ma-la-chi kêu gọi dân sự hãy trở lại cùng Đức Chúa Trời để không bị hư mất: “Vì Ta là Đức Giê-hô-va, Ta không hề thay đổi; bởi cớ đó, các ngươi là con trai Gia-cốp, chẳng bị diệt vong. Từ những ngày tổ phụ các ngươi, các ngươi đã xây bỏ luật lệ ta và không vâng giữ. Hãy trở lại cùng Ta, thì Ta sẽ trở lại cùng các ngươi” (3:6-7). Đức Chúa Trời thành tín với giao ước Ngài, nên dầu dân sự xây bỏ Chúa, nhưng nếu biết ăn năn xây bỏ điều ác, Ngài sẽ sẵn sàng tiếp nhận trở lại. Điểm bắt đầu của sự thật lòng trở lại là trả cho Chúa số phần mười mà từ lâu nay họ đã trộm của Ngài. Đối với người Y-sơ-ra-ên, sự dâng phần mười là một bổn phận bắt buộc theo quy định trong luật pháp Môi-se. Đây là mạng lịnh của Đức Chúa Trời truyền dạy Y-sơ-ra-ên phải dâng lại phần mười về số hoa lợi họ có trong xứ mà Ngài ban phước cho để dùng cho người Lê-vi là người thay mặt dân sự hầu việc Chúa trong đền thờ (Phục 14:22-29; 26:12). Cho nên người trốn tránh hay thiếu sót bổn phận này bị kể là kẻ ăn trộm Chúa, vì số phần mười đó thuộc về Ngài. Chúa phán: “Các ngươi nói rằng; chúng tôi ăn trộm Chúa ở đâu? Các ngươi đã ăn trộm trong các phần mười và trong các của dâng” (3:8). Đó là nguyên nhân khiến họ bị mất phước trước mặt Chúa. “Các ngươi bị rủa sả, vì các ngươi, thảy cả nước, đều ăn trộm Ta” (c.9).

Bởi cớ đó Ma-la-chi kêu gọi dân sự trở lại cùng Đức Chúa Trời trước hết với sự dâng phần mười. Bằng sự thách thức họ hãy thử Chúa xem Ngài có “mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng!” (c.10). Thật ra không phải Đức Chúa Trời ban phước vì của dâng, nhưng vì tấm lòng trung tín vâng theo mạng lịnh Ngài. Đức Chúa Trời luôn thành tín, nên người trung thành với Chúa chắc sẽ hưởng phước hạnh của lời Ngài hứa vậy. Có thể ngày nay một số người viện cớ không có sự bắt buộc dâng phần mười trong thời ân điển, để rồi bỏ qua sự dâng hiến hay xao lãng trong sự dâng hiến cho Chúa. Nhưng thật ra với sự tự nguyện dâng và với lòng biết ơn cứu rỗi của Chúa sự dâng hiến đó hẳn phải trội hơn cả phần mười nữa (2Côr 8:1-6; 9:7,15). Từ xưa nay đã có rất nhiều con cái Chúa được phước trong sự trung tín dâng phần mười. Có nhiều đời sống nêu gương sáng cho chúng ta như sự trung tín của ông Le Tourneau, người làm chủ nhiều cơ sở kỹ nghệ danh tiếng. Trước kia ông là người bán hàng tầm thường, nhưng không quên dâng cho Chúa phần mười. Về sau được trở thành người giàu có, ông không chỉ dâng một phần mười nhưng dâng cho đến chín phần mười lợi tức của mình. Ông John Wesley người sống trong thế kỷ 18, lúc thiếu thời làm việc năm đầu được 150 mỹ kim, ông dâng cho Chúa 10 mỹ kim. Qua năm sau lương ông tăng gấp đôi, nhưng vẫn tiêu dùng 140 mỹ kim và dâng Chúa 160 mỹ kim. Sang năm thứ ba ông lãnh 600 mỹ kim, nhưng vẫn cứ sống với 140 mỹ kim còn 460 mỹ kim ông dâng cho Chúa. Còn chúng ta thì sao?

4. Lời Hứa Ban Phước.

Trong sự sa sút, dân sự ngã lòng trước sự hưng thịnh của kẻ ác. Nhưng Ma-la-chi đã tỏ cho biết người kính sợ Chúa nhận được lời hứa nầy: “Bấy giờ những kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va nói cùng nhau, thì Đức Giê-hô-va để ý mà nghe; và một sách để ghi nhớ được chép trước mặt Ngài cho kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va và tưởng đến danh Ngài” (3:16). Lời nói của kẻ dấy nghịch Chúa chỉ là lời hư không và bị Chúa đoán phạt, nhưng lời nói của người công bình được Chúa ghi nhớ! Thật là phước hạnh biết bao! Thật là an ủi biết bao! Đôi lúc chúng ta bi quan tưởng như Chúa không nghe mình. Nhưng hãy nhớ Đức Chúa Trời đang lắng nghe từng lời nói, chú ý từng việc làm của người kính sợ Chúa và ghi nhận trong sách của Ngài. Trong 3:17-18, Ma-la-chi cho thấy sự khác biệt giữa người công bình và kẻ kiêu ngạo trong ngày cuối cùng: Kẻ ác bị Chúa xét đoán và bị hủy diệt. Trái lại người công bình được Chúa ban thưởng và nhận làm cơ nghiệp của Ngài. Vì thế, Ma-la-chi kêu gọi dân sự hãy trở lại cùng Đức Chúa Trời, sống trong sự kính sợ Chúa và trung thành hầu việc Ngài. Vì công việc của chúng ta trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu (1Côr 15:58).

5. Đời Sống Và Sứ Mạng.

Qua việc rao giảng các sứ điệp, chúng ta tìm thấy trong Ma-la-chi hai đức tính đáng nêu gương cho người hầu việc Chúa, đó là ngay thẳng và can đảm. Ông nhận lời Chúa như thế nào thì ban phát lại cho dân sự thể ấy. Với lòng ngay thẳng và can đảm chỉ thẳng tội của người lãnh đạo, của dân sự thảy đều là kẻ trộm tiền phần mười của Chúa! Đây không phải là điều dễ nói, nhưng ông không chút ngần ngại nói điều đáng phải nói!

Tóm lại ba điểm chính trong sứ mạng Ma-la-chi là: Cảnh cáo tội lỗi của Y-sơ-ra-ên, rao báo sự hiện đến của sứ giả dọn đường và sự hiện đến của Đấng Mê-si, kêu gọi dân sự trở lại cùng Đức Chúa Trời và trung thành hầu việc Ngài. Điểm nổi bật là thách thức dân sự dâng phần mười cho Chúa, đây cũng là sự thách thức cho chúng ta hôm nay. Qua các sứ điệp của Ma-la-chi nhắc nhở chúng ta kiểm điểm lại chính mình về tấm lòng kính sợ Chúa. Cũng khuyến khích anh em chúng ta trong đời sống tin kính Chúa và trung tín phục sự Ngài.

TỔNG KẾT.

Qua các bài học, chúng ta đã học khoảng bốn mươi danh nhân trong Kinh Thánh. Đó là những anh hùng đức tin của thời Cựu Ước. Họ là những người nam, người nữ sống trong những thời đại, những hoàn cảnh khác nhau. Hoặc giàu có như Gióp, hay đơn sơ nghèo nàn như A-mốt, hoặc có địa vị như Giô-sép, Môi-se, Đa-vít, Đa-ni-ên… họ đều là những người sống trong thế gian, nhưng dám phân rẽ với thế gian để sống theo tiếng gọi của Chúa. Như Nô-ê, không đồng hóa trong nếp sống bại hoại của loài người lúc bấy giờ, nhưng đã đồng đi cùng Đức Chúa Trời và vâng lịnh Ngài đóng tàu để cứu gia đình khỏi nước lụt. Như Áp-ra-ham vâng lời Chúa, lìa bỏ quê hương mình đến xứ Chúa hứa ban và trở nên nguồn phước cho muôn dân. Như Môi-se không sợ vua giận, nhất định từ bỏ danh hiệu là con công chúa Pha-ra-ôn, để theo phục sự Đức Giê-hô-va. Như Ê-xơ-tê sẵn sàng bỏ địa vị hoàng hậu và mạng sống của mình cho sứ mạng Chúa gọi giải nguy dân tộc mình. Đặc biệt với Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên, Đa-ni-ên, Ô-sê, Giô-ên, A-mốt, Áp-đia, Giô-na, Mi-chê, Na-hum, Ha-ba-cúc, Sô-phô-ni, A-ghê, Xa-cha-ri, Ma-la-chi là những người đã mang sứ điệp của Chúa cảnh cáo tội lỗi của dân sự, rao sự đoán xét của Chúa cho thế gian và loan báo về sự hiện đến của Đấng Cứu Thế Mê-si. Họ đã trung thành với sứ mạng cho dù bị bắt bớ, bị bỏ ngục tù, và bị đe dọa tánh mạng.

Những vị đó đã đi qua, nhưng để lại cho chúng ta những gương sáng chói về đời sống kính sợ, trung thành phục sự Chúa.

Hôm nay chúng ta có nghe tiếng Chúa gọi và mạnh dạn dấn thân bước theo những vị anh hùng đức tin ấy không?

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Lời rao báo về sự đoán xét của Chúa:

a. Xin đọc Ma-la-chi 1:2-3,6-7,13-14; 2:5-17; 3:5-8 và tìm hiểu tình trạng sa sút thuộc linh của dân Y-sơ-ra-ên đến mức độ nào?

b. Với sự bất kính của Y-sơ-ra-ên, Ma-la-chi cảnh cáo họ thế nào? (1:14).

c. Trong sự đoán xét dân Chúa, Ma-la-chi nói đến “sứ giả ta” và Chúa (3:1-4). Hai nhân vật này chỉ về ai? Và với sứ mạng nào? (Mat 3:10-12; 1:26-27; Công 2:36).

2. Lời kêu gọi ăn năn:

a. Trong 3:10, Ma-la-chi kêu gọi dân Chúa làm điều gì?

b. Tại sao dân Chúa phải trung tín trong sự dâng phần mười? (3:7-12).

3. Lời hứa ban phước:

a. Người trở lại cùng Chúa được phước gì? (3:16-18).

b. Từ 3:18-4:4: So sánh sự khác nhau giữa người công bình và người gian ác. Sự khác nhau này đem đến cho người kính sợ Chúa sự an ủi nào? (3:13-15).

4. Ma-la-chi với sứ mạng Chúa gọi:

a. Qua sự thi hành sứ mạng Chúa gọi, chúng ta tìm thấy trong Ma-la-chi có những đặt tính nào nêu gương cho người hầu việc Chúa?

b. Các sứ điệp của Ma-la-chi đem lại chúng ta sự cảnh tỉnh nào? Và khuyến khích chúng ta trong sứ mạng nào?

5. Xin ghi nhận những điểm quan trọng trong sứ điệp của Ma-la-chi.

6. Nhìn lại chính mình, xin cho biết:

a. Trong nếp sống đạo, bạn bày tỏ sự kính sợ Chúa như thế nào?

b. Bạn là người trung tín dâng hiến cho Chúa hay là kẻ ăn trộm của Ngài?

c. Đối với người sai lạc đường lối Chúa, bạn có can đảm cảnh cáo, kêu gọi họ trở về cùng Chúa không? Xin cho biết cách bạn làm?

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

CÁCH CHỌN TRÁI CÂY (tt).

– Măng cụt ngon không phải là trái to. Chọn trái có đường kính chừng 4-5cm. Quả nhỏ hơn là măng mọc ở cuối cành, không ngon. Cuống phải tươi, vỏ bóng vừa phải. Đó là trái chín cây. Trái có bụi phấn bám quanh vỏ là trái ngon, ít mủ.

– Chọn trái bơ chín có thể ăn ngay bằng cách lấy ngón tay ấn vào chỗ cuống. Nếu mềm thì đó là trái đã chín.