Chuyên mục: PHỤ NỮ

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 14.6.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 14.6.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 14.06.2015.

1. Đề tài: SINH NHẬT QUÝ II.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 100.

3. Câu gốc: “Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách vui mừng, hãy hát xướng mà đến trước mặt Ngài” (Thi 100:2).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 148-150.

5. Thể loại: Ca ngợi – Cảm tạ.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

* TRÒ CHƠI DÀNH CHO NGƯỜI CÓ SINH NHẬT.

BÔNG HOA SINH NHẬT.

– Chuẩn bị: Cắt một số hoa bằng giấy màu và viết lời yêu cầu thật vui cuộn tròn lại dán vào nhụy hoa. Dùng băng keo hai mặt dán bông hoa lên bảng (hoa và người có ngày sinh trong quí phải tương đương).

– Cách chơi: NHD sẽ mời từng người có ngày sinh trong quí lên chọn và hái cho mình một bông hoa. Quan sát kỹ trong bông hoa sinh nhật có gì đặc biệt, xem và đọc lớn rồi thực hiện lời yêu cầu.

* TRÒ CHƠI TẬP THỂ.

VẬN CHUYỂN.

– Cách chơi: NHD chọn 5-10 người tùy theo sân chơi hẹp hay rộng. Vạch điểm xuất phát và đích cách nhau khoảng 15-20m. Tất cả người chơi đứng thành hàng ngang, cúi gập lưng, NHD đặt trên lưng mỗi người một cái nón hoặc một vật nào đó. NHD ra hiệu lệnh, những người chơi chạy về đích. Cố giữ sao cho đồ vật vẫn ở trên lưng (không dùng tay). Ai về đích trước không phạm luật là thắng cuộc.

* Chế biến: Có thể cho di chuyển về đích với đoạn đường ngắn hơn nhưng phải nhảy cò cò một chân.

ĐỒNG MỘT TÂM TÌNH.

– Cách chơi: Mỗi nhóm cử ra hai người hoặc toàn ban chia thành từng đôi một đứng thành hàng ngang. NHD dùng khăn quàng cột chặt chân phải người này với chân trái người kia từng đôi. Khi có lệnh từng đôi về đích. Đôi nào về đích trước là thắng cuộc.

– Lưu ý: Nên tổ chức chơi ở sân cỏ hoặc cát.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Vôi Vào Mắt.

Vôi bắn vào mắt rất nguy hiểm. Hãy hòa đường cát sạch với nước cho đặc, nhỏ vào mắt ngay, trước khi đưa đến bệnh viện.

 

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 07.6.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 07.6.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 07.06.2015.

1. Đề tài: MA-LA-CHI – NGƯỜI KÊU GỌI DÂN SỰ TRỞ LẠI CÙNG CHÚA (DÂNG 1/10).

2. Kinh Thánh: Ma-la-chi 3:1-18.

3. Câu gốc: “Các ngươi hãy đem hết thảy phần mười vào kho, hầu cho có lương thực trong nhà ta; và từ nay các ngươi khá lấy điều nầy mà thử ta, Đức Giê-hô-va vạn quân phán, xem ta có mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng!” (Ma-la-chi 3:10).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 142 – 147.

Thể loại: Học Kinh Thánh.
* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

1. Đọc Ma-la-chi 3:7-12 cho biết:

(1.1) Ma-la-chi kêu gọi dân sự Chúa làm điều gì?

(1.2) Tại sao họ phải trung tín dâng phần mười?

(1.3) Bạn và gia đình đã trung tín dâng phần mười chưa? Xin chia sẻ kinh nghiệm phước hạnh khi bạn trung tín dâng phần mười.

2. Đọc Ma-la-chi 3:16-18, cho biết:

(2.1) Người trở lại cùng Chúa được phước gì?

(2.2) Những phước nầy có giá trị gì đối với con dân Chúa?

(2.3) Những phước hạnh nầy khích lệ bạn thế nào trên bước đường đi theo Chúa?

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

I. GIỚI THIỆU.

Ma-la-chi là tiên tri sau cùng của thời Cựu ước. Tên Ma-la-chi có nghĩa “sứ giả của Ta”. Ông được Đức Chúa Trời kêu gọi để đem mạng lịnh của Ngài cho Y-sơ-ra-ên vào khoảng năm 435-400 T.C.

Với sự khuyến khích của tiên tri A-ghê và Xa-cha-ri, dân sự xây cất xong đền thờ Giê-ru-sa-lem. Nhưng sau đó họ bắt đầu ngã lòng, nghi ngờ tình yêu thương của Đức Chúa Trời, xao lãng việc thờ phượng Chúa và lìa bỏ luật pháp Ngài. Trong tình trạng sa sút nguội lạnh của dân sự nhất là sự giả hình của các nhà lãnh đạo tôn giáo, Ma-la-chi đem sứ điệp của Chúa cảnh cáo tội lỗi Y-sơ-ra-ên. Đồng thời Xa-cha-ri cũng loan báo ngày của Chúa sắp đến và kêu gọi sự ăn năn. Trong lời khuyên dân sự trở về cùng Đức Chúa Trời, điểm đặc biệt nhất của Ma-la-chi là thách thức dân Chúa trung tín trong sự dâng phần mười. Điều đó nhắc nhở Cơ đốc nhân chúng ta hôm nay thế nào trong đời sống tin kính Chúa?

II. DẪN GIẢI.

1. Sự Bội Nghịch Của Dân Y-sơ-ra-ên.

– Trong Ma-la-chi 1-3 mô tả sự bại hoại của dân Y-sơ-ra-ên trong hình ảnh của người con ngổ nghịch, mất sự tôn kính cha, như chúng ta nghe qua những lời đối đáp ngược ngạo bất kính của họ đối với Đức Chúa Trời:

(1) 1:2: Đức Chúa Trời phán: “Ta yêu các ngươi…”, nhưng họ trả lời rằng: “Chúa yêu chúng tôi ở đâu?”.

(2) 1:6: Đức Chúa Trời quở trách: “…Nếu ta là chủ, nào sự kính sợ ta ở đâu?” Họ trả lời: “Chúng tôi có khinh dể danh Ngài ở đâu?”.

(3) 1:7: Đức Chúa Trời quở trách: “Các ngươi dâng bánh ô uế trên bàn thờ ta…” nhưng họ trả lời: “Chúng tôi có làm ô uế Ngài ở đâu?” nhưng thật ra họ đã làm ô danh Ngài bởi sự lừa dối, khinh lờn đem những con sinh tế tàn tật, những con vật bị cướp dâng trên bàn thờ cho Chúa! Cho nên Ngài phán rằng: “Đáng rủa sả thay là kẻ hay lừa dối, trong bầy nó có con đực, mà nó hứa nguyện và dâng con tàn tật làm của lễ cho Chúa! Đức Giê-hô-va vạn quân phán: Vì ta là Vua lớn, danh ta là đáng sợ giữa các dân ngoại” (1:14). Trong khi đó dân Chúa lại khinh dể danh Ngài!

(4) Đức Chúa Trời quở trách họ làm phiền Ngài vì cớ đã nói những lời vô tín ấy là: “Ai làm điều dữ thì đẹp mắt Đức Giê-hô-va, và Ngài ưa thích những người như vậy; bằng chẳng vậy, thì nào Đức Chúa Trời của sự chánh trực ở đâu?” Nhưng họ trả lời: “Chúng tôi có làm phiền Ngài ở đâu?” (2:17).

(5) Đức Chúa Trời quở trách họ vì những lời nói nghịch cùng Ngài rằng: “Người ta hầu việc Đức Chúa Trời là vô ích; chúng ta giữ điều Ngài dạy phải giữ, và bước đi cách buồn rầu trước mặt Đức Giê-hô-va vạn quân, thì có lợi gì? Rày chúng ta kể kẻ kiêu ngạo là có phước, kẻ phạm sự hung ác là tấn tới: Họ đã thử Đức Chúa Trời, và đã được giải thoát!”. Nhưng họ trả lời: “Chúng tôi có nói gì nghịch cùng Ngài?” (3:13-15).

– Dân sự chẳng những chống nghịch Chúa, nhưng còn chối bỏ đường lối Ngài và sống cách buông lung theo tư dục. Họ làm điều gian dối, hoà mình với đời trong sự kết hôn với người ngoại đạo, và ly dị vợ là điều Đức Chúa Trời phán: “Ta ghét người nào bỏ vợ, và người nào lấy sự hung dữ che áo mình” (2:16). Cho nên tiên tri Ma-la-chi đem lời của Chúa quở trách tội lỗi dân sự, nhất là trách nặng người Lê-vi, là người được Chúa giao cho trách nhiệm dạy dỗ dân sự học biết luật pháp Ngài. Nhưng họ không làm tròn sứ mạng, trái lại chính họ lại xây bỏ đường lối Chúa và làm cho nhiều người vấp ngã trong luật pháp. Vì họ không kính sợ Chúa, nên Ngài phán: “Vậy nên ta cũng đã làm cho các ngươi ra khinh bỉ hèn hạ trước mặt cả dân…” (2:5-9). Trong sự bại hoại của dân Y-sơ-ra-ên chúng ta ghi nhận những điểm sau đây:

(1) Sự bội nghịch Chúa bắt đầu từ chỗ thiếu lòng kính sợ Chúa và nghi ngờ tình yêu thương của Ngài.

(2) Sự thiếu lòng kính sợ Chúa bắt đầu từ chỗ không học biết Chúa và Lời Ngài. Vì vậy sự dạy dỗ cho con cái luật pháp Chúa để chúng học tập kính sợ Đức Giê-hô-va là mạng lịnh của Đức Chúa Trời cho người làm cha mẹ, cũng như cho người hướng dẫn người khác (Phục 5:1; 6:4-9,13). Cho nên sự quở trách người Lê-vi trong sự bội đạo của Y-sơ-ra-ên là sự nhắc nhở chúng ta trách nhiệm quan trọng này.

2. Sự đoán xét của Chúa.

Đáp lại lời than phiền “nào Đức Chúa Trời của sự chánh trực ở đâu?” (2:17), Ma-la-chi rao báo cho dân sự đang bội nghịch Chúa về ngày đoán xét sắp đến. Trong 3:1-2, Ma-la-chi rao báo sự hiện đến của hai nhân vật:

(1) Sứ giả dọn đường: “Nầy, ta sai sứ giả ta, người sẽ dọn đường trước mặt ta” (3:1a). Đối chiếu với sự kiện đã xảy ra trong Tân ước, thì sứ giả dọn đường mà đấng tiên tri Ê-sai và Ma-la-chi loan báo đó chính là Giăng Báp-tít, là người “lấy tâm thần quyền phép của Ê-li mà” đến (Ê-sai 40:3-5; Mác 1:2-3; Lu-ca 1:16-17). Và Chúa Giê-xu cũng đã xác nhận Giăng là sứ giả phải đến (Mat 11:10-14).

(2) Đấng đoán xét là Chúa: “…và Chúa mà các ngươi tìm kiếm sẽ thình lình vào trong đền thờ Ngài, tức là thiên sứ của sự giao ước mà các ngươi trông mong” (3:1). Chúa còn có danh hiệu là thiên sứ của sự giao ước, đó chính là Đấng Christ, mà Giăng đã giới thiệu Ngài với dân Y-sơ-ra-ên (Mat 3:3,10-12; Giăng 1:26-29). Như vậy sự loan báo của Ma-la-chi về sự hiện đến của sứ giả và Chúa đã ứng nghiệm trong Giăng và Chúa Giê-xu. Ngài là Cứu Chúa cũng là Đấng đoán xét Y-sơ-ra-ên như sự bày tỏ trong 3:2-6: “Nhưng ai sẽ đương nổi ngày Ngài đến, và ai đứng được khi Ngài hiện ra? Vì Ngài giống như lửa của thợ luyện, như tro của thợ giặt. Ngài sẽ ngồi như kẻ luyện bạc và làm cho sạch; Ngài sẽ chùi các con trai Lê-vi, làm cho chúng nó sạch như vàng và bạc, chúng nó sẽ dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va trong sự công bình”. Trong sự hiện đến lần thứ nhất với ân điển, Chúa dùng nước của báp têm kêu gọi sự ăn năn và tin nhận Ngài để được tha tội, và dùng lửa của Thánh Linh để thánh hoá đời sống dân Chúa (Mat 3:7-11). Nhưng lần hiện đến thứ hai với sự đoán xét, Ngài sẽ chọn lọc kẻ thuộc về Ngài, như trong lời cảnh cáo của Giăng: “Ngài sẽ chứa lúa vào kho, còn rơm rạ thì đốt trong lửa chẳng hề tắt” (Mat 3:12).

3. Lời kêu gọi ăn năn.

Vì sự đoán xét lớn dường ấy, nên Ma-la-chi kêu gọi dân sự hãy trở lại cùng Đức Chúa Trời để không bị hư mất: “Vì Ta là Đức Giê-hô-va, Ta không hề thay đổi; bởi cớ đó, các ngươi là con trai Gia-cốp, chẳng bị diệt vong. Từ những ngày tổ phụ các ngươi, các ngươi đã xây bỏ luật lệ ta và không vâng giữ. Hãy trở lại cùng Ta, thì Ta sẽ trở lại cùng các ngươi” (3:6-7). Đức Chúa Trời thành tín với giao ước Ngài, nên dầu dân sự xây bỏ Chúa, nhưng nếu biết ăn năn xây bỏ điều ác, Ngài sẽ sẵn sàng tiếp nhận trở lại. Điểm bắt đầu của sự thật lòng trở lại là trả cho Chúa số phần mười mà từ lâu nay họ đã trộm của Ngài. Đối với người Y-sơ-ra-ên, sự dâng phần mười là một bổn phận bắt buộc theo quy định trong luật pháp Môi-se. Đây là mạng lịnh của Đức Chúa Trời truyền dạy Y-sơ-ra-ên phải dâng lại phần mười về số hoa lợi họ có trong xứ mà Ngài ban phước cho để dùng cho người Lê-vi là người thay mặt dân sự hầu việc Chúa trong đền thờ (Phục 14:22-29; 26:12). Cho nên người trốn tránh hay thiếu sót bổn phận này bị kể là kẻ ăn trộm Chúa, vì số phần mười đó thuộc về Ngài. Chúa phán: “Các ngươi nói rằng; chúng tôi ăn trộm Chúa ở đâu? Các ngươi đã ăn trộm trong các phần mười và trong các của dâng” (3:8). Đó là nguyên nhân khiến họ bị mất phước trước mặt Chúa. “Các ngươi bị rủa sả, vì các ngươi, thảy cả nước, đều ăn trộm Ta” (c.9).

Bởi cớ đó Ma-la-chi kêu gọi dân sự trở lại cùng Đức Chúa Trời trước hết với sự dâng phần mười. Bằng sự thách thức họ hãy thử Chúa xem Ngài có “mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng!” (c.10). Thật ra không phải Đức Chúa Trời ban phước vì của dâng, nhưng vì tấm lòng trung tín vâng theo mạng lịnh Ngài. Đức Chúa Trời luôn thành tín, nên người trung thành với Chúa chắc sẽ hưởng phước hạnh của lời Ngài hứa vậy. Có thể ngày nay một số người viện cớ không có sự bắt buộc dâng phần mười trong thời ân điển, để rồi bỏ qua sự dâng hiến hay xao lãng trong sự dâng hiến cho Chúa. Nhưng thật ra với sự tự nguyện dâng và với lòng biết ơn cứu rỗi của Chúa sự dâng hiến đó hẳn phải trội hơn cả phần mười nữa (2Côr 8:1-6; 9:7,15). Từ xưa nay đã có rất nhiều con cái Chúa được phước trong sự trung tín dâng phần mười. Có nhiều đời sống nêu gương sáng cho chúng ta như sự trung tín của ông Le Tourneau, người làm chủ nhiều cơ sở kỹ nghệ danh tiếng. Trước kia ông là người bán hàng tầm thường, nhưng không quên dâng cho Chúa phần mười. Về sau được trở thành người giàu có, ông không chỉ dâng một phần mười nhưng dâng cho đến chín phần mười lợi tức của mình. Ông John Wesley người sống trong thế kỷ 18, lúc thiếu thời làm việc năm đầu được 150 mỹ kim, ông dâng cho Chúa 10 mỹ kim. Qua năm sau lương ông tăng gấp đôi, nhưng vẫn tiêu dùng 140 mỹ kim và dâng Chúa 160 mỹ kim. Sang năm thứ ba ông lãnh 600 mỹ kim, nhưng vẫn cứ sống với 140 mỹ kim còn 460 mỹ kim ông dâng cho Chúa. Còn chúng ta thì sao?

4. Lời Hứa Ban Phước.

Trong sự sa sút, dân sự ngã lòng trước sự hưng thịnh của kẻ ác. Nhưng Ma-la-chi đã tỏ cho biết người kính sợ Chúa nhận được lời hứa nầy: “Bấy giờ những kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va nói cùng nhau, thì Đức Giê-hô-va để ý mà nghe; và một sách để ghi nhớ được chép trước mặt Ngài cho kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va và tưởng đến danh Ngài” (3:16). Lời nói của kẻ dấy nghịch Chúa chỉ là lời hư không và bị Chúa đoán phạt, nhưng lời nói của người công bình được Chúa ghi nhớ! Thật là phước hạnh biết bao! Thật là an ủi biết bao! Đôi lúc chúng ta bi quan tưởng như Chúa không nghe mình. Nhưng hãy nhớ Đức Chúa Trời đang lắng nghe từng lời nói, chú ý từng việc làm của người kính sợ Chúa và ghi nhận trong sách của Ngài. Trong 3:17-18, Ma-la-chi cho thấy sự khác biệt giữa người công bình và kẻ kiêu ngạo trong ngày cuối cùng: Kẻ ác bị Chúa xét đoán và bị hủy diệt. Trái lại người công bình được Chúa ban thưởng và nhận làm cơ nghiệp của Ngài. Vì thế, Ma-la-chi kêu gọi dân sự hãy trở lại cùng Đức Chúa Trời, sống trong sự kính sợ Chúa và trung thành hầu việc Ngài. Vì công việc của chúng ta trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu (1Côr 15:58).

5. Đời Sống Và Sứ Mạng.

Qua việc rao giảng các sứ điệp, chúng ta tìm thấy trong Ma-la-chi hai đức tính đáng nêu gương cho người hầu việc Chúa, đó là ngay thẳng và can đảm. Ông nhận lời Chúa như thế nào thì ban phát lại cho dân sự thể ấy. Với lòng ngay thẳng và can đảm chỉ thẳng tội của người lãnh đạo, của dân sự thảy đều là kẻ trộm tiền phần mười của Chúa! Đây không phải là điều dễ nói, nhưng ông không chút ngần ngại nói điều đáng phải nói!

Tóm lại ba điểm chính trong sứ mạng Ma-la-chi là: Cảnh cáo tội lỗi của Y-sơ-ra-ên, rao báo sự hiện đến của sứ giả dọn đường và sự hiện đến của Đấng Mê-si, kêu gọi dân sự trở lại cùng Đức Chúa Trời và trung thành hầu việc Ngài. Điểm nổi bật là thách thức dân sự dâng phần mười cho Chúa, đây cũng là sự thách thức cho chúng ta hôm nay. Qua các sứ điệp của Ma-la-chi nhắc nhở chúng ta kiểm điểm lại chính mình về tấm lòng kính sợ Chúa. Cũng khuyến khích anh em chúng ta trong đời sống tin kính Chúa và trung tín phục sự Ngài.

TỔNG KẾT.

Qua các bài học, chúng ta đã học khoảng bốn mươi danh nhân trong Kinh Thánh. Đó là những anh hùng đức tin của thời Cựu Ước. Họ là những người nam, người nữ sống trong những thời đại, những hoàn cảnh khác nhau. Hoặc giàu có như Gióp, hay đơn sơ nghèo nàn như A-mốt, hoặc có địa vị như Giô-sép, Môi-se, Đa-vít, Đa-ni-ên… họ đều là những người sống trong thế gian, nhưng dám phân rẽ với thế gian để sống theo tiếng gọi của Chúa. Như Nô-ê, không đồng hóa trong nếp sống bại hoại của loài người lúc bấy giờ, nhưng đã đồng đi cùng Đức Chúa Trời và vâng lịnh Ngài đóng tàu để cứu gia đình khỏi nước lụt. Như Áp-ra-ham vâng lời Chúa, lìa bỏ quê hương mình đến xứ Chúa hứa ban và trở nên nguồn phước cho muôn dân. Như Môi-se không sợ vua giận, nhất định từ bỏ danh hiệu là con công chúa Pha-ra-ôn, để theo phục sự Đức Giê-hô-va. Như Ê-xơ-tê sẵn sàng bỏ địa vị hoàng hậu và mạng sống của mình cho sứ mạng Chúa gọi giải nguy dân tộc mình. Đặc biệt với Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên, Đa-ni-ên, Ô-sê, Giô-ên, A-mốt, Áp-đia, Giô-na, Mi-chê, Na-hum, Ha-ba-cúc, Sô-phô-ni, A-ghê, Xa-cha-ri, Ma-la-chi là những người đã mang sứ điệp của Chúa cảnh cáo tội lỗi của dân sự, rao sự đoán xét của Chúa cho thế gian và loan báo về sự hiện đến của Đấng Cứu Thế Mê-si. Họ đã trung thành với sứ mạng cho dù bị bắt bớ, bị bỏ ngục tù, và bị đe dọa tánh mạng.

Những vị đó đã đi qua, nhưng để lại cho chúng ta những gương sáng chói về đời sống kính sợ, trung thành phục sự Chúa.

Hôm nay chúng ta có nghe tiếng Chúa gọi và mạnh dạn dấn thân bước theo những vị anh hùng đức tin ấy không?

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Lời rao báo về sự đoán xét của Chúa:

a. Xin đọc Ma-la-chi 1:2-3,6-7,13-14; 2:5-17; 3:5-8 và tìm hiểu tình trạng sa sút thuộc linh của dân Y-sơ-ra-ên đến mức độ nào?

b. Với sự bất kính của Y-sơ-ra-ên, Ma-la-chi cảnh cáo họ thế nào? (1:14).

c. Trong sự đoán xét dân Chúa, Ma-la-chi nói đến “sứ giả ta” và Chúa (3:1-4). Hai nhân vật này chỉ về ai? Và với sứ mạng nào? (Mat 3:10-12; 1:26-27; Công 2:36).

2. Lời kêu gọi ăn năn:

a. Trong 3:10, Ma-la-chi kêu gọi dân Chúa làm điều gì?

b. Tại sao dân Chúa phải trung tín trong sự dâng phần mười? (3:7-12).

3. Lời hứa ban phước:

a. Người trở lại cùng Chúa được phước gì? (3:16-18).

b. Từ 3:18-4:4: So sánh sự khác nhau giữa người công bình và người gian ác. Sự khác nhau này đem đến cho người kính sợ Chúa sự an ủi nào? (3:13-15).

4. Ma-la-chi với sứ mạng Chúa gọi:

a. Qua sự thi hành sứ mạng Chúa gọi, chúng ta tìm thấy trong Ma-la-chi có những đặt tính nào nêu gương cho người hầu việc Chúa?

b. Các sứ điệp của Ma-la-chi đem lại chúng ta sự cảnh tỉnh nào? Và khuyến khích chúng ta trong sứ mạng nào?

5. Xin ghi nhận những điểm quan trọng trong sứ điệp của Ma-la-chi.

6. Nhìn lại chính mình, xin cho biết:

a. Trong nếp sống đạo, bạn bày tỏ sự kính sợ Chúa như thế nào?

b. Bạn là người trung tín dâng hiến cho Chúa hay là kẻ ăn trộm của Ngài?

c. Đối với người sai lạc đường lối Chúa, bạn có can đảm cảnh cáo, kêu gọi họ trở về cùng Chúa không? Xin cho biết cách bạn làm?

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

CÁCH CHỌN TRÁI CÂY (tt).

– Măng cụt ngon không phải là trái to. Chọn trái có đường kính chừng 4-5cm. Quả nhỏ hơn là măng mọc ở cuối cành, không ngon. Cuống phải tươi, vỏ bóng vừa phải. Đó là trái chín cây. Trái có bụi phấn bám quanh vỏ là trái ngon, ít mủ.

– Chọn trái bơ chín có thể ăn ngay bằng cách lấy ngón tay ấn vào chỗ cuống. Nếu mềm thì đó là trái đã chín.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 31.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 31.5.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 31.05.2015.

1. Đề tài: XA-CHA-RI – NGƯỜI RAO BÁO VỀ SỰ TRỊ VÌ CỦA VUA VINH HIỂN.

Kinh Thánh: Xa-cha-ri 8-14.
3. Câu gốc: “Đức Giê-hô-va sẽ làm vua khắp đất; trong ngày đó, Đức Giê-hô-va sẽ là có một, và danh Ngài cũng sẽ là có một” (Xa-cha-ri 14:9).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 139 – 141.

5. Thể loại: Thuyết trình.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn thuyết trình.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

I. GIỚI THIỆU.

Xa-cha-ri là con trai của Ba-ra-chi, cháu Y-đô. Ông bắt đầu chức vụ tiên tri sau A-ghê hai tháng, để tiếp tục khuyến khích nhóm dân hồi hương ở Giê-ru-sa-lem hoàn tất việc xây lại đền thờ Chúa.

Tên Xa-cha-ri có nghĩa là “Chúa nhớ đến”. Sứ mạng Chúa gọi ông đúng với ý nghĩa tên của ông, chứng tỏ Chúa không bao giờ quên Y-sơ-ra-ên, tuyển dân của Ngài. Như tiên tri Ê-sai và Ê-xê-chi-ên, Xa-cha-ri có những dự ngôn rất rõ ràng về 2 lần hiện đến của Đấng Mê-si, với những sự hiện thấy đặc biệt có liên quan đến con người và công việc của Đấng Christ trong tương lai.

Điểm nổi bật trong các sứ điệp của Xa-cha-ri là rao báo sự vinh quang của Giê-ru-sa-lem trong thời trị vì của vị Vua trên muôn vua. Trong ngày phước hạnh ấy, Giê-ru-sa-lem sẽ đóng vai trò nào?

II. DẪN GIẢI.

1. Giê-ru-sa-lem, Thành Của Vua Lớn.

Giê-ru-sa-lem còn có tên gọi là “Sa-lem”, có nghĩa “bình an” (Sáng 14:18). Trước kia Giê-ru-sa-lem ở trong tay dân Giê-bu-sít, nhưng bị vua Đa-vít chinh phục và trở thành đế đô của vương quốc Y-sơ-ra-ên thống nhất (2Sa 5:6-9). Từ đó Giê-ru-sa-lem đã trải qua nhiều thăng trầm theo dòng lịch sử Y-sơ-ra-ên và thế giới. Giê-ru-sa-lem đã có lần nổi bật như vì sao sáng của các dân trong thời hoàng kim của Sa-lô-môn, vị vua khôn ngoan xuất chúng, nhưng rồi bị tàn phá bởi bàn tay tàn bạo của vua Nê-bu-cát-nết-sa, tiếp theo là sự phá huỷ của quân La Mã; rồi đến gót chân giày xéo của quân Hồi Giáo; kế đó các dân bản xứ thay nhau tranh giành trong khi dân Do Thái bị tản lạc khắp thế giới. Sau đệ nhị thế chiến, dân Do Thái bắt đầu được trở về lập quốc trên mảnh đất tổ tiên ngày xưa, mà phần lớn bị người Ả-rập chiếm cứ. Giê-ru-sa-lem ở trong tình trạng bị phân chia đông và tây Giê-ru-sa-lem, và đông Giê-ru-sa-lem nằm trong tay người Hồi Giáo. Trong cuộc chiến chớp nhoáng gọi là “6 ngày của tháng 6” năm 1967, dân Do Thái với quân số nhỏ bé nhưng đã đánh tan lực lượng khổng lồ của liên minh Ai-cập. Kết cuộc, biên giới Do Thái được mở rộng thêm một phần tư so với phần đất hiện có, tái chiếm và ở dưới quyền kiểm soát của chính quyền Y-sơ-ra-ên. Đến mùa hè năm 1980, quốc hội Do Thái đã bỏ phiếu dời thủ đô về Giê-ru-sa-lem, với lời tuyên bố của thủ tướng Begin như sau: “Giê-ru-sa-lem, thành của Đa-vít là thủ đô muôn đời của dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, và sẽ mãi mãi bất phân chia cho tất cả mọi thế hệ trong tương lai”. Mặc dầu đã có dự án tái thiết đền thờ Giê-ru-sa-lem, nhưng hiện nay đền thờ Hồi Giáo vẫn còn tọa lạc trên phần nền cũ của đền thờ Giê-ru-sa-lem vang bóng một thời mà vua Sa-lô-môn xây cất. Đây là một chướng ngại vật chẳng khác nào như cái gai trước mắt người Do Thái! Mặc dầu theo luật, người Do Thái phải tôn trọng tín ngưỡng của mọi tôn giáo và các nơi thánh, nhưng sự tranh chấp chủ quyền phần đất Giê-ru-sa-lem giữa người Do Thái và Hồi Giáo vẫn là vấn đề nóng bỏng và cứ âm ỷ cháy cho đến một ngày nào đó lời tiên tri trong Kinh Thánh được ứng nghiệm hoàn toàn cho thành phố lịch sử đặc thùnày. Trong lịch sử loài người, không có thành phố nào trải qua nhiều biến cố, tai ương như Giê-ru-sa-lem. Không có thành nào nhận được lời hứa phước hạnh và hoà bình trong tương lai như Giê-ru-sa-lem muôn thuở! Không có thành nào được vinh hạnh của lời hứa trở nên ngôi trị vì Vua trên muôn vua. Cũng như không có thành nào được gọi là “thành yêu dấu của Chúa” như Giê-ru-sa-lem! Ngay từ buổi ban đầu, Giê-ru-sa-lem là nơi ngự trị của Mên-chi-xê-đéc, vị vua hoà bình của Sa-lem. Và trong ngày sau cùng của thế giới, Đấng Christ, con vua Đa-vít cũng được gọi là Mên-chi-xê-đéc sẽ làm vua Giê-ru-sa-lem, đem hòa bình cho các dân trên đất.

Như lời tiên tri Xa-cha-ri đã rao báo, Giê-ru-sa-lem hay là Si-ôn, tên một ngọn đồi phía đông nam Giê-ru-sa-lem sẽ được xây lại. Thành này sẽ được gọi là thành chân thật, là núi thánh của Đức Giê-hô-va, để làm nơi ngự trị cho vị Vua Lớn sắp đến (Xa-cha 8:1-3). Trong sự trị vì của Đấng Mê-si, Giê-ru-sa-lem chẳng những là thủ đô của quốc gia Y-sơ-ra-ên phục hồi, nhưng còn là thủ đô của thế giới. Phước hạnh sẽ ra từ Giê-ru-sa-lem, các dân tộc, các thứ tiếng khắp nơi sẽ đổ về Giê-ru-sa-lem để tìm kiếm Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên và ơn thương xót của Ngài: “…có nhiều dân và nhiều nước mạnh sẽ đến tìm kiếm Đức Giê-hô-va vạn quân tại Giê-ru-sa-lem, và ở đó nài xin ơn Đức Giê-hô-va” (Xa-cha 8:22). Trong thời vua Sa-lô-môn, có nhiều nước chạy đến nghe sự khôn ngoan của vua. Nhưng trong tương lai, Giê-ru-sa-lem sẽ có Đấng tôn trọng hơn vua Sa-lô-môn (Mat 12:42). Ngài sẽ ngồi trên ngôi Đa-vít, sẽ dẫn Y-sơ-ra-ên vào tuyệt điểm của vinh quang hơn cả thời hoàng kim xa xưa của vua Sa-lô-môn. Ngài sẽ khiến mọi dân tộc trên thế giới đến Giê-ru-sa-lem để biết luật pháp và sự công nghĩa của Đức Giê-hô-va (Xa 8:23; 14:8).

2. Đấng Trị Vì Giê-ru-sa-lem.

Sự kiện Chúa Giê-xu cỡi lừa (dấu hiệu của vua hoà bình) vào thành Giê-ru-sa-lem là điều ứng nghiệm lời tiên tri của Xa-cha-ri đã loan báo: “Hãy nói với con gái thành Si-ôn rằng: Nầy, Vua ngươi đến cùng ngươi, nhu mì, cỡi lừa và lừa con là con của lừa cái mang ách” (Xa 9:9; Mat 21:1-5). Như vậy, danh hiệu Đức Giê-hô-va là Vua Công Bình nhu mì cỡi lừa được mô tả trong Xa-cha-ri 9:9; 14:9 chỉ về Đấng Mê-si, tức là Chúa Cứu Thế Giê-xu. Ngài đã vào thành Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất để chịu giết làm nên sự cứu rỗi cho loài người. Ngài cũng sẽ cỡi lừa vào thành Giê-ru-sa-lem lần thứ hai để làm Vua trên muôn vua. Trong sự trị vì của Đấng Christ, Ngài sẽ giải cứu Y-sơ-ra-ên, đoán xét các nước nghịch cùng dân Chúa, dạy cho mọi người biết sự công nghĩa, chánh trực của Đức Giê-hô-va, và đem lại sự hoà bình cho khắp đất (Xa 2:10-12; 14:9-12; Mi 4:2-3).

Trong Xa-cha-ri 8:4-19; Xa-cha-ri cho chúng ta nhìn thấy viễn cảnh vô cùng phước hạnh của Giê-ru-sa-lem trong thời trị vì của Vua Hoà Bình, một quang cảnh thanh bình tràn đầy phước lạc, với dân cư đông đúc và trường thọ, với những ông bà cụ già cầm gậy thong thả đi trong các đường phố, với sự trở về vui mừng của người dân xa xứ lâu ngày, với sự công bằng xã hội và sự giàu mạnh, bình an của xứ sở. Trái hẳn với quang cảnh ảm đạm của Giê-ru-sa-lem trong thời Xa-cha-ri lúc ấy, với sự hoang vu, dân số ít ỏi và đầy chết chóc; với sự tản lạc lưu đày của dân sự; với sự bất công và đầy dẫy tội lỗi; với sự bất an, rủa sả và buồn bã.

Lời hứa phước hạnh của Giê-ru-sa-lem trong tương lai đã đem lại cho dân sự Chúa đang tản lạc niềm an ủi và hy vọng với lòng trông đợi sự hiện đến của Chúa Cứu Thế. Trong niềm mong chờ nầy, tiên tri Xa-cha-ri cũng đã có lời kêu gọi dân Chúa hãy tiến đến đời sống theo tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời với sự lánh xa điều ác và làm điều chân thật, công bình theo sự dạy dỗ của luật pháp Đức Chúa Trời (8:16-17) để có đời sống xứng đáng với người làm công dân của một thủ đô tiêu biểu cho sự công bình của thế giới, và để trở thành người đi rao giảng luật pháp Chúa cho muôn dân. Điều này nhắc nhở chúng ta: Muốn trở thành người dạy đạo cho kẻ khác, thì trước hết chính mình phải sống theo đạo ấy.

Tóm lại qua các dự ngôn của Xa-cha-ri, chúng ta có thể nhìn thấy Đấng Christ trong hình ảnh của Vua Hoà Bình sắp đến! Giê-ru-sa-lem là nơi trị vì của Ngài trong nước ngàn năm bình an. Nhìn vào các biến chuyển của thế giới hiện nay, cho thấy lời tiên tri của Xa-cha-ri đang và sẽ ứng nghiệm. Là người sẽ được dự phần trong Nước Chúa, chúng ta hãy cầu nguyện cho Giê-ru-sa-lem hòa bình (Thi 122:6), và cầu nguyện cho ngày Chúa mau đến, cũng như làm trọn sứ mạng của người đem ơn cứu rỗi của Chúa Giê-xu cho mọi người, và loan tin cho thế gian biết rằng Vua Hoà Bình của nhân loại sắp đến, Đấng mà chẳng những Cơ đốc nhân trông đợi, nhưng cả thế giới cũng đang mong chờ, để chấm dứt mọi bất công xã hội, trừ diệt chiến tranh, và đem lại bình an thực sự cho tất cả mọi người trên đất. Là điều khát khao nhất của con người mà trong đời này không ai có thể thỏa đáp ước mơ ấy.

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Thành Giê-ru-sa-lem trong tương lai:

a. Giê-ru-sa-lem được đặt trong vị thế nào? (Xa-cha-ri 8:1-3).

b. Giê-ru-sa-lem đóng vai trò gì? (Xa-cha-ri 8:20-23; 14:8).

2. Đấng trị vì Giê-ru-sa-lem:

a. Đấng trị vì Giê-ru-sa-lem là ai? (Xa 9:9; 14:9; Mat 21:1-9).

b. Trong sự trị vì của Chúa, Ngài sẽ làm gì cho Giê-ru-sa-lem và các dân trên đất? (Xa 2:10-12; 8:4-19; 14:9-12).

c. Xin đọc Xa-cha-ri 8:4-20: Mô tả quang cảnh của Giê-ru-sa-lem trong thời Xa-cha-ri và Giê-ru-sa-lem trong thời trị vì của Đấng Mê-si.

3. Trong sự rao báo lời hứa phước hạnh, Xa-cha-ri khuyến cáo dân sự điều gì? Tại sao? (Xa 8:16-19).

4. Qua sứ điệp, Xa-cha-ri rao báo Đấng Mê-si trong hình ảnh nào? Và khuyến khích Cơ Đốc nhân chúng ta hôm nay trong sứ mạng nào?

5. Ghi nhận những điểm quan trọng trong sứ điệp của Xa-cha-ri.

6. Nhìn lại chính mình, xin cho biết:

a. Đời sống bạn có sự chuẩn bị gì cho Nước hầu đến?

b. Lòng bạn trông đợi Vua Hoà Bình và sốt sắng rao báo sự hiện đến của Ngài như thế nào?

c. Bạn có thái độ nào đối với Giê-ru-sa-lem, thành của Vua Thánh?

 

 

 

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

CÁCH CHỌN TRÁI CÂY (tt)

– Chôm chôm, vải, nhãn ngon, nhiều nước là thứ vỏ mỏng, nặng. Nhãn nên lựa thứ to, màu sậm và nặng.

– Mít tố nữ có cuống chỉ chừng 0,5 cm. Đừng nhầm với mít tây có cuống dài hơn (1-1,5cm). Mít tây ăn chua hơn mít tố nữ.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 24.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 24.5.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 24.05.2015 (Lễ Ngũ Tuần).

1. Đề tài: NGƯỜI ĐẦY DẪY ĐỨC THÁNH LINH.

2. Kinh Thánh: Lu-ca 1:15; 41-45; 67-79; 2:25-32; Công Vụ 2:11; 10:45-46; 4:8-12; 31; 13:4-12; 1Côr 14:4; 27-28.

3. Câu gốc: “Hãy nhờ Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin. Hãy dùng sự bền đỗ trọn vẹn mà tỉnh thức về điều đó, và cầu nguyện cho hết thảy các thánh đồ” (Ê-phê-sô 6:18).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 136 – 138.

5. Thể loại: Thuyết trình.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn thuyết trình.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

NGƯỜI ĐẦY DẪY ĐỨC THÁNH LINH.

Không ai có thể phủ nhận rằng trong những năm gần đây Hội Thánh Ngũ Tuần là giáo phái Tin lành phát triển nhanh chóng nhất khắp thế giới. Chúng ta phải tạ ơn Chúa và cần học hỏi tinh thần truyền giáo của anh chị em Ngũ Tuần… Một trong những đặc điểm các con cái Chúa trong Hội Thánh Ngũ Tuần thường nghĩ là được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Đầy dẫy Đức Thánh Linh là một đề tài phải cần khá nhiều giấy mực để trình bày. Trong khuôn khổ của bài học này, chúng ta chỉ nghiên cứu về phương diện người đầy dẫy Đức Thánh Linh mà thôi. Chúng ta cùng tìm hiểu xem “Người đầy dẫy Đức Thánh Linh sẽ làm gì?”

1. Người Đầy Dẫy Đức Thánh Linh Biết Im Lặng Chờ Đợi (không làm gì một thời gian dài).

Kinh Thánh cho chúng ta biết Giăng Báp-tít đã được đầy dẫy Đức Thánh Linh từ khi còn trong lòng mẹ (Lu 1:15), nhưng ông không làm gì cho đến mấy chục năm sau. Cho nên, chưa chắc người được đầy dẫy Đức Thánh Linh là phải làm điều nầy điều kia cho Chúa liền. Người đầy dẫy Đức Thánh Linh biết chờ đợi đến thời điểm Chúa muốn mình làm.

2. Người Đầy Dẫy Đức Thánh Linh Sẽ Xác Quyết Ơn Phước Chúa Ban Cho Người Khác.

Khi Ma-ri mang thai Chúa đến thăm Ê-li-sa-bét, là mẹ của Giăng Báp-tít, thì Ê-li-sa-bét được đầy dẫy Đức Thánh Linh bèn xác quyết phước hạnh mà Chúa ban cho Ma-ri (Lu 1:41-45). Điều đáng buồn của chúng ta ngày nay là thay vì xác quyết ơn phước Chúa ban cho anh chị em mình, chúng ta hay vấp phải lầm lỗi là nói ra, hoặc làm giảm giá trị ơn phước Chúa ban cho người khác. Xác quyết những điều Chúa ban cho thật là cần thiết trong việc gây dựng thân thể của Đấng Christ.

3. Người Đầy Dẫy Đức Thánh Linh Sẽ Ca Ngợi Chúa.

Khi Xa-cha-ri được đầy dẫy Đức Thánh Linh ông bèn cất tiếng ca ngợi Đức Chúa Trời (Lu 1:67-79). Cụ Si-mê-ôn khi được Đức Thánh Linh cảm động thì cất tiếng ca ngợi Đức Chúa Trời (Lu 2:25-32). Trong ngày lễ Ngũ Tuần, khi các môn đồ được đầy dẫy Đức Thánh Linh họ bèn nói về sự cao trọng của Đức Chúa Trời (Công Vụ 2:11). Khi các tín đồ tại nhà Cọt-nây đầy dẫy Đức Thánh Linh họ bèn ngợi khen Đức Chúa Trời (Công Vụ 10:45-46). Sự ca ngợi Chúa ở đây không hẳn là phải hát không thôi, mà là biết cất tiếng lên nói lời tôn vinh Chúa về kinh nghiệm phước hạnh Chúa ban cho mình.

4. Người Đầy Dẫy Thánh Linh Sẽ Dạn Dĩ Rao Truyền Phúc Âm.

Khi Phi-e-rơ được đầy dẫy Đức Thánh Linh ông liền giảng đạo Chúa cho những quan quyền mà bình thường ông rất ngại giao tiếp với họ. Khi đầy dẫy Đức Thánh Linh ông chẳng sợ họ nữa, ngược lại ông rất dạn dĩ rao truyền về Chúa cho họ (Công Vụ 4:8-12). Ông nói rất thẳng và rất mạnh, không chút sợ hãi gì, đến độ những người nghe cũng phải lấy làm lạ. Khi Hội Thánh của Chúa đầy dẫy Đức Thánh Linh thì các con cái Chúa trong Hội Thánh cũng rao truyền đạo Đức Chúa Trời cách dạn dĩ (Công Vụ 4:31).

Dầu môi trường để truyền giảng dường như không thuận lợi, Hội Thánh được đầy dẫy Đức Thánh Linh vẫn sốt sắng và mạnh dạn rao truyền đạo Chúa. Vì thế, Hội Thánh có lòng nóng cháy và dạn dĩ lo việc truyền bá Phúc Âm là một trong những dấu hiệu củaHội Thánh đang được đầy dẫy Đức Thánh Linh.

5. Người Đầy Dẫy Đức Thánh Linh Sẽ Có Khả Năng Ngôn Ngữ Phi Thường.

Có hai thứ ngôn ngữ mà người đầy dẫy Đức Thánh Linh có thể kinh ngiệm được. Một là ngoại ngữ, hai là tiếng lạ, cả hai đều bởi Đức Thánh Linh ban cho cách đột xuất, chứ không phải tập nói tiếng lạ như mọi người lầm tưởng. Giả bộ nói tiếng lạ để cho người khác tưởng mình được đầy dẫy Đức Thánh Linh hầu loè thiên hạ, là khinh thường Đức Thánh Linh chứ không phải chuyện nhỏ. Không nói được tiếng lạ, hoặc không có khả năng tự nhiên nói ngoại ngữ không có nghĩa là không được đầy dẫy Đức Thánh Linh! Có vô số người đuợc đầy dẫy Đức Thánh Linh mà không hề có ơn nói ngoại ngữ hay nói tiếng lạ. Người có ơn nói ngoại ngữ sẽ dùng ơn đó mà truyền bá Phúc Âm cho những dân tộc khác. Người có ơn nói tiếng lạ sẽ dùng ơn đó mà gây dựng cho chính mình hay cho người khác, nếu có người thông hiểu và dịch lại (1Côr 14:4, 27-28).

6. Người Đầy Dẫy Thánh Linh Sẽ Bày Tỏ Quyền Năng Chúa.

Phao-lô khi rao giảng đạo Chúa ở thành Ba-phô trên đảo Chíp-rơ, thì bị một thuật sĩ tên là Ê-ly-ma phá rối. Người nầy tìm mọi cách ngăn trở không cho người ta tin nhận Chúa. Phao-lô đầy dẫy Đức Thánh Linh bèn quở trách tên thuật sĩ và phạt cho tên ấy bị mù, tức thì tên ấy không nhìn thấy ngay tại chỗ. Nhờ đó người ta biết quyền năng của Chúa và tin nhận Ngài (Công Vụ 13:4-12).

Hội thánh Chúa cần phải có những người đầy dẫy Đức Thánh Linh. Hôm nay là thời kỳ Đức Thánh Linh đang hành động. Ngọn gió Thánh Linh đang thổi vào hội thánh Ngài khắp mọi nơi để tìm kiếm những người thật sự khát khao Ngài. Người đầy dẫy Đức Thánh Linh có khi phải chờ đợi một thời gian dài trước khi làm gì cho Chúa. Người đầy dẫy Đức Thánh Linh sẽ xác quyết ơn Chúa ban cho, lòng đầy vui mừng luôn ca ngợi Chúa, sốt sắng rao truyền đạo Chúa. Đôi khi được Chúa cho có khả năng nói ngoại ngữ thông thạo để phục vụ Chúa, hoặc có khả năng nói tiếng lạ để gây dựng cho chính mình hoặc Hội Thánh. Thỉnh thoảng cũng được Ngài ban cho quyền năng để sửa phạt những người chống đối, ngăn trở người khác tin Chúa. Đó là những đặc điểm của người được đầy dẫy Đức Thánh Linh.

Mục sư Đặng Ngọc Báu (có sửa).

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

CÁCH CHỌN TRÁI CÂY (tt).

– Chuối già ngon là chuối trái không quá to. Chuối quả to là chuối già lùn không thơm. Nên lựa thứ da vàng có thâm kim. Đó là chuối già hương rất thơm.

– Xoài ngon là xoài cát, xoài thơm. Xoài ngon, vỏ căng vàng đều, khúc đầu chín vàng mà cứng. Trên chót đuôi có chiếc mắt nhỏ, là  xoài hạt mỏng.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 17.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 17.5.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 17.05.2015 (Lễ Thăng Thiên)

1. Đề tài: BÍ QUYẾT ĐƯỢC LÒNG TRONG SẠCH.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 51:1-19.

3. Câu gốc: “Đức Chúa Trời ôi! Hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch, và làm cho mới lại trong tôi một thần linh ngay thẳng”(Thi Thiên 51:10).

4. Đố Kinh Thánh: Không đố Kinh Thánh.

5. Thể loại: Truyền giảng.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Các nhà hiền triết đông tây kim cổ đều than rằng lòng người gian ác, sâu độc. Kinh Thánh quyết rằng lòng người là xấu xa, ô uế, dối trá vô cùng: “lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa, ai có thể biết được?” (Giê 17:9), nên được tấm lòng trong sạch là quý báu biết bao. Hơn nữa Kinh Thánh cho biết người có tấm lòng trong sạch là người được phước (Mat 5:8). Vì vậy tôi muốn mỗi thanh niên có tấm lòng ấy.

I. SẴN SÀNG XƯNG TỘI LỖI CỦA MÌNH (Thi 51:1-6).

Đa-vít là một vị vua rất sang trọng, song khi ông phạm tội với Đức Chúa Trời về việc lấy vợ của U-ri, thì ông đã hết lòng ăn năn mà xưng tội lỗi mình, không giấu chi hết, với một tấm lòng đau thương thống hối (c.3-4).

1. Xưng tội mà ông đã phạm.

2. Ông còn xưng cả nguyên tội của mình nữa (c.5).

Hạt giống tội lỗi đã có trong loài người từ khi còn là một bào thai và hạt giống ấy theo thời gian mà phát triển. Đa-vít đã nhận tất cả như vậy, ông không giấu tội, không đổ thừa cho ai khác. Muốn được phước của Chúa ta cũng phải học tập gương Đa-vít như vậy.

II. HẾT LÒNG XIN CHÚA THA THỨ (Thi 51:7-9).

“Lấy chùm kinh giới tẩy sạch tội lỗi”. Lê-vi Ký 14:1-8 cho biết:

– Hai con chim vẫn sống và tinh sạch: Chúa Giê-xu.

– Cây hương nam và chùm kinh giới: Nhân tánh và thần tánh của Chúa.

– Con chim bị cắt cổ và con chim được thả đi: Sự chết và sự sống lại của Chúa Giê-xu.

– Chim nầy nhúng vào huyết chim kia rồi thả đi: Chúa đem huyết Ngài vào nơi trên trời.

– Chậu sành: Thân thể Chúa.

– Nước chảy: Đức Thánh Linh (Hêb 9:14).

Chỉ Chúa có quyền rửa sạch gian ác của chúng ta. Làm sạch luôn luôn như nước chảy mãi mãi. Làm sạch hết mọi điều gian ác. Ôi! Đa-vít khẩn thiết cầu xin Chúa tha thứ cho mình cách trọn vẹn. Sau khi ông đã nhận biết tội lỗi, ông cũng hết lòng muốn từ bỏ và xin Chúa tha thứ. Ông khao khát một tấm lòng trong sạch là dường nào!

III. XIN CHÚA TÁI TẠO LÒNG MÌNH (Thi 51:10).

1. Dựng Nên Một Lòng Trong Sạch.

Dầu Chúa đã tha thứ và rửa sạch song vẫn có thể tái phạm như trước, bởi vì tấm lòng cũ có bản tánh tội, nên ông cầu xin Chúa tạo nên trong mình một lòng trong sạch. Đó có thể gọi là sự tái sanh, nhận bản tánh Đức Chúa Trời. Với tấm lòng ấy ta mới có thể sống thỏa lòng,  sung sướng phước hạnh được. Tấm lòng ấy mới thấy được Đức Chúa Trời (Giăng 3.3).

2. Làm Mới Lại Một Thần Linh Ngay Thẳng.

Đó là sự nên thánh cũng như Chúa đã dạy trong Êxê 36:26, Giê 31:33. Bây giờ Chúa ghi khắc luật pháp của Ngài vào lòng ta và luật pháp ấy trở thành một bản tính của ta vậy. Bây giờ, dầu ta không gắng công ra sức gì mà vẫn ăn ở một cách trong sạch.

IV. BAN CHO ĐẦY DẪY ĐỨC THÁNH LINH (Thi 51:11-12).

Đức Thánh Linh ngự trong lòng ta một cách đầy dẫy là phương pháp giải quyết mọi nan đề. Nếu một tấm lòng trong trắng thì tốt, song không ích gì nếu không viết chữ trên ấy. Cũng vậy, lòng trong sạch của chúng ta dâng cho Đức Chúa Trời để viết vào đó sự yêu thương, sự vui mừng, sự bình an… của Ngài.

Đức Chúa Trời sẽ dắt dẫn cho đường lối ta một cách vững chắc. Ngài bảo đảm cho ta một cuộc đời hạnh phước. Không có gì đáng sợ bằng không có Đức Chúa Trời, minh hoạ bằng câu chuyện về vua Sau-lơ, người không có Đức Chúa Trời.

* Lời kết:Các bạn thanh niên yêu dấu! Sau khi nghe về “Bí quyết giữ lòng trong sạch” các bạn nghĩ gì? Các bạn có ước muốn mình có tấm lòng trong sạch không? Còn chần chờ gì nữa, các bạn hãy mau mau đến với Chúa Giê-xu trong tinh thần:

– Sẵn sàng xưng tội lỗi mình.

– Hết lòng xin Chúa tha thứ.

– Xin Chúa tái tạo lòng mình.

Khi bạn làm theo những điều hướng dẫn trên, tức thì Đức Chúa Trời ban Đức Thánh Linh đầy dẫy trong lòng bạn và Ngài sẽ hướng dẫn đời sống bạn, giữ lòng bạn luôn được trong sạch!

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

CÁCH CHỌN TRÁI CÂY (tt)

– Sầu riêng ngon không nhất thiết là trái có mùi thơm, màu vỏ xanh hay vàng. Trái ngon là trái có gai nở tròn trịa bằng nhau, không có vết xước, thủng sâu, không bị nứt ra, lắc thử có cảm giác bên trong như lỏng, rung (ngọt, béo) vỗ nghe âm thanh trầm, lấy tay bóp 2 gai câu vào thấy không cứng (chín không sượng).

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 10.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 10.5.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 10.05.2015.

1. Đề tài: LỄ MẪU THÂN.

2. Kinh Thánh: Châm Ngôn 31:10-31.

3. Câu gốc: “Người nữ khôn ngoan xây cất nhà mình; song kẻ ngu dại lấy tay mình mà phá hủy nó đi” (Châm 14:1).

4. Đố Kinh Thánh: Thi 133 – 135.

5. Thể loại: Kịch 5’.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn kịch.

* CÂU CHUYỆN THAM KHẢO.

BẢO VỆ TRÊN TAY.

Mục sư Thomas Collins kể rằng: Một thiếu phụ nơi ông hầu việc Chúa, sống rất bi quan và cảm thấy dường như Chúa đã bỏ mình. Một hôm gặp thiếu phụ đang bế con, Mục sư Collins bảo rằng:

– Bà buông đứa bé rơi xuống sàn nhà đi!

Thiếu phụ nhìn Mục sư ngạc nhiên, không hiểu tại sao Mục sư lại nói như thế?

Mục sư bảo: Nếu có ai trả cho bà một số tiền lớn để buông đứa bé rơi xuống sàn nhà, bà có chịu  làm không?

Hơi tức giận, thiếu phụ nói: Dù cho tôi tiền nhiều như sao trên trời, tôi cũng không buông con tôi xuống.

Lúc ấy, Mục sư ôn tồn bảo: Bà nghĩ tình thương của bà đối với đứa trẻ nầy có lớn hơn tình thương của Chúa đối với con cái Ngài chăng?

Nghe vậy, thiếu phụ bừng tỉnh.

* Trong những lúc gặp thử thách, đôi khi chúng ta nghi ngờ về sự gìn giữ của Chúa, có khi tưởng rằng Chúa bỏ rơi mình. Nên nhớ rằng, chúng ta đang ở trong tay Chúa Giê-xu, được chính Ngài bảo bọc, không có nơi nào an toàn hơn trong đôi tay toàn năng ấy.

LÒNG NHÂN TỪ CẢM HÓA.

Một bà mẹ lo lắng nhiều vì đứa con trai không đi nhà thờ mà lại theo những bạn bè xấu và tỏ ra bất mãn mọi chuyện. Người mẹ đau khổ tìm mọi cách để đưa con về đường tốt, nhưng tất cả đều vô ích. Chúa nhật nọ, bà nảy ra một ý tưởng và gọi đứa con trai lại, và nói:

“Hãy đem gói đồ này đến cho gia đình đối diện nhà chúng ta. Nếu con làm dùm mẹ điều này, mẹ hứa sẽ không quấy rầy con nữa”.

Có lẽ không muốn nghe tiếng mẹ la rầy nữa, chàng thanh niên đã nhận lời mẹ yêu cầu. Anh ta đi đến địa chỉ như mẹ dặn, bước vào một căn nhà nghèo nàn và anh thấy một người đàn bà đau ốm với ba đứa con nhỏ đang khóc vì đói. Chàng thanh niên trao vội gói đồ và muốn rút lui ngay, nhưng người đàn bà đã gọi anh trở lại:

– “Anh ơi, anh không thể đi đuợc khi tôi chưa kịp cám ơn anh. Anh là người cứu độ mà Chúa gởi đến cho chúng tôi. Xin Ngài trả công cho anh”.

Chàng thanh niên ra về lòng đầy cảm động. Ngay hôm sau anh trở lại địa chỉ nầy với một gói đồ khác mà anh đã mua với chính tiền của anh và còn ở lại chơi với mấy đứa nhỏ. Chàng thanh niên đã thay đổi cuộc sống, vì lòng nhân hậu đã làm anh mỗi ngày thêm hạnh phúc.

MẸ LÀM CON THEO.

Người chồng bảo vợ: “Mình đừng đậu xe hơi dưới gốc cây lớn trước nhà, kẻo nhựa cây nhỏ xuống làm dơ xe!”

Nhưng người vợ cứ để xe như thế vì thấy tiện cho việc đi lại của mình. Người chồng nhắc đi nhắc lại mãi, cuối cùng người vợ tức mình nói: “Không ai sai khiến được tôi hết!”

Ít lâu sau, người vợ bảo cậu con trai nhỏ của mình: “Con cất xe đạp của con đi!”

Bà thật kinh ngạc khi thấy đứa con trai lặp lại chính lời của bà: “Không ai sai khiến được con hết!”

NÊN DÂNG TUỔI THANH XUÂN CHO CHÚA.

Một thiếu nữ người bản xứ được một bà giáo sĩ nhận làm con nuôi. Cô được bà rước về ở chung, bà yêu thương cô như con ruột. Bà cho cô đi học và dạy Kinh Thánh cho cô. Cô đã tìm gặp Chúa, tin nhận Ngài làm Cứu Chúa cho cuộc đời mình. Bà giáo sĩ rất vui thỏa, và thường khuyên cô nên sớm dâng mình cho Chúa để trở nên người phục vụ Chúa như bà. Nhưng cô ấy cứ hẹn nay, hẹn mai mãi.

Thình lình một ngày kia, cô lâm bệnh nặng, phải vào bệnh viện điều trị. Mỗi ngày bà giáo sĩ đến cầu nguyện và ủi cô, thăm viếng cô. Ngày đầu bà ôm đến một bó hoa thật tươi đẹp. Đây là những loại hoa cô rất yêu thích. Cô vui lắm, nhưng sau giờ thăm bà mang hoa ra về. Cô hơi buồn, nhưng nghĩ rằng vì quá lo cho cô nên bà quên tặng hoa. Hôm sau, cũng bó hoa trên tay, những cánh hoa bắt đầu héo, không còn tươi đẹp như trước. Cô tự an ủi: Thôi có héo đôi chút cũng không sao, Song lúc ra về, bà giáo sĩ cũng quên để lại. Cô hơi bực tức về cái quên kỳ cục của bà. Ngày thứ ba, bà giáo sĩ ôm bó hoa đã tàn úa, đầu hoa bị gục xuống không còn chút vẻ gì tươi đẹp nữa. Lần này,trước khi ra về, bà đến trước giường cô nói: “Mẹ tặng bó hoa nầy cho con, mong con vui như những bông hoa tươi thắm”.

Cô gái không cầm được bực tức, nói: “Ba ngày trước bó hoa còn tươi đẹp, mẹ không tặng con. Bây giờ hoa đã úa tàn rồi, mẹ mới tặng con. Mẹ làm con buồn lắm!”

Bà giáo sĩ nhìn cô gái âu yếm và nói: “Con ơi, đời con giống như bó hoa nầy. Khi con còn thanh xuân mạnh khỏe, mẹ khuyên con nên dâng đời mình cho Chúa để phục vụ Ngài, nhưng con cứ lần lữa mãi. Con định đến lúc héo tàn, bệnh hoạn rồi mới chịu dâng đời mình cho Chúa hay sao?”

NHỜ CHÚA CẤT SỰ TRẢ THÙ.

Một đứa bé thường hay đánh lại đứa nào đánh nó. Mẹ nó dạy: “Con hãy nhờ Chúa mà thắng tính ấy”.

Hôm sau bà hỏi nó: “Con ơi, hôm nay sao con có vẻ vui như thế?”

Nó đáp: “Thưa mẹ, hôm nay con chỉ đánh trả lại bạn đánh con một cái mà thôi!”

Bà khuyên: “Con hãy nhờ Chúa cất sự giận ra khỏi lòng và đặt sự nhu mì, nhịn nhục thay cho tính xấu xa đó, hầu giúp con đắc thắng luôn. Như thế mới đẹp ý Chúa và vui lòng mẹ”.

Cách vài ngày sau đứa bé về thưa với mẹ: “Mẹ ơi, hôm nay con đã thắng cơn giận, con không đánh trả bạn một cái nào hết”.

Mẹ nó hỏi: “Bề ngoài con nín chịu, nhưng trong lòng con muốn đánh lại bạn không?”

Nó thưa: “Mẹ ơi, trong lòng con thật muốn như vậy”.

Vài ngày sau nữa, nó chạy về thưa: “Mẹ ơi, nhờ Chúa con không đánh lại bạn mà trong lòng con cũng chẳng còn muốn đánh bạn chút nào cả”.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

CÁCH CHỌN TRÁI CÂY.

– Bưởi ngon là bưởi cầm lên thấy nặng đều, vỗ thấy âm thanh đều, màu sắc vỏ tươi.

– Dưa hấu ngon là có núm cuống nhỏ, vỏ có nhiều gân, trái tròn, nặng (trái nhẹ là dưa bọng ruột vì đã quá già). Vỏ dưa bóng, thẳng da, không nhám và sậm màu.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 03.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 03.5.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 03.05.2015.

1. Đề tài: CHIẾU SÁNG CHO NGƯỜI.

2. Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 5:14-16.

3. Câu gốc: “Sự sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời” (Mat 5:16).

4. Đố Kinh Thánh: Đố theo chủ đề.

5. Thể loại: Họp bạn – Đố Kinh Thánh.

* CHỈ DẪN: Họp bạn.

1. Tham dự: Mời một hay nhiều ban phụ nữ của các Hội Thánh tham dự họp bạn.

2. Chương trình: Nhiều tuần trước ngày họp bạn, mời đại diện các ban phụ nữ họp lại để cùng hoạch định chương trình và phân chia công tác:

– Thời gian, địa điểm, chủ đề, câu gốc, thể loại thực hiện…

– Phân chia trách nhiệm cho từng ban: Tập hát, làm chứng, đố Kinh Thánh, phần thưởng, sinh hoạt, hướng dẫn chương trình, ẩm thực… Mỗi ban chịu một số tiết mục, nên mời một người soạn và đố Kinh Thánh.

3. Tiết mục: Các tiết mục nên có trong ngày họp bạn là: Bài ca mới, ca ngợi và cảm tạ, đố vui, kịch, trò chơi lớn…

4. Bảng tên: Dự kiến số người tham dự và số người cho mỗi nhóm để chuẩn bị các màu giấy thích hợp cho việc chia nhóm, mỗi màu là một nhóm. Bảng tên phải ghi rõ tên và Hội Thánh, để mọi người dễ làm quen. Sau đó mỗi nhóm cử một trưởng nhóm, một thư ký nhóm điều khiển nhóm mình tham gia trò chơi và sinh hoạt.

5. Phần thưởng: Phần thưởng cho sinh hoạt nhóm phải sử dụng phù hợp cho giờ thông công sau đó.

* CHỈ DẪN: Đố Kinh Thánh.

Họp bạn kỳ này đúng vào dịp đầu năm mới âm lịch, người đố Kinh Thánh nên soạn câu đố theo đề tài năm mới, nội dung phải phù hợp với trình độ của ban viên, nếu không đủ Kinh Thánh thì đố theo trí nhớ (xem cách đố Kinh Thánh trong “Phương Pháp Tổ Chức Các Ban Ngành Trong Hội Thánh”).

1. Mỗi ban phụ nữ nên cử ra một đại diện tham gia ban giám khảo. Các giám khảo phải có đáp án trước để việc chấm điểm được chính xác và công bằng.

2. Mỗi câu trả lời đúng được 10 điểm, sai bị trừ 5 điểm. Sau đó tổng kết và phát thưởng.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

TRÀ.

– Giữ trà thơm lâu.

Không cho trà tiếp xúc với ánh sáng. Hãy cho trà vào hộp thiếc có lót giấy hoặc lọ bằng sành sứ. Nếu cho vào lọ thủy tinh, nó sẽ mất thơm.

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 26.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 26.04.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 26.04.2015.

1. Đề tài: A-GHÊ – NGƯỜI KHUYẾN KHÍCH DÂN SỰXÂY DỰNG

ĐỀN THỜ.

2. Kinh Thánh:A-ghê 1:1-2:9.

3. Câu gốc:  “…Hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn,  vì biết

rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích

đâu”(1Cô-rinh-tô 15:58b).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 130-132.

5. Thể loại: Trò chơi lớn.

* CHỈ DẪN: Trò chơi lớn.

CHỦ ĐỀ: A-GHÊ KHUYẾN KHÍCH DÂN SỰ XÂY ĐỀN THỜ.

Địa điểm: Khuôn viên nhà thờ (hoặc nơi sinh hoạt).

Thời gian: 90 phút.

I. CHUẨN BỊ.

– Cần ít nhất 2 người để phối hợp soạn câu hỏi và đặt mật thư tại

mỗi trạm, chấm điểm, theo dõi để có thể hướng dẫn khi cần. Chuẩn

bị nội dung cho mỗi trạm để các nhóm thảo luận, cung cấp giấy bút

cho các nhóm có yêu cầu. Sau khi nhận mật thư, cả nhóm sẽ tham

gia giải mật thư, trình ban tổ chức và đến trạm kế tiếp…

– Mật mã: Từ nhiều tuần trước, hướng dẫn ban viên ôn lại chữ

điện tín, các mật mã đã dùng trong các tài  liệu trước và học thêm

mật mã mới. Chỉ nên dùng mật mã nào ban viên có thể dịch thành

thạo.

– Mật thư: Mật thư phải được viết và giữ kínđáo, kiểm tra kỹ để

tránh sai sót. Nội dung mật thư là một mệnh  lệnh hoặc gợi ý về

những nhân vật, nơi chốn… Mật thư phải ngắn gọn và đủ nghĩa. Mật

thư được giấu tại trạm hay do người đứng trạm giữ. Nếu đặt tại trạm,

không nên tập trung tại một chỗ.

91

– Địa điểm: Vẽ những dấu chỉ đường.

– Vật dụng: Kinh Thánh, giấy, bút, các bản mật mã đã học.

– Kinh Thánh: Thông báo cho ban viên đọc trước A-ghê 1:1-2:9.

II. THỰC HIỆN.

1. Thể Lệ Cuộc Thi Và Cách Chấm Điểm.

a. Thể lệ cuộc thi.

– Tất cả nhóm viên tham gia đầy đủ.

– Đến trạm, phải sắp hàng ngay ngắn và báo  cáo kết quả của

trạm trước.

– Thực hiện tất cả yêu cầu tại mỗi trạm.

b. Cách chấm điểm.

– Tinh thần tham gia (đầy đủ nhóm viên) …………………10 điểm.

– Giải chính xác mật thư …………………………………………10 điểm.

– Thực hiện đạt yêu cầu tại trạm………………………………10 điểm.

– Đến trạm sớm nhất ……………………………………………..10 điểm.

– Thực hiện tốt nội dung thảo luận ……………………………10 điểm.

2. Diễn Tiến Trò Chơi.

a. Mở đầu.

Ban tổ chức chia số người tham gia sinh hoạt ra làm nhiều nhóm,

mỗi nhóm từ 8-10 người. Nhóm xếp hàng dọc.  Cử nhóm trưởng và

thư ký nhóm, đặt tên nhóm. Khi các nhóm đã  ổn định, người hướng

dẫn giới thiệu chủ đề:

A-GHÊ KHUYẾN KHÍCH DÂN SỰ XÂY ĐỀN THỜ.

– Thưa các bạn! Sau thời gian lưu đày ở Ba-by-lôn, từ năm 537

T.C. dân Giu-đa được phép hồi hương và bắt đầu xây sửa đền thờ

Giê-ru-sa-lem. Nhưng sau đó vì kẻ thù chung quanh dấy lên quấy

phá, nên họ ngã lòng bỏ dỡ công việc. Trong tình trạnh ấy A-ghê

mang lời Chúa đến cùng dân sự để khích lệ họ trong việc xây lại

92

đền thờ Chúa và A-ghê đã thành công trong sứ điệp. Lời kêu gọi này

nhắc nhở chúng ta ngày nay có trách nhiệm thế nào đối với việc

nhà Ngài? Mời các chị em tham gia vào chương trình hôm nay để

giục lòng mạnh mẽ qua sứ điệp của tiên tri A-ghê.

b. Xuất phát.

NHD cho các nhóm xuất phát bằng trò chơi “Chia sẻ khó khăn”.

– Vật dụng: Chuẩn bị một số viên bi hoặc trái chanh tương ứng

với số nhóm, và muỗng tương đương với số người chơi.

– Cách chơi: Mỗi nhóm cử ra 3-6 người đứng thành hàng dọc,

mỗi người chơi ngậm trong miệng mình một cái muỗng. NHD đứng

trước cách các hàng 5-7m. Người đứng đầu mỗi nhóm ngậm một

muỗng, trên muỗng có một viên bi (hoặc tráichanh). Khi có lệnh,

người ngậm muỗng đi tới NHD vòng ra sau lưng rồi về chuyền lại bi

(hoặc chanh) cho người thứ hai (không được dùng tay). Cứ tiếp tục

cho đến người cuối cùng. Nhóm nào xong trướclà thắng cuộc.

– Lưu ý: Mỗi lần rớt bi được phép lượm lên,nhưng phải trở về vị

trí xuất phát để tiếp tục đi lại.

* Chế biến: Có thể cử mỗi nhóm một người để cùng ngậm

muỗng bi chạy thi, ai làm rớt sẽ bị loại.

– Nhóm có người thắng cuộc sẽ được nhận mật thư trước và tập

trung nhóm lại để giải mật thư.

_Mật thư 1:TIMF NGUOWIF DDANG KHIEENR TRACHS DAAN

SWJ BEE TREEX VIEECJ NHAF CHUAS.

– Chìa khoá: Chữ điện tín.

⌦Trạm 1.

_Yêu cầu:

– Tập trung nhóm thành hàng dọc, báo cáo sốngười trong nhóm.

– Phát câu hỏi đã viết sẵn trên giấy, cho nhóm thảo luận và trả

lời ra giấy hoặc hỏi đáp.

93

Đọc A-ghê 1:1-15, xin cho biết:

1. Lý do nào khiến dân sự bỏ việc xây đền  thờ? Lý do nầy có

hợp lẽ không?

2. Trong khi bỏ bê công việc Chúa, dân sự loviệc gì?

3. Làm công việc đó dân sự chuốc lấy hậu quả gì?

4. Qua lời cảnh cáo của A-ghê, dân sự có quyết định gì?

_Mật thư 2:TIMF DAAN NGUOWIF SWJ DDANG HAAUF

KHUYEENS VIEECJ KHICHS CHUAS.

– Chìa khóa: Cóc nhảy hai lần.

⌦Trạm 2.

_Yêu cầu:

– Tập trung nhóm thành hàng dọc, báo cáo sốngười trong nhóm.

– Phát câu hỏi viết sẵn ra giấy, cho nhóm thảo luận và trả lời

trên giấy hoặc hỏi đáp.

1. Đọc A-ghê 2:1-3 cho biết tiên tri thúc đẩydân sự thế nào

trong việc xây dựng lại đền thờ?

2. Đọc A-ghê 2:4-5, tiên tri khích lệ người lãnh đạo dân sự

những lời nào?

3. Đọc A-ghê 2:4-9, những lời khích lệ trên đi kèm với những lời

hứa nào?

4. Đọc A-ghê 21:5-11 và 2:15-19, so sánh cuộc  sống của dân

sự khi làm việc nhà và khi làm việc Chúa khác nhau thế nào? Từ

đó, cho bạn nguyên tắc sống nào (Mat 6:33).

5. Sứ điệp nầy có ý nghĩa gì đối với Cơ đốcnhân chúng ta hôm

nay?

– NHD phát lệnh: “Các nhóm tập trung về điểm xuất phát”.

3. Kết thúc.

– NHD cùng ban Phụ nữ tóm lược lại nội dung sứ điệp của A-ghê.

94

– Kêu gọi các ban viên chung tay, góp sức xây dựng nhà Đức

Chúa Trời.

– Công bố kết quả và phát thưởng.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

I. GIỚI THIỆU.

A-ghê được Đức Chúa Trời kêu gọi làm tiên  tri sau thời kỳ dân

Giu-đa bị lưu đày. A-ghê bắt đầu chức vụ năm520 T.C. nhằm năm

thứ hai sau đời Vua Đa-ri-út, vua Mê-đi Ba-tư.

Sau thời gian ở Ba-by-lôn, từ năm 537 T.C. dân Giu-đa được phép

hồi hương và bắt đầu xây sửa đền thờ Giê-ru-sa-lem. Nhưng sau đó

vì kẻ thù chung quanh dấy lên quấy phá, nên  họ ngã lòng bỏ dỡ

công việc. Trong tình trạnh ấy A-ghê đem lời Chúa đến cùng dân sự

qua bốn sứ điệp quan trọng sau đây:

(1) Khiển trách dân sự bê trễ việc nhà Chúa.

(2) Khuyến khích dân sự hầu việc Chúa.

(3) Rao báo sự vinh quang của đền thờ mới.

(4) Dự ngôn nước hầu đến của Đấng Mê-si vàphước hạnh của

dân Chúa.

Điểm chủ yếu của sứ điệp A-ghê là kêu gọixây lại đền thờ Chúa.

Lời kêu gọi này nhắc nhở con dân Chúa có trách nhiệm thế nào đối

với việc nhà Ngài?

II. DẪN GIẢI.

1. Lời Cảnh Cáo Về Sự Bỏ Phế Việc Nhà Chúa.

Có hai lý do khiến dân sự đình hoãn việc xây lại đền thờ Chúa:

a. Bị kẻ thù quấy phá:Họ là những dân bản xứ sinh sống trong

phần đất Sa-ma-ri đã nổi dậy chống lại việcxây đền thờ Chúa,

khiến dân sự ngã lòng bỏ cuộc (E-xơ-ra 4).

b. Thì giờ chưa đến! “Đức Giê-hô-va vạn quân có phán như vầy:

Dân nầy nói rằng: Thì giờ chưa đến, tức là  thì giờ xây lại nhà Đức

95

Giê-hô-va”(1:2). Thì giờ ở đây chỉ về sự ứng nghiệm của lời tiên tri.

Theo dự ngôn của tiên tri Giê-rê-mi và Ê-sai, thì dân Giu-đa sẽ bị

đày qua Ba-by-lôn 70 năm, sau đó họ sẽ trở về xây lại đền thờ với

sự hỗ trợ của vua Si-ru (Giê 25:11; Ê-sai 44:28). Đối với dân sự, thì

giờ này chưa đến. Nhưng thực ra đối chiếu với lời tiên tri và sự kiện

như đã xảy ra thì thời điểm (giờ) đã đến rồi. Khi vua Si-ru lên ngôi

vua nước Phe-rơ-sơ (Ba Tư) đã ra chiếu chỉ cho phép dân Giu-đa hồi

hương để xây lại đền thờ Chúa vào năm 537 T.C. như điều các tiên

tri đã nói trước (E-xơ-ra 1:1-4).

Hai lý do trên nhắc nhở chúng ta những điều sau này:

(1) Người làm công việc nhà Chúa chắc khôngtránh khỏi sự phá

hoại của ma quỷ, nên chúng ta phải hết lòngnương cậy Chúa.

(2) Sự không nhận thức được thì giờ của Chúa, khiến ta bê trễ

trong công việc nhà Chúa. Ngày nay chúng ta nghĩ rằng ngày Chúa

trở lại còn xa lắm, nên không bắt lấy mọi  cơ hội hầu việc Ngài!

Nhưng thực ra theo sự bày tỏ của Kinh Thánh với các biến cố đang

xảy ra trên thế giới, thì ngày Chúa đến gầnlắm rồi! Vậy chúng ta

hãy biết  “Lợi dụng thì giờ… vì nếu chúng ta không trễnãi, thì đến

kỳ, chúng ta sẽ gặt”(Êph 5:16; Gal 6:9).

Với sự viện cớ thì giờ chưa đến để làm công việc riêng tư và bỏ

qua việc nhà Chúa: Tiên tri A-ghê đã quở trách sự bê trễ của dân sự.

Qua sứ điệp của Chúa, A-ghê đã bày tỏ cho họ thấy lỗi lầm của

mình:

– Lấy thì giờ của Chúa làm thì giờ của mình:  “Nay có phải là thì

giờ các ngươi đương ở trong nhà có trần ván,khi nhà nầy hoang vu

sao?”(1:4): Đáng lẽ dân sự tận lực dùng thì giờmình để xây nhà

Chúa trước hết. Trái lại lo xây nhà riêng để hưởng thụ an nhàn, ấm

cúng bên trong!

– Làm sai lệch đường lối Chúa: “Các ngươi khá xem xét đường lối

mình”(1:7): Theo chương trình của Đức Chúa Trời, mục đích chính

yếu của Ngài trong sự hồi hương là xây lại  đền thờ Giê-ru-sa-lem,

96

chuẩn bị cho ngày hiện đến của Đấng Mê-si để cứu chuộc nhân loại.

Nhưng thay vì hoàn thành mục đích của Chúa, dân sự xoay qua mục

đích riêng tư của mình, lo tạo dựng sự nghiệp, tìm kiếm sự giàu

sang để hưởng thụ. Vì vậy, công việc của họchỉ là lao khổ và mệt

nhọc, không được Chúa ban phước: “Các ngươi gieo nhiều mà gặt ít;

ăn mà không no; uống mà không đủ; mặc mà không ấm; và kẻ

nào làm thuê, đựng tiền công mình trong túi lủng”(1:6). Qua những

biến cố nguy vong của đất nước, và những ngày sống lưu vong nơi

đất khách, dân sự chắc hẳn có kinh nghiệm về sự phù du của vật

chất. Khi trở về xứ, Đức Chúa Trời muốn dạy họ một nguyên tắc

sống có giá trị hơn: Tìm kiếm Chúa trước nhất chớ không phải tìm

kiếm vật chất; cũng như đặt việc Chúa trướcviệc của mình. Điều này

không có nghĩa chúng ta chỉ lo việc nhà Chúa mà không lo việc mưu

sinh. Nhưng đây là sự đặt thứ tự ưu tiên chocông việc Chúa trước

các công việc của mình, và tất cả phải hướng về mục đích duy nhất

vinh danh Chúa. Khi người sống theo nguyên tắcnày thì chắc sẽ

không thiếu nhu cầu vật chất cho mình, như trong lời dạy dỗ của

Chúa Giê-xu:  “Trước hết hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời  và sự

công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm cácngươi mọi điều ấy

nữa”  (Mat 6:33). Cho nên sở dĩ dân sự làm việc màchẳng gặt kết

quả chi, vì cớ sai nguyên tắc của Chúa cho đời sống:  “Ấy là tại nhà

ta thì hoang vu, mà các ngươi ai nấy lo xây nhà mình. Cho nên, vì

cớ các ngươi, trời giữ móc lại, và đất giữbông trái lại. Ta đã gọi

cơn hạn hán đến trên đất, trên các núi, trên lúa mì, trên rượu mới,

trên dầu và trên sản vật đất sanh ra, trên  loài người, trên loài vật,

và trên mọi việc tay làm” (1:9-11).

Sau lời quở trách, A-ghê đã thách thức dân  chúng trở lại công

việc nhà Chúa:  “Hãy lên núi, đem gỗ về, và xây nhà nầy, thì ta sẽ

lấy nó làm vui lòng, và ta sẽ được sáng danh”  (1:8). Nghe sứ điệp

của A-ghê, dân chúng nhận biết đây là mạnglịnh của Chúa qua đầy

tớ Ngài nên có lòng sợ hãi ăn năn tội lỗi mình và trở lại vâng lời

Chúa. Với lời hứa được Chúa ở cùng và được sự thúc giục của Ngài

97

trong lòng, bây giờ cả người lãnh đạo đến dân sự  “…đều đến, làm

việc nơi nhà Đức Giê-hô-va vạn quân, là Đức Chúa Trời”(c.14).

Trong sự đem dân sự trở lại công việc nhà Chúa, chúng ta nhận

thấy có 2 yếu tố:

– Bên ngoài: Đức Chúa Trời sai đấng tiên triđem lời cảnh cáo

dân chúng và kêu gọi sự ăn năn.

– Bên trong: Đức Chúa Trời giục lòng dân sự, khiến họ đứng lên

bắt tay vào việc. Đây là hai điều quan trọngngười lãnh đạo cần ghi

nhận trong việc đôn đốc người bắt tay làm việc nhà Chúa.

2. Khuyến Khích Trong Công Việc Chúa

A-ghê chẳng những đem lời Chúa kêu gọi dân  sự trở lại tiếp tục

việc xây đền thờ, nhưng còn có lời khuyến khích họ đến chỗ hoàn

thành công việc. Với dân sự, A-ghê gợi lạitrong ký ức của họ bức

ảnh đền thờ Giê-ru-sa-lem vinh quang rực rỡ trong quá khứ trước khi

vương quốc Giu-đa chưa sụp đổ, so với quang cảnh đổ nát của đền

thờ đang ở trước mắt họ lúc ấy, để khiến dân sự thêm lòng hăng hái

trong công việc xây lại đền thờ Chúa vì vinhhiển danh Ngài (2:1-3).

Với Xô-rô-ba-bên, Giê-hô-sua là người lãnhđạo của dân sự, A-ghê đem lời Chúa giục lòng họ  “…các ngươi cũng khá can đảm, và

hãy làm việc… chớ sợ hãi”(2:4-5). Kèm theo đó với ba lời hứa:

(1) Sự hiện diện của Chúa.

(2) Sự hiện diện của thần Ngài.

(3) Sự vinh hiển của đền thờ (2:6-9).

Qua cảnh đền thờ đang bị đổ nát, họ nhìn thấy một viễn ảnh thật

vinh hiển, sáng chói của đền thờ Giê-ru-sa-lem trong tương lai. Ba lời

hứa trên rất là quan trọng trong sự khích lệngười hầu việc Chúa,

khiến được mạnh mẽ trong lòng, không sợ hãikẻ nghịch mưu phá,

vì cớ Chúa ở cùng; được can đảm trong công việc vì có Thần Ngài ở

giữa với quyền năng lớn Ngài nâng đỡ; và được phấn khởi với niềm

98

hy vọng về vinh quang rực rỡ của đền thờ Giê-ru-sa-lem trong Nước

của Vua Hoà Bình sắp đến.

Qua sự khích lệ của A-ghê, chúng ta học được:

(1) Người được Chúa gọi vào công việc Chúa,cũng sẽ được Ngài

ở cùng và ban cho quyền năng để làm thành công việc.

(2) Niềm hy vọng về ngày vinh hiển của Đấng Christ trở lại cũng

là niềm phấn khởi cho chúng ta trong công việc Chúa hiện tại.

3. A-ghê Với Sứ Mạng Chúa Gọi.

Trong hai tháng ngắn ngủi, với bốn sứ điệp của Chúa cho dân sự,

A-ghê đã thành công trong sứ mạng. Dân sự hăng hái bắt tay vào

việc nhà Chúa. Kết quả họ được Chúa ban phước dồi dào. So sánh

với đoạn 1: Khi bỏ bê việc nhà Chúa, đất đai họ bị cằn cỏi khô héo,

nhưng trong đoạn 2: Khi vâng lời Chúa trở lạicông việc Ngài, họ

được dư dật hoa màu (2:16-19). Đây là thực chứng cho nguyên tắc

căn bản trong Ma-thi-ơ 6:33, trước hết là ưu tiên cho công việc

Chúa. Qua các sứ điệp của A-ghê cho chúng tahọc biết Đức Chúa

Trời trong những khía cạnh này: Ngài là ĐấngThành Tín, giữ giao

ước Ngài; cũng là Đấng Quyền Năng, ban nănglực cho người hầu

việc Ngài; và là Đấng chủ hữu mọi tài vậttrên đất như lời Ngài

phán:  “Bạc là của ta, vàng là của ta”(2:8). Sự học biết Đức Chúa

Trời trong những khía cạnh trên để dạy chúngta thêm lòng kính sợ

Chúa, và có đức tin nơi lời hứa thành tín của Ngài. Đừng quá lo lắng

về vật chất, cũng đừng lo thâu trữ của cải, vì mọi sự thuộc về Chúa.

Nhưng điểm quan trọng là đời sống tin cậy Chúa và phục sự Ngài.

Tóm lại, với sứ mạng của A-ghê kêu gọi dân Chúa xây đền thờ,

khuyến khích chúng ta hôm nay trong sứ mạng xây dựng nhà Chúa,

hoặc đó là việc làm chứng nhân cho Chúa, kêu gọi mọi người tin

nhận Chúa Giê-xu để được trở nên con cái Đức Chúa Trời, hoặc đó là

việc chăm sóc đức tin anh em trong Hội Thánh…Nhưng một câu hỏi

cho chính mình là: Tôi có thái độ và tinh thần như thế nào đối với

công việc nhà Chúa? Xao lãng, bê trễ hay sốt sắng, hăng hái?

99

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Lời quở trách dân sự về sự bỏ phế việcnhà Chúa:

a. Lý do khiến dân sự bỏ qua việc xây lại đền thờ? (1:2) Lý do

này có hợp lẽ không?

b. Trong khi bỏ qua việc nhà Chúa, dân sự lo  công việc nào?

(1:4-9).

c. Trong sự lo việc nhà mình, dân sự chuốc lấy những hậu quả

nào? Tại sao? (1:5-11).

d. Hai yếu tố nào (điều gì) dân sự phải làmtheo? (1:12-14).

2. Khuyến khích trong công việc Chúa:

a. Trong 2:1-3: A-ghê thúc đẩy dân sự trong việc xây dựng lại

đền thờ Chúa thế nào?

b. Trong 2:4-5: A-ghê có những lời nào khích lệ các nhà lãnh

đạo dân sự?

c. Những lời khích lệ trên được kèm theo vớinhững lời hứa

nào? (2:4-9). Xin tìm hiểu tính chất quan trọngcủa lời hứa.

3. So sánh khi dân sự lo việc nhà mình thì gặt lấy hậu quả gì?

Và khi dân sự lo việc nhà Chúa thì được kếtquả gì? (1:5-11; 2:15-19). Qua sự so sánh này cho chúng ta học biếtnguyên tắc căn bản

nào trong nếp sống đạo của con dân Chúa? (Mat 6:33).

4. Sứ điệp A-ghê kêu gọi xây lại đền thờ Chúa có ý nghĩa gì đối

với Cơ đốc nhân chúng ta hôm nay? Và khuyến khích chúng ta trong

sứ mạng nào? (Rô 12:11; 1Côr 15:58; Ê-phê 5:16-17; Gal 6:9).

5. Qua sứ điệp, A-ghê bày tỏ Đức Chúa Trời  trong những khía

cạnh nào?

6. Ghi nhận những điểm quan trọng qua các sứ điệp của A-ghê.

7. Nhìn lại chính mình, xin cho biết:

a. Bạn sốt sắng việc nhà Chúa hay bê trễ việc nhà Ngài?

100

b. Công việc Chúa đối với bạn là việc quan trọng hàng đầu hay

chỉ là việc phụ?

c. Với người xao lãng việc Chúa, bạn có sứ mạng gì?

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

TÔM.

– Để Quết Tôm Được Dai.

Cần lau tôm cho khô trước khi quết. Sau khi quết nhuyễn, thêm

gia vị và một lòng trắng trứng. Không nên dùng hàn the. Quết lại để

trứng và tôm nhuyễn vào nhau.

 

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 19.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 19.04.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 19.04.2015.

1. Đề tài: SÔ-PHÔ-NI – NGƯỜI KÊU GỌI CÁC DÂN TRÊN ĐẤT TÌM

KIẾM CHÚA.

2. Kinh Thánh:Sô-phô-ni đoạn 1 và 2.

3. Câu gốc: “…Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va, tìm kiếm sự công bình,

tìm kiếm sự nhu mì”(Sô-phô-ni 2:3b).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 127 – 129.

5. Thể loại: Học Kinh Thánh.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn thể loại học Kinh Thánh.

1. Đọc A-ghê 1:2-3, mô tả sự đoán xét của Đức Chúa Trời?

2. Đọc A-ghê 1:4-13; 2:4-7,8-11,12,13-15, cho biết những ai bị

Đức Chúa Trời đoán xét và cho biết lý do?

3. Bạn học biết gì về Đức Chúa Trời, về quyền năng và sự đoán

xét của Ngài?

4. Trong A-ghê 2:1-3, tiên tri Sô-phô-ni kêu gọi các dân nhóm lại

tìm kiếm điều gì?

5. Tại sao phải tìm kiếm Đức Giê-hô-va ?

6. Bạn được nhắc nhở điều gì qua lời kêu gọi của tiên tri?

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

I. GIỚI THIỆU.

Tên Sô-phô-ni có nghĩa “Chúa che giấu và bảo vệ”. Ông là người

đồng thời với tiên tri Na-hum và Giê-rê-mi,  được Chúa kêu gọi làm

tiên tri vào khoảng năm 625-610 T.C. đã chứngkiến cuộc phục hưng

tôn giáo vĩ đại dưới triều vua Giô-si-a vào năm 621 T.C.

Mặc dầu dân sự hứa nguyện trở lại cùng Đức Chúa Trời, nhưng

Sô-phô-ni đã nói trước về sự lưu đày của Giu-đa, vì tội lỗi họ quá lớn

không thể tránh khỏi sự đoán phạt của Chúa. Ngoài ra trong sứ điệp

Sô-phô-ni còn có ba dự ngôn quan trọng là:

85

1. Sự đoán xét của Chúa trên khắp thế giớitrong ngày sau cùng,

2. Sự cải đạo của các nước.

3. Sự hiện đến của Đấng Mê-si. Với sự rao báo ngày của Chúa,

Sô-phô-ni cũng đã kêu gọi các dân trên đất hãy tìm kiếm Đức

Chúa Trời.

Lời kêu gọi này có ý nghĩa gì đối với Cơ đốc nhân chúng ta?

II. DẪN GIẢI.

1. Sự Đoán Xét Của Đức Chúa Trời.

Không như tiên tri Na-hum chỉ rao sự đoán xét cho Ni-ni-ve, Sô-phô-ni có sứ mạng của Chúa rao sự đoán xéttrên cả thế gian. Một

sự đoán phạt thật là khinh khủng trên khắp  đất:  “Ta sẽ diệt sạch

mọi sự khỏi mặt đất, Đức Giê-hô-va phán vậy. Ta sẽ diệt loài người

và loài thú, chim trời và cá biển, cùng mọi sự ngăn trở với kẻ dữ;

và Ta sẽ trừ diệt loài người khỏi mặt đất,Đức Giê-hô-va phán vậy”

(1:2-3). Trong phạm vi đoán xét này gồm có:

a. Tuyển dân Y-sơ-ra-ên(1:4-13). Trong câu 5 và 6 cho thấy có

3 hạng người bị đưa đến sự đoán xét của Chúa:

(1) Người thờ thần tượng: Thần tượng dân Y-sơ-ra-ên hay thờ lạy

là Ba-anh, thần của người A-si-ry được nhập từ đời vua Ma-na-se

(2Vua 21:3). Đức Chúa Trời quyết rằng sẽ trừdiệt thần tượng giả dối

ấy cùng với kẻ xây bỏ Chúa.

(2) Người vừa tôn thờ Chúa vừa thờ lạy hìnhtượng. Đây là hạng

người đi giẹo hai bên mà tiên tri Ê-li đã có lần quở trách dân sự

rằng:  “Các ngươi đi giẹo hai bên cho đến chừng nào?Nếu Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, khá theo Ngài; nếu Ba-anh là Đức Chúa Trời,

hãy theo hắn”(1Vua 18:21).

(3) Người chối bỏ luật pháp thánh của Chúa và làm theo ý muốn

mình. Trong Ma-thi-ơ 6:24, Chúa đòi hỏi dân sựChúa tôn thờ Ngài là

Vua của đời sống, và sống theo ý muốn Ngài.

Chúng ta đang đứng trong hạng người nào?

86

Xã hội Y-sơ-ra-ên trong thời tiên tri Sô-phô-ni ảnh hưởng về các

tập tục và tôn giáo của A-si-ry, cả đến trong cách ăn mặc “áo lạ”

(c.9). Cho thấy rằng họ bỏ nếp sống đạo theotiêu chuẩn công bình,

chánh trực của Chúa và bị đồng hoá với nếpsống của dân ngoại,

buông mình trong sự bại hoại, đầy dẫy sự bạo ngược và quỷ quyệt.

Vì cớ phạm tội dường ấy, nên từ các quan trưởng đến dân sự không

ai tránh khỏi cơn thạnh nộ của Ngài (c.7-13).Điều này nhắc nhở Cơ

đốc nhân chúng ta phải có đời sống biến đổi, phân rẽ với thế gian,

nhất là coi chừng những “kiểu áo lạ” của sự bại luân (đồi bại về luân

lý, đạo đức). Trong nếp sống đạo, người Cơ Đốc được Kinh Thánh

khuyến khích có cách trang phục trang nhã, hoà hợp với đức khiêm

nhu bên trong. Đức Chúa Trời chẳng những đoán xét tấm lòng chúng

ta, nhưng cũng đoán xét trong cách sống của chúng ta nữa.

b. Các nước thế gian(1:14-2:15): Trong sự đoán xét thế gian,

Sô-phô-ni đặc biệt rao sự phán xét của ĐứcChúa Trời trên các dân

tộc lân bang của Y-sơ-ra-ên.

(1) Phi-li-tin (2:4-7): Dân Phi-li-tin sống ở miền duyên hải (vùng

ven biển), vì phía Tây giáp Địa Trung hải, phíaĐông giáp Ca-na-an,

phía Nam gần Ai-cập, đã xuất hiện từ khoảng  năm 1200 T.C. Trong

thời các quan xét, dân này đã nhiều phen quấy nhiễu làm hại dân

Chúa. Cho nên Đức Chúa Trời sẽ khiến đất họ bị hoang vu và Y-sơ-ra-ên sẽ nhận đất ấy trong ngày họ hồi hương.

(2) Mô-áp và Am-môn (2:8-11): Là hai nước láng giềng của Y-sơ-ra-ên, nhưng đã từng đối xử tệ bạc với dânChúa. Vì thế Chúa sẽ huỷ

diệt họ như đã huỷ diệt thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ!

(3) Ê-thi-ô-bi (2:12): Là nước “Cúc” trong tiếng Hê-bơ-rơ”, dân

tộc Soudanaisngày nay, nằm phía Đông nam Ai Cập và hai bờsông

Ni-lơ (Nile). Thời Ai-cập hưng thịnh, Ê-thi-ô-bi phục thuộc dưới quyền

Ai Cập. Vì dân này mạnh bạo, ưa chiến tranh,  nên vua Ai-cập hằng

mộ họ làm quân đội và thị vệ. Vì thế Ê-thi-ô-bi và Ai-cập có mối

87

liên hệ với nhau mật thiết, hai nước từng làm hại Y-sơ-ra-ên, nên

Chúa sẽ đoát phạt tùy theo công việc họ làm.

(4) A-si-ry (2:13-15): Là một đế quốc hùng mạnh một thời,

nhưng đã đối xử tàn bạo với Y-sơ-ra-ên khi họ bị bắt lưu đày. Đức

Chúa Trời sẽ khiến A-si-ry hoang vu và bị sỉ nhục giữa các dân như

điều tiên tri Na-hum đã rao báo.

2. Lời Kêu Gọi Ăn Năn.

Ngày đoán xét của Chúa chắc sẽ đến, không ai có thể tránh khỏi.

Dầu vậy, Chúa vẫn còn cho họ cơ hội để ăn năn. Vì thế tiên tri Sô-phô-ni kêu gọi các dân trên đất hãy trở lại cùng Đức Chúa Trời với

sự bày tỏ của tấm lòng hối lỗi và đời sống tin kính Chúa qua hai

hành động sau đây:

a. Tự xét lấy mình(2:1-2):  “Hỡi dân chẳng biết xấu hổ! Hãy

nhóm hiệp lại, trước khi mạng lịnh chưa ra….”.Sự nhóm hiệp lại

không phải để bàn mưu chống nghịch Chúa như họ đã làm, nhưng

để tự xét lại lòng mình, kiểm điểm lại đường lối bất chính, gian ác

của mình và tự nhận biết mình là tội nhân trước mặt Chúa, với lòng

thống hối ăn năn, tìm ơn thương xót của Chúa. Đây là điều cần thiết

cho người tránh khỏi cơn thạnh nộ của Chúa.  Vì  “nếu chúng ta biết

xét đoán lấy mình, thì khỏi bị xét đoán”(1Côr 11:31).

b. Tìm kiếm Đức Chúa Trời(2:3):  “Hỡi các ngươi là mọi kẻ nhu

mì của đất, làm theo mạng lịnh của Chúa, hãytìm kiếm Đức Giê-hô-va, tìm kiếm sự công bình, tìm kiếm sự nhumì, hoặc giả các

ngươi sẽ được giấu kín trong ngày thạnh nộ của Đức Giê-hô-va” .

Khi người ăn năn, từ bỏ sự gian ác chưa đủ,cần phải tiến đến đời

sống mới theo tiêu chuẩn đạo đức của Đức Chúa Trời đòi hỏi:

(1) Tìm kiếm Đức Chúa Trời: Sự tìm kiếm ĐấngTạo Hóa là bổn

phận trước nhất của con người trên đất, vì Ngài là nguồn của sự

sống. Ai loại bỏ Ngài ra khỏi đời sống là tự hủy diệt mình.

88

(2) Tìm kiếm sự công bình: Đức Chúa Trời là  Đấng công nghĩa,

sự công nghĩa Ngài được bày tỏ trong điều răn và luật pháp Ngài

truyền cho Môi-se, để người nhờ đó học biếtsống theo đường lối của

Chúa và được phước.

(3) Tìm kiếm sự nhu mì: Vì kẻ kiêu ngạo bị Chúa đoán phạt,

nhưng người nhu mì được Ngài ban phước (Mat 5:5).

Tóm lại qua lời rao báo sự đoán xét cuả Chúa và kêu gọi ăn năn,

chúng ta ghi nhận những điểm sau đây:

– Các nước sẽ bị đoán xét, nhưng dân Y-sơ-ra-ên sẽ bị sửa phạt

và có lời hứa ban phước.

– Sự sửa phạt dân Y-sơ-ra-ên nhắc nhở chúngta kiểm điểm tấm

lòng và đời sống chúng ta trước mặt Chúa. Trong sự đoán phạt các

nước, nhắc nhở chúng ta kiểm điểm thái độ mình đối với Đấng Cao

Cả và tư cách chúng ta đối với dân sự Ngài.

– Trong lời rao về sự đoán xét, Đức Chúa Trời còn cho loài người

có dịp tiện ăn năn. Vậy hãy ăn năn khi còncó cơ hội, vì nếu hết cơ

hội sẽ không có sự tha thứ, chỉ còn sự đoán phạt mà thôi.

Hôm nay sống trong thời ân điển, ngày đoán xét lớn của Chúa

sắp đến gần hơn lúc tiên tri Sô-phô-ni rao báo! Cho nên sự kêu gọi

người ăn năn tin nhận Chúa Giê-xu để được tha tội, được cứu khỏi

cơn thạnh nộ của Chúa là sứ mạng khẩn cấp  của mỗi Cơ đốc nhân

chúng ta.

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Dự ngôn về sự đoán xét của Đức Chúa Trời:

a. Sự đoán xét của Chúa như thế nào? (1:2-3).

b. Sự đoán xét của Chúa trên những ai? Tại sao? (1:4-13; 2:4-7; 2:8-11; 2:12; 2:13-15).

c. Qua những ghi nhận trên chúng ta học biết gì về Đức Chúa

Trời quyền năng và sự đoán xét của Ngài?

2. Lời kêu gọi ăn năn:

89

a. Trong 2:1-2, tiên tri Sô-phô-ni kêu gọi các dân nhóm họp

lại với mục đích gì? Tại sao? (1Côr 11:31).

b. Trong 2:3: Tiên tri Sô-phô-ni kêu gọi các  dân tìm kiếm ai?

Và tìm kiếm điều gì? Tại sao? (A-mốt 5:4; Mat 5:5; 6:33).

c. Lời kêu gọi của Sô-phô-ni nhắc nhở chúng ta hôm nay trong

sứ mạng nào? (Giăng 3:36; 5:24).

3. Ghi nhận những điểm quan trọng trong sứ điệp của tiên tri Sô-phô-ni.

4. Nhìn lại chính mình, xin cho biết:

a. Bạn nhận biết sự đoán xét của Chúa như thế nào?

b. Bạn có bị đặt dưới sự phán xét của Chúatrong ngày sau

cùng không? Xin trình bày.

c. Bạn có biết kêu gọi mọi người tin Chúa Giê-xu để được cứu

khỏi sự đoán phạt của Chúa không? Sứ mạng Chúa gọi bạn làm gì?

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

TỎI

– Cách Sử Dụng Tỏi.

Không bao giờ để tỏi bị vàng cháy trong dầu  mỡ vì nó sẽ làm

cho mùi vị thức ăn bị khét, mất mùi tự nhiên của nó.

– Cách Khử Mùi Hôi Của Tỏi.

Ăn tỏi hôi miệng. Tránh ăn tỏi khi tiếp xúc với người khác. Tuy

nhiên, để tránh hôi miệng sau khi ăn tỏi, có thể: Nhai cà phê rang,

rau mùi, kẹo cao su…

– Cách Bảo Quản Tỏi.

Để tỏi chỗ thoáng gió.

 

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 12.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 12.04.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 12.04.2015.

1. Đề tài: HA-BA-CÚC – NGƯỜI KÊU GỌI NGƯỜI CÔNG NGHĨA

SỐNG BỞI ĐỨC TIN.

2. Kinh Thánh: Ha-ba-cúc 1-3; Rô-ma 1:16-17; 3:23-26.

3. Câu gốc:  “Nầy, lòng người kiêu ngạo, không có sự ngay thẳng

trong nó; song người công bình thì sống bởi đức tin mình”(Ha-ba-cúc 2:4).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 124 – 126.

5. Thể loại: Giải đáp thắc mắc.

* CHỈ DẪN: Giải đáp thắc mắc.

78

1. Thông báo đề tài “Ha-ba-cúc, người kêu gọi người công nghĩa

sống bởi đức tin” đến tất cả ban viên và thu thập những thắc mắc

gởi cho ủy viên linh vụ.

2. Ủy viên linh vụ nhờ người có kinh nghiệm  thuộc linh giải đáp

thắc mắc.

3. Các câu hỏi phải sắp xếp theo đúng bố cục để người nghe dễ

dàng hiểu được nội dung của chủ đề. Sau phần trả lời mỗi câu hỏi,

cần dành ra ít phút để ban viên thảo luận hoặc hỏi thêm.

4. Ban hướng dẫn cần kiên nhẫn tìm hiểu ban viên của mình và

nêu lên những thắc mắc thay họ, vì có một số e ngại không dám

hỏi. Ngoài ra ban hướng dẫn cũng nên soạn trước một số câu hỏi

dựa theo nội dung của bài học, phòng khi có  quá ít câu hỏi, bạn

cũng có thể hoàn tất mục tiêu được đề ra cho buổi nhóm.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

I. GIỚI THIỆU.

Ha-ba-cúc được Đức Chúa Trời kêu gọi làm tiên tri dưới triều vua

Giê-hô-gia-kim (608-697 T.C). Ông vốn là một thi sĩ như Ê-sai.

Trong lúc đế quốc Ba-by-lôn đang lớn mạnh vàdân Canh-đê trở

thành mối đe doạ cho nền an ninh Giu-đa sau chiến trận Carchemis

vào năm 650 T.C, Ha-ba-cúc bắt đầu thắc mắc  tại sao kẻ ác được

hưng thạnh. Vấn đề của Ha-ba-cúc được Đức Chúa Trời giải đáp với

câu trả lời vô cùng quan trọng là người công nghĩa sẽ sống bởi đức

tin (Ha 2:4). Đây là đề tài chính của sứ điệp Ha-ba-cúc truyền giảng

cho dân chúng trong lúc bị kẻ thù nghịch uy hiếp. Sau nầy, Luther

cũng đã dùng câu Kinh Thánh ấy làm nền tảng cho công cuộc Cải

Chánh Giáo Hội trong thế kỷ 16.

Qua sứ điệp trên, Ha-ba-cúc kết thúc bằng lời cầu nguyện với

lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời. Trong niềm tin ấy, Ha-ba-cúc đã kêu

gọi người công nghĩa đến cuộc sống thế nào?

II. DẪN GIẢI.

79

1. Vấn Đề Của Ha-ba-cúc.

Trong chức vụ tiên tri, có một vấn đề khiếnHa-ba-cúc thắc mắc

không ít, đó là tại sao người công bình bị kẻ ác hà hiếp? Người công

bình ở đây chỉ về tuyển dân Chúa, là dân sống theo tiêu chuẩn công

nghĩa của Đức Chúa Trời. Còn kẻ ác, chỉ về  dân Canh-đê, hay dân

ngoại, là dân sống gian ác, trái phạm đườnglối chân thật của Chúa.

Như tiên tri Giê-rê-mi, Ha-ba-cúc đặt mình vào nhóm dân có thể

bị kẻ ác áp bức và đã trở thành tiếng kêuthan của Đức Chúa Trời:

“Hỡi Đức Giê-hô-va! Tôi kêu van mà Ngài không nghe tôi đến

chừng nào? Tôi vì cớ sự bạo ngược kêu van cùng Ngài, mà Ngài

chẳng khứng giải cứu tôi!”(1:2). Ha-ba-cúc rất bất bình trước cảnh

quân thù vây dân Chúa. Trong thời kẻ ác hưng thịnh, người tiên tri

thấy dường như chánh trực công nghĩa không còn hiệu lực gì! (1:4).

Mặc dầu được Chúa cho biết Ngài sẽ dùng vuaBa-by-lôn sửa phạt

Giu-đa, nhưng Ha-ba-cúc không hài lòng cảnh kẻ bất nghĩa hung tàn

giày đạp dân Chúa! (1:5-12). Càng nghĩ đến sự thánh khiết oai

nghiêm của Chúa, Ha-ba-cúc càng thêm thắc mắc:  “Mắt Chúa thánh

sạch chẳng nhìn sự dữ, chẳng có thể nhìn được sự trái ngược. Sao

Ngài nhìn xem kẻ làm sự dối trá, khi kẻ dữ  nuốt người công bình

hơn nó, sao Ngài nín lặng đi?”(1:13). Cho nên không thể chịu đựng

được nữa, Ha-ba-cúc quyết khiếu nại vấn đề  của mình trước mặt

Chúa: “Ta sẽ đứng nơi vọng canh, chôn chân nơi đồn  luỹ, rình xem

Ngài bảo ta điều gì, và ta trả lời thế nào về sự đối nại của ta”(2:1)

như Gióp lúc hoạn nạn đã mong ước tìm đến Chúa, để trình bày

duyên cớ của mình trước toà công lý của Ngài (Gióp 23:3-4).

2. Sự Giải Đáp Của Đức Chúa Trời Cho Ha-ba-cúc.

Trong đoạn 1, Ha-ba-cúc có cái nhìn hẹp hòi,  thấy kẻ ác trong

hiện tại được sự thạnh vượng và thắc mắc về sự nín lặng của Chúa.

Nhưng trong đoạn 2, Đức Chúa Trời đưa Ha-ba-cúc đến cái nhìn xa

hơn khi thấy sự cuối cùng của kẻ ác và thấy Chúa đang cầm quyền

80

tể trị. Trong sự giải đáp của Đức Chúa Trời, Ha-ba-cúc học biết

những điều quan trọng sau đây:

a. Người công nghĩa sống bởi đức tin:Trong 2:4 bày tỏ hai

nguyên tắc sống và hai hậu quả khác nhau: Kẻ ác sống bởi sự kiêu

ngạo và gặt lấy sự huỷ diệt, còn kẻ công  bình sống bởi đức tin và

được giải cứu. Vì vậy lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời là lẽ sống của

người công bình (Châm 16:18; Thi 37:1-9). Chữ đức tin trong nguyên

ngữ Hy-bá-lai là  Emunah, có nghĩa đen là “giơ bàn tay lên”. Như

trường hợp Môi-se giơ gậy hướng lên trời trong trận chiến với A-ma-léc và được thắng (Xuất 17:12), nghĩa bóng là “nắm vững hay nắm

chặt”, chỉ về lòng trung thành vâng giữ luậtpháp Đức Giê-hô-va.

Theo hai ý này, lời kêu gọi sống bởi đức tin của Ha-ba-cúc có hàm ý

khuyến khích con dân Chúa, dù trong hoàn cảnhbị kẻ ác hà hiếp,

nhưng người công bình cứ hướng lòng trông cậy Đức Giê-hô-va và

trung tín giữ điều răn Chúa dạy, cuối cùng chắc sẽ được sự giải cứu

và phước hạnh của Ngài.

Chữ đức tin trong 2:4 đã được sứ đồ Phao-lô trích dẫn cho sự giãi

bày lẽ đạo xưng nghĩa bởi đức tin. Trong thờiCựu ước, người công

bình sống bởi đức tin thế nào, thì trong thờiTân ước cũng bởi đức

tin nơi sự đổ huyết chuộc tội lỗi của Chúa  Giê-xu, mà tội nhân được

trở nên người công bình, được giải cứu khỏisự chết của tội lỗi, và

được sự sống bất diệt của Chúa (Rô 1:17,3,23-26; Gal 3:11; Giăng

3:16). Tất cả mọi điều ấy là do đức tin nơi  Chúa Cứu Thế. Vì vậy,

đức tin là nguyên tắc sống cần thiết cho người công bình của mọi

thời đại. Ngày xưa, Ha-ba-cúc kêu gọi người  công bình sống bởi đức

tin. Ngày nay sống trong thời đại ân điển, một tin mừng cho cả mọi

người là: Chẳng những người công bình sống bởi đức tin, mà kẻ tội

nhân cũng có thể nhờ đức tin trong Đấng Christ để được xưng công

bình.

Cho nên sự kêu gọi người đến đức tin trong Chúa Giê-xu là sứ

mạng của Cơ Đốc nhân chúng ta hôm nay.

81

b. Kẻ ác bị đặt dưới án phạt của Chúa (2:5-20): Trước kia Ha-ba-cúc tưởng Đức Chúa Trời chẳng lưu ý đến những điều của kẻ ác như:

tham lợi, kiêu ngạo, tàn nhẫn, bất nghĩa, trụy lạc, thờ thần tượng, giả

dối (2:5-8,15-19), nhưng qua giải đáp của Ngài, Ha-ba-cúc thấy rõ

Đức Chúa Trời đang ngồi trên cao ghi chép từng việc làm gian dối

của kẻ ác, và đã đặt chúng dưới cơn thạnh  nộ kinh khiếp của Ngài.

Ha-ba-cúc nhận biết sự hưng thạnh của kẻ ácchỉ trong chốc lát như

hoa cỏ chóng tàn và để dành cho lửa đoán xét của Chúa thiêu đốt

mà thôi! (2:13-16). Khi nhìn thấy quyền năng lớn của Đức Chúa Trời

bao phủ thế gian, sự oai nghiêm của Đấng Cao  Cả,  Ha-ba-cúc cảnh

cáo mọi người trên đất rằng:  “Nhưng Đức Giê-hô-va ở trong đền

thánh của Ngài, trước mặt Ngài, cả đất hãylàm thinh!”(2:20).

3. Niềm Tin Của Ha-ba-cúc.

Khi nhận thức được ý Chúa, quyền tể trị và chương trình của Đức

Chúa Trời đoán phạt kẻ ác và giải cứu người công bình, Ha-ba-cúc

không còn thắc mắc mà dâng lên Chúa lời cầu nguyện với cả tấm

lòng tin cậy trọn vẹn. Một điểm nổi bật trong đức tin của Ha-ba-cúc

là không bị chi phối bởi nghịch cảnh bên ngoài, như trong đức tin

của Áp-ra-ham: “Người cậy trông khi chẳng còn lẽ trông cậy…”(Rô

4:18). Với đức tin này, Ha-ba-cúc lòng tràn đầy vui mừng, bình an,

hy vọng trong Đấng cứu rỗi quyền năng; thay vì buồn thảm, thắc

mắc, tuyệt vọng như trước kia. Ông nói: “Vì dầu cây vả sẽ không nứt

lộc nữa, và sẽ không có trái trên những cây nho; cây Ô-li-ve không

sanh sản, và chẳng có ruộng nào sanh ra đồ ăn; bầy chiên sẽ bị

dứt khỏi ràn, và không có bầy bò trong chuồng nữa. Dầu vậy, tôi

sẽ vui mừng trong Đức Giê-hô-va, tôi sẽ hớnhở trong Đức Chúa

Trời của sự cứu rỗi tôi, Ngài làm cho chântôi giống như chân con

hươu, khiến tôi đi trên các nơi cao của mình”(3:17-19). Chúng ta

thấy rõ hai tâm trạng khác nhau của Ha-ba-cúc giữa đoạn 1 và 3.

Trong đoạn 1 với sự thắc mắc của lý trí, Ha-ba-cúc bi quan, ngã

lòng, đau khổ, bực dọc, than phiền Chúa. Trái lại trong đoạn 3, Ha-

82

ba-cúc với  đức tin của tấm lòng, Ha-ba-cúc lạc quan, bình an, vui

mừng, hy vọng, kiên nhẫn, chấp nhận nghịch cảnh và ca ngợi Chúa.

Điều này cho thấy người không có đức tin nơiChúa bị chôn vùi trong

nghịch cảnh, hoạn nạn. Nhưng người có đức tinnơi Chúa có thể bước

đi trong nghịch cảnh, trên nghịch cảnh và vượtqua nghịch cảnh.

Tóm lại, qua sự giải đáp của Đức Chúa Trờivà lời cầu nguyện của

Ha-ba-cúc, chúng ta ghi nhận những điểm sau đây:

(1) Trong sự tể trị của Đức Chúa Trời, kẻ ác dù hưng thạnh nhưng

chỉ trong giới hạn của chúng mà thôi.

(2) Trong sự đoán xét kẻ ác, Đức Chúa Trời có thì giờ của Ngài.

(3) Chỉ có người sống bởi đức tin nơi Chúa mới được sự giải cứu

của Ngài trong ngày đoán xét.

(4) Người sống với lý trí không thiếu thắc mắc, nhưng người sống

bởi đức tin không thiếu sự bình an và vui mừng trong Chúa.

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Vấn Đề Của Ha-ba-cúc:

a. Trong 1:4: Ha-ba-cúc nói đến hai hạng ngườinào? Hai hạng

người ấy chỉ về ai?

b. Trong 1:1-4,12-17: Ha-ba-cúc thắc mắc điều gì? Và ông có

những câu hỏi gì với Chúa?

2. Sự Giải Đáp Của Đức Chúa Trời:

a. Trong 2:4: Người công bình sống trên nền tảng nào?

b. Tin cậy Đức Chúa Trời là lẽ sống của người nào? (2:4).

c. Sự cuối cùng của kẻ ác sẽ như thế nào? (2:5-19).

d. Trong 2:12-14,20; 3:2-15: Cho chúng ta học biết gì về Đức

Chúa Trời và quyền năng Ngài?

3. Lời Cầu Nguyện Của Ha-ba-cúc:

a. Trong 3:6-19: Đức tin của Ha-ba-cúc có đặc điểm gì?

83

b. Với đức tin, Ha-ba-cúc đã tìm được những phước hạnh nào?

(3:18-19).

c. So sánh tâm trạng Ha-ba-cúc ở đoạn 1 và 3. Xin hiểu yếu

tố nào khiến Ha-ba-cúc từ chỗ thắc mắc đếnchỗ hài lòng?

4. Sứ điệp người công nghĩa sống bởi đức tincủa Ha-Ba-Cúc, có

liên quan gì đến lẽ đạo cứu rỗi bởi đức tintrong thời Tân Ước không?

Điều nầy khuyến khích chúng ta trong sứ mạng  nào? (Rô 1:16-17,23-26; 10:6-13).

5. Ghi nhận những điểm quan trọng trong sứ điệp của Ha-ba-cúc.

6. Nhìn lại chính mình, xin cho biết:

a. Bạn đang sống bởi đức tin nơi Chúa hay bởisức mình?

b. Trước sự bạo ngược của kẻ ác, bạn có bao giờ thắc mắc về

sự công bình của Chúa và thắc mắc thế nào?

c. Đời sống bạn đã bày tỏ niềm tin nơi Chúavà kêu gọi người

khác đến sự cứu rỗi bởi đức tin như thế nào?

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Tóc Rụng.

Để hạn chế tóc rụng, hãy gội đầu bằng nước rau cải xoong đun

kỹ. Trước khi gội đầu, hãy làm mát-xa da đầu cho kỹ với chút muối

rồi dùng bàn chải chải tóc thật lâu.

– Tóc Không Bóng Mượt.

Hãy lấy một khăn bằng lụa tơ tằm chà lên tóc, tóc sẽ trở nên

mượt mà hơn.