Chuyên mục: NAM GIỚI

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI.25.08.2019

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI.25.08.2019

in NAM GIỚI on 19 Tháng Tám, 2019

Chúa nhật 25.08.2019.

  1. Đề tài: ÂN TỨ CỦA MỌI ÂN TỨ.
  2. Kinh Thánh: 1Cô-rinh-tô 12:28-13:3.
  3. Câu gốc: “Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi” (1Cô-rinh-tô 13:3).
  4. Đố Kinh Thánh: 1Giăng 4-5.
  5. Thể loại: Thảo luận.

Read More

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG CHÚA BAN NAM GIỚI.18.8.2019

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG CHÚA BAN NAM GIỚI.18.8.2019

in NAM GIỚI on 12 Tháng Tám, 2019

Chúa nhật 18.08.2019.

  1. Đề tài: ÂN TỨ TRONG SỰ GÂY DỰNG HỘI THÁNH.
  2. Kinh Thánh: 1Cô-rinh-tô 12:12-30.
  3. Câu gốc: “Anh em là thân của Đấng Christ, và là chi thể của thân…” (1Cô-rinh-tô 12:27).
  4. Đố Kinh Thánh: 1Giăng 1-3.
  5. Thể loại: Giải đáp thắc mắc.

Read More

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI.11.8.2019

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI.11.8.2019

in NAM GIỚI on 5 Tháng Tám, 2019

Chúa nhật 11.08.2019.

  1. Đề tài: SỰ BAN ÂN TỨ THÁNH LINH.
  2. Kinh Thánh: 1Cô-rinh-tô 12:1-11.
  3. Câu gốc: “Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy đều được sự ích chung” (1Cô-rinh-tô 12:7).
  4. Đố Kinh Thánh: 2Phi-e-rơ 1-3.
  5. Thể loại: Thuyết trình.

Read More

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI. CHÚA NHẬT 4.8.2019

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI. CHÚA NHẬT 4.8.2019

in NAM GIỚI on 2 Tháng Tám, 2019

Chúa nhật 04.08.2019.

  1. Đề tài: CÓ CHÚA LÀ CÓ TẤT CẢ.
  2. Kinh Thánh: Rô-ma 7:19-25; Thi 4:8; Phi-líp 4:4; Giăng 3:16.
  3. Câu gốc: “Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao?” (Rô-ma 8:32).
  4. Đố Kinh Thánh: Không đố Kinh Thánh.
  5. Thể loại: Truyền giảng.

Read More

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI. 28.7.2019

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI. 28.7.2019

in NAM GIỚI on 28 Tháng Bảy, 2019

Chúa nhật 28.07.2019.

  1. Đề tài: SINH NHẬT QUÝ III.
  2. Kinh Thánh: Cô-lô-se 3:1-17.
  3. Câu gốc: “…Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời” (Cô-lô-se 3:16).
  4. Đố Kinh Thánh: 1Phi-e-rơ 4-5.

Read More

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI. CHÚA NHẬT 21.7.2019

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI. CHÚA NHẬT 21.7.2019

in NAM GIỚI on 21 Tháng Bảy, 2019

Chúa nhật 21.07.2019

  1. Đề tài: TÔN TRỌNG LỄ TIỆC THÁNH.
  2. Kinh Thánh: 1Cô-rinh-tô 11:17-34.
  3. Câu gốc: “Vì người nào không phân biệt thân Chúa mà ăn bánh uống chén đó, tức là ăn uống sự xét đoán cho mình” (1Cô-rinh-tô 11:29).
  4. Đố Kinh Thánh: 1Phi-e-rơ 1-3.
  5. Thể loại: Học Kinh Thánh nhóm.

Read More

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI. CHÚA NHẬT 14.7.2019

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI. CHÚA NHẬT 14.7.2019

in NAM GIỚI on 14 Tháng Bảy, 2019

Chúa nhật 14.07.2019.

  1. Đề tài: CHÚA NHẬT KINH THÁNH.
  2. Kinh Thánh: Thi thiên 119:1-16.
  3. Câu gốc: “Phước cho những người trọn vẹn trong đường lối mình, đi theo luật pháp của Đức Giê-hô-va” (Thi 119:1).
  4. Đố Kinh Thánh: Gia-cơ 4-5.
  5. Thể loại: Kịch 5’.

Read More

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI. CHÚA NHẬT 7.7.2019

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI. CHÚA NHẬT 7.7.2019

in NAM GIỚI on 7 Tháng Bảy, 2019

Chúa nhật 07.07.2019.

  1. Đề tài: NHÌN BIẾT ĐẤNG LÀM ĐẦU.
  2. Kinh Thánh: 1Cô-rinh-tô 11:2-16.
  3. Câu gốc: “…Đấng Christ là đầu mọi người; người đàn ông là đầu người đàn bà; và Đức Chúa Trời là đầu của Đấng Christ” (1Cô-rinh-tô 11:3).
  4. Đố Kinh Thánh: Gia-cơ 1-3.
  5. Thể loại: Chia sẻ.

Read More

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI, CHÚA NHẬT 16.08.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI, CHÚA NHẬT 16.08.2015

in NAM GIỚI on 31 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 16.08.2015.

1. Đề tài: VẤN ĐỀ SANH SẢN.

2. Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 4:1; 20:1-2; 25:21; 1Sam 1:10-11.

3. Câu gốc: “Kìa, con cái là cơ nghiệp bởi Đức Giê-hô-va mà ra; bông trái của tử cung là phần thưởng” (Thi 127:3).

4. Đố Kinh Thánh: Gióp 29-32.

5. Thể loại: Thảo luận.

* CHỈ DẪN: Thảo  luận.

1. Từ nhiều tuần trước, ủy viên linh vụ giao đề tài cho hai nhóm:

Đề tài 1: Phương pháp thụ tinh nhân tạo là cứu cánh.

Đề tài 2: Phương pháp thụ tinh nhân tạo là hiểm họa.

2. Mỗi nhóm họp lại, cử ra hai người thay mặt nhóm để thảo luận và bênh vực ý kiến của nhóm mình. Cần chuẩn bị nội dung thật kỹ để buổi thảo luận sôi nổi và hào hứng.

3. Ban hướng dẫn nhờ một người hiểu biết Lời Chúa, từng trải thuộc linh và y học để đúc kết giờ thảo luận. Phải hết sức cẩn thận vì đúc kết sai sẽ  làm rối trí các ban viên và gây nguy hại cho Hội Thánh. Nếu cần, cho người ấy mượn tài liệu tham khảo mà bạn đang có.

4. Giờ thảo luận.

a. Người hướng dẫn tuyên bố đề tài thảo luận và mời đại diện hai nhóm lên ngồi đối diện nhau trước các ban viên.

b. Người hướng dẫn tuyên bố quy luật của buổi thảo luận: Mỗi nhóm tự do trình bày, bênh vực ý kiến của nhóm mình (nhưng không tranh cãi để dành phần thắng). Thời gian: 20 phút.

c. Đúc kết (15 phút): Người đúc kết phải dựa trên lời Chúa (chứ không phải lý luận) để nói lên chân lý.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Năm 1987, thế giới hân hoan chào mừng đứa trẻ đầu tiên ra đời tại Anh quốc, với tên gọi rất đặc biệt là “Test tube Baby” (Em bé trong ống nghiệm). Một thành công của phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm mà tờ thời báo London đăng tải tin tức đó với dòng tựa lớn “Our Miracle, Baby of Century!” (Thật là phép lạ của chúng ta, em bé của thế kỷ!)

Theo đà tiến bộ của kỹ thuật, các nhà khoa học hiện nay đang hoài bão là sẽ tìm ra những phương cách mang thai nhân tạo mới mẻ không cần tử cung của người mẹ, để các bà mẹ không còn mang nặng đẻ đau như hiện nay. Những bào thai có thể bắt đầu từ sự thụ tinh trong ống nghiệm, và nuôi dưỡng ngoài thân thể của người mẹ.

Là Cơ Đốc nhân, chúng ta nghĩ thế nào về sự sanh sản và có thái độ nào trước những phương pháp thụ tinh và mang thai nhân tạo?

I. DẪN GIẢI.

A. QUYỀN CHÚA TRÊN SỰ SANH SẢN CỦA LOÀI NGƯỜI.

Theo sự bày tỏ của Kinh Thánh, chúng ta ghi nhận những điểm sau đây:

Sáng Thế Ký 1:28: Sự sanh sản của loài người là do mạng lịnh của Đức Chúa Trời.

Sáng Thế Ký 4:1; 21:1-7; 29:21; 30:1-2,32; 1Sa-mu-ên 1:5,6; Thi Thiên 123:3: Theo mạng lịnh của Đức Chúa Trời, luật sanh sản được đặt trong công lệ thiên nhiên và trong giới hạn thời gian. Nhưng người trong thời Cựu Ước vẫn nhìn biết con cái là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Sự sanh con hay không sanh con là quyền của Chúa, Đấng có quyền trên mọi công lệ thiên nhiên của sự sanh sản, như Ngài ban Sết cho Ê-va thay thế A-bên. Ngài đoái xem Lê-a, ban cho nàng con cái và đồng thời khiến Ra-chên, An-ne son sẻ; Ngài khiến Sa-ra sanh con trong tuổi không còn sanh sản.

Sáng Thế Ký 20:18: Vì cớ A-bi-mê-léc muốn chiếm đoạt Sa-ra, nên Đức Chúa Trời đã hình phạt cả người nhà vua đều son sẻ.

Phục Truyền 7:13: Sự sanh sản thêm nhiều là phước hạnh Đức Chúa Trời ban cho người vâng giữ luật pháp Chúa.

Dân Số Ký 1:1-2; 26:1-2: Sự kiểm tra dân số là do mạng lịnh của Đức Chúa Trời.

1Sử Ký 21:1-4,7-8: Sự kiểm tra dân số mà không có phép của Chúa là một sự đoán phạt.

Qua những điểm trên, chúng ta học biết những điều quan trọng về quyền phép Chúa trên sự sanh sản của loài người.

1. Là Đấng Tạo Hóa, Đức Chúa Trời có quyền tể trị tối cao trên loài thọ tạo.

2. Sự sanh sản là do mạng lịnh Chúa và mức độ sanh sản của loài người ở trong sự kiểm soát của Chúa, Đấng bảo tồn muôn vật.

3. Sự sanh sản được qui định trong công lệ thiên nhiên. Nhưng sự ban cho con cái hay không là do quyền Chúa, là Đấng có toàn quyền, thể hiện công việc của Ngài qua công lệ thiên nhiên và vượt qua công lệ thiên nhiên.

B. HIỂM HỌA CỦA NHỮNG PHƯƠNG PHÁP THỤ TINH NHÂN TẠO.

Từ ban đầu, Đức Chúa Trời ban mạng lịnh sanh sản, thì Ngài cũng đặt luật sanh sản cho loài người. Luật sanh sản được đặt trong những nguyên tắc căn bản sau:

– Tử cung của người mẹ là nơi thai dựng đứa trẻ.

– Từ tử cung người mẹ, đứa trẻ được sanh ra.

Và từ khi sanh ra, đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi vú người mẹ (Sáng 3:16; Thi 22:9-10).

Đây là sự sanh sản theo công lệ thiên nhiên. Theo lẽ thường, người nữ có chồng thì có con. Nhưng trường hợp người son sẻ, tức người nữ có chồng mà không thể sanh sản thì sao? Theo thói tục trong xã hội Đông phương xưa, người nữ son sẻ muốn có con là sử dụng nàng hầu của mình. Cách này cũng gần giống cách ngày nay mượn tử cung người khác để sanh con. Tuy nhiên cách “mượn” vẫn luôn đem lại những chuyện rắc rối trong gia đình (Sáng 16:1-2,4-5; 30:3; 21:8-11). Nhưng đối với người tin kính Chúa, cách tốt nhất để được sanh con cái là tìm cầu Đức Chúa Trời. Như Y-sác cầu nguyện cho vợ mình, vì nàng son sẻ, An-ne cầu xin Chúa một con trai và được Ngài đoái nhậm (Sáng 25:11; 1Sam 10:11,20).

Ngày nay, với sự tiến bộ của y học, sự kiện son sẻ được giải thích bằng nhiều nguyên nhân khác nhau. Hoặc đó là vì một chứng bệnh, hay vì sự không bình thường trong bộ phận sinh dục của người vợ hoặc người chồng. Vì vậy có những phương pháp thụ tinh nhân tạo đã được khám phá để đáp ứng nhu cầu sanh sản. Hơn thế nữa, khoa kỹ thuật sanh sản còn đang tìm kiếm những phương cách để thay thế sự sanh sản theo công lệ thiên nhiên.

Như vậy có thể câu hỏi được đặt ra là: Phương pháp thụ tinh nhân tạo có giá trị gì? Đem lại phúc lợi hay hiểm họa cho nhân loại? Có thể xem đó là cứu cánh để con người tự giải quyết vấn đề sanh sản và hạn chế sanh sản không?

Với những câu hỏi trên, theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, chúng ta có những nhận xét sau đây.

1. Phương pháp thụ tinh nhân tạo không thể thay quyền Chúa. Mặc dầu sự thụ tinh ngoài tử cung người mẹ, nhưng trứng và tinh trùng vẫn là tạo vật của Chúa.

2. Phương pháp thụ tinh nhân tạo làm giảm mất đi tánh chất huyền nhiệm của sự thai dựng con người. Trong Thi Thiên 139, Đa-vít mô tả một cách thật kỳ diệu về sự thai dựng ông trong lòng mẹ, là cả một phép lạ tuyệt tác do bàn tay Chúa dựng nên!

3. Phương pháp sanh sản nhân tạo làm vơi đi tình mẫu tử. Trong tâm lý chung, khi người mẹ biết mình mang thai, thì lòng rung động vui mừng và tình mẫu tử cũng đã chớm nở. Chờ đợi một, hai… chín tháng, người mẹ nghĩ đến đứa con, cảm giác được những chuyển động trong bụng, với những nỗi niềm mong ước tốt lành đặt vào đứa bé sắp chào đời. Khi đến ngày sanh nở, sau cơn đau đớn, vui mừng đầu tiên của người mẹ là nhìn thấy mặt con và tình thương dâng tràn kết chặt với đứa con vừa mới lọt lòng. Người mẹ bồng ẵm âu yếm, cho bú trên lồng ngực mình, nuôi nấng cho đến khi khôn lớn. Tình mẫu tử càng thêm đậm đà biết bao! (Thi 131:2; Ê-sai 49:15).

Mối tình mẫu tử diệu hiền nầy là nhịp cầu thật khắng khít để người mẹ đem lời Chúa vào đời sống của đứa con từ khi còn tấm bé. Nhưng với phương pháp thụ tinh nhân tạo và nuôi dưỡng bào thai ngoài cơ thể của người mẹ sẽ vơi đi tình mẫu tử thiêng liêng ấy. Người mẹ sẽ nhìn đứa con (phôi thai) mình trong phòng thí nghiệm với đôi mắt xa lạ và không có cảm giác gần gũi như với đứa con (phôi thai) mình mang trong người.

4. Coi chừng phương pháp thụ tinh nhân tạo là một hiểm họa! Sự khám phá những phương pháp nầy có nên dùng hay không? Có trái với tinh thần đạo đức con người không? Có lợi ích gì? Và trong giới hạn nào? Đây là vấn đề nan giải đối với con người trước người điều mình khám phá!

Nếu nói rằng phương pháp thụ tinh nhân tạo giúp cho đàn bà son sẻ có con. Nhưng chi phí quá đắt để trả cho phương pháp đó thì có mấy ai được hưởng? Có chăng chỉ cho những người nhà giàu! Và người nghèo son sẻ vẫn là son sẻ! Thật là bất công!

Nếu nói rằng phương pháp sanh sản ngoài tử cung giúp cho người mẹ khỏi mang nặng đẻ đau, thì tử cung của người mẹ sẽ trở thành vô dụng. Mặc dầu người đàn bà tránh khỏi cơn đau đớn sanh nở, nhưng có thể rơi vào cơn khủng hoảng tinh thần vì cảm thấy thiếu vắng đứa con của tử cung mình và mất đi niềm vui khi nhìn thấy đứa con mình sau cơn quặn thắt sanh nở (Giăng 16:21).

Nếu một ngày nào những đứa con được hình thành trong tử cung được thay thế bằng những đứa con được hình thành trong ống nghiệm, rồi một “thế hệ con trẻ ống nghiệm”, tức là những đứa con không có mối liên hệ mật thiết với cha mẹ chúng từ trong tử cung, được “cưu mang” ngoài thân thể của người mẹ, không được liên kết chặt chẽ với gia đình, thì thật là một hiểm họa lớn cho nhân loại biết bao!

Tóm lại, với kỹ thuật thụ tinh nhân tạo thì điểm lợi cho con người không được xác định, nhưng thảm họa đe dọa nhân loại có thể thấy trước. Như vậy giá trị của phương pháp nầy là gì?

C. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA.

Đối với vấn đề sanh sản, trong niềm tin của Cơ Đốc nhân, chúng ta nghĩ thế nào trước những câu hỏi sau đây:

1. Sự hạn chế sanh sản vì lý do nhân mãn có phải là điều trái với mạng lịnh của Chúa về sự sanh sản không?

Trong khía cạnh nhân loại, hiện nay dân số thế giới có khoảng hơn 6 tỉ người. Và người ta đang lo sợ nạn nhân mãn, mà điểm chính là gánh nặng kinh tế “thêm người thêm miệng ăn”! Vì vậy tại một số quốc gia, dân chúng được khuyến khích hạn chế hay bị bắt buộc hạn chế sanh sản. Có thể đây là cách giải quyết nhất thời để thích ứng cho hoàn cảnh nào đó, chớ không phải là giải pháp toàn diện cho vấn đề trên.

Theo sự nghiên cứu của các nhà kinh tế và xã hội học tại các nước phát triển, đã có nhận xét sau: Sự bớt sinh con để bớt gánh nặng kinh tế thật ra chỉ là một giải pháp tạm thời. Sự giới hạn sanh đẻ với kế hoạch lâu dài sẽ đưa xã hội trong tương lai đến hậu quả là số người già tăng, số người trẻ giảm. Nghĩa là số người trẻ đi làm sẽ ít hơn, đồng thời họ phải lo chăm sóc người già càng ngày nhiều hơn! Như tại Hoa Kỳ, thế kỷ trước tính trung bình cứ 9 người trẻ đi làm, để lo cho một người (về hưu). Nhưng hiện nay, tỉ số giảm xuống đến 6/1. Và theo chiều hướng nầy, người ta tính khoảng 50 năm nữa sẽ chỉ còn 3 người trẻ đi làm để đóng thuế cho một người già về hưu! Đó còn chưa nói đến hậu quả tai nạn trong xã hội do ảnh hưởng tâm lý bất bình thường của những đứa trẻ bị “cô đơn” từ những gia đình ít con!

Tóm lại, chúng ta học biết, Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo, cũng là Đấng bảo tồn muôn vật. Khi ban lịnh sanh sản, Ngài biết sức chứa của trái đất và Ngài sắm sẵn đầy đủ vật thực cho loài người trên đất. Kinh Thánh cho thấy rõ ràng con số dân cư trên đất, hạn chế hay gia tăng thuộc quyền tể trị của Ngài. Phần của con người là “làm cho đầy dẫy đất” với mục đích để chu toàn công việc quản trị muôn vật, làm vinh danh Chúa. Cho nên nếu có niềm tin nơi quyền tể trị của Chúa, thì vấn đề nhân mãn không phải là mối đe dọa cho thế giới. Tuy nhiên con người với quyền tự do có thể lựa chọn đầu phục hay bất phục mạng lịnh của Chúa, tin cậy Chúa hay tự giải quyết vấn đề dân số theo đường lối riêng và phải trả giá cho sự lựa chọn của mình.

2. Về khía cạnh cá nhân: Hạn chế sự sanh sản, sử dụng phương pháp thụ tinh nhân tạo có phải là điều hợp lẽ đối với Cơ Đốc nhân không?

Ý hướng muốn có ít con hiện nay thấy hầu hết khắp nơi trên thế giới, nhất là các nước văn minh. Vì áp lực kinh tế gia đình, người nữ dần dần muốn có ít con hơn. Tại Hoa Kỳ, trước kia gia đình người Mỹ có 4 con, nay giảm xuống 2 hoặc 1 con mà thôi. Trong niềm tin của người Cơ Đốc, chúng ta hiểu vấn đề nầy như thế nào?

a. Với mạng lịnh về sự sanh sản trong khía cạnh tự do của con người, không có nghĩa Đức Chúa Trời bắt buộc người ta phải sanh sản cách vô ý thức, vô trách nhiệm, nhưng đòi hỏi con người một sự đáp ứng với trách nhiệm. Nghĩa là trong sự sanh con cái cha mẹ phải được chuẩn bị sẵn sàng trong trách nhiệm, tự lập về tài chánh cùng mọi mặt về tinh thần và đạo đức.

b. Sự chuẩn bị trách nhiệm trong sự sanh con cần đi đôi với đức tin, đừng vì thấy trách nhiệm khó mà từ chối sự ban cho của Chúa. Hãy biết rằng Chúa không bao giờ đặt trên chúng ta điều gì quá sức, ngoài khả năng chúng ta. Hãy cầu nguyện tìm cầu ý Chúa về sự sanh con cái trong cuộc hôn nhân của bạn. Hãy thưa với Chúa về nhu cầu của bạn về con cái.

c. Về mặt thực tế, bạn phải đương đầu với vấn đề kinh tế gia đình khi sanh con cái, nhưng đây là một thách thức đức tin của bạn nơi Đấng chăm sóc thành tín.

d. Sự dự định của bạn về con cái không có gì sai, nhưng điều bạn dự định phải song song với ý định của Chúa. Vì sự ban cho con cái là thuộc quyền Chúa, nên sự tự giới hạn con cái cho mình vì lý do ích kỷ là điều chẳng phù hợp với niềm tin chúng ta. Vì vậy, người Cơ Đốc nên suy xét cẩn thận và theo sự dẫn dắt của Chúa khi đương đầu với những trường hợp “thấy cần” hạn chế sanh sản hoặc ngăn ngừa sanh sản trong thời gian ngắn hạn hay dài hạn. Mỗi trường hợp cần được phân tích lý do, chủ đích, xem có thích hợp với tinh thần dạy dỗ của Kinh Thánh không. Nếu lý do không có gì trái với đạo đức, bạn cũng cần nghĩ đến phương pháp ngăn ngừa sanh sản gần với phương cách thiên nhiên. Nên biết có những phương pháp nhân tạo làm thay đổi tánh tình, hay ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

e. Về vấn đề thụ tinh nhân tạo, bạn nên biết những điều nầy:

(a) Có con cái hay không con cái đều là thuộc quyền của Chúa và do ý chỉ của Ngài.

(b) Đức Chúa Trời vẫn còn làm phép lạ ban con cái cho người cầu xin theo ý muốn Ngài.

(c) Đối với sự không con, xin có vài gợi ý, hoặc bạn tự chọn:

– Cầu nguyện xin Chúa một phép lạ.

– Tìm hiểu ý chỉ của Chúa, đôi lúc Ngài có mục đích nào đó đối với sự không con của bạn.

– Dùng phương pháp thụ tinh nhân tạo: Đây là vấn đề tùy ở mức độ đức tin và sự lựa chọn của bạn. Trường hợp dùng phương pháp nhân tạo, bạn cần cầu nguyện Chúa hướng dẫn tìm người chuyên môn, người khải đạo tốt về thuộc linh và tâm lý để chọn phương pháp nào thích hợp với tinh thần dạy dỗ của Kinh Thánh và không trái với đạo đức luân lý của con người.

Tóm lược.

Sự sanh sản của loài người, con số dân cư trên đất, sự ban cho con cái là thuộc quyền tể trị của Đức Chúa Trời, là Đấng Sáng Tạo và Bảo Tồn muôn vật.

Những phương pháp nhân tạo chỉ là bổ túc cho sự sanh sản chớ không phải là cứu cánh để loài người tự quyết định sự sanh sản của mình.

Sự hoàn toàn thay thế phương cách sanh sản theo công lệ thiên nhiên bằng những kỹ thuật thụ tinh nhân tạo là điều đem lại hậu quả tai hại cho tâm lý con người và sự hủy diệt của xã hội loài người.

* BÀI ĐỌC THÊM.

CON NGƯỜI KIỂU MẪU.

Thường thì các họa sĩ vẫn thuê một số người làm mẫu để tạo nên những tác phẩm nghệ thuật. Những người ấy có khi được gọi là người mẫu, tuy nhiên người mẫu không phải là người lý tưởng mà chỉ là một vật cụ thể để họa sĩ mô phỏng. Trong thời đại khoa học ngày nay, người ta đang nghĩ đến việc tạo ra một giống người mẫu, nghĩa là lý tưởng về nhiều phương diện trong sinh hoạt xã hội. Đã có người nói rằng con người đang tự vẽ mẫu người lý tưởng của mình.

Năm 1962 hai nhà bác học Waston và Crick đã được giải Nobel về công trình mô tả phân tử DNA (DNA là viết tắt của chữ Deoxyribonucleic Acdi). DNA là cơ cấu trong nhiểm sắc thể của tế bào làm sinh hóa ra nhiễm thể đồng dạng mang theo tất cả những đặc tinh di truyền qua tế bào con khi nào mà cuộc phân hóa xảy ra. Như thế có nghĩa là DNA định màu mắt, làm khuôn cho thân thể, cho nhân cách và hằng triệu điều khác với một con vật hay là với một người nào đó. Kể từ năm 1962, các tiến bộ về nghiên cứu chủng loại đã tiến rất nhanh. Người ta có thể biết rằng loài người hiện nay có khả năng chế tạo ra những con người giống hệt như mình. Qua một tiến trình gọi là truyền giống nhân tạo, người ta có thể do từ một nhân tế bào đã trưởng thành mà phát triển một cơ quan mới có cùng những đặc tính chủng loại của con người cho nhân tế bào đó. Truyền giống như vậy khiến cho người ta có thể thấy chính con người của mình sinh ra lần thứ hai và trên đời nầy có vô số những người sanh đôi. Trên lý thuyết, công việc đó có thể giúp con người giải quyết cụ thể những vấn đề về bản chất, dinh dưỡng di truyền và môi trường, nhưng truyền giống như thế cũng tạo nên những phức tạp trong dòng giống mà không ai có thể lường được. Có lẽ ai cũng muốn thấy một người anh hùng áo vải như Lê Lợi tái xuất hiện trên đời, nhưng nếu người ta có thể tái sinh một Hitler thì sao? Rồi có luật lệ nào ấn định việc truyền giống như thế hay không? Nhà bác học Joshua Lederberg là người rất quan tâm đến trách nhiệm xã hội cho biết rằng, những người muốn có một người giống hệt như mình tái xuất hiện là những người có óc tự tôn. Trong việc truyền giống như trên, con người được tái sinh, sẽ giống y hệt người gốc, nghĩa là cũng tự tôn, tự kiêu như vậy.

Nhà bác học Lederberg cho biết rằng người ta đã thí nghiệm thành công đối với loài ếch nhái và sẽ có người thành công trong thí nghiệm đối với loài có vú. Ông tin rằng trong vòng vài chục năm tới người ta có thể thí nghiệm ở loài người. Trong mấy chục năm đó các nhà khoa học sẽ biết rõ hơn cách phát triển của các cơ quan trong con người chúng ta và họ sẽ mở nhiều cuộc thí nghiệm để điều kiện hóa các cơ quan đó.

Nhà bác học Lederberg đã nói rằng: Những chuyện như là cỡ của bộ óc và phẩm tính của óc rồi sẽ được con người kiểm soát. Tuy nói như thế, nhưng nhà bác học nầy cũng rất lo ngại về những tiến bộ đó. Các vấn đề liên quan đến đạo đức, luân lý và chính trị do môn sinh học mới mẻ nầy tạo ra đã làm cho người ta phải e ngại. Ai sẽ sống và ai sẽ chết? Con người lúc ấy sẽ là gì? Là bộ phận máy hay vẫn là con người thường? Ai sẽ là người kiểm soát được sự nghiên cứu trong các địa hạt đó? Những phát minh mới sẽ áp dụng ra sao? Phải chăng người ta sắp buông thả những điều khủng khiếp mà con người chưa chuẩn bị đối phó? Nhiều nhà khoa học dẫn đầu trên thế giới ngày nay đang lo ngại một vụ Hiroshima sinh học sắp bùng nổ để tàn phá cả nhân loại.

Ta thử tưởng tượng khoa sinh học sẽ giúp ngành kỹ thuật sinh sản. Giáo sư Hafez, một nhà sinh học lỗi lạc trên thế giới đã tuyên bố rằng trong vòng 10 đến 15 năm nữa, một người đàn bà khi muốn có con, có thể đi mua cái phôi đông lạnh, rồi đem đến một bác sĩ để đặt phôi ấy vào tử cung. Sau 9 tháng bà sinh ra một hài nhi chẳng khác gì trường hợp thụ thai thường. Cái phôi kia còn bảo đảm rằng đứa trẻ sinh ra sẽ chẳng bị ảnh hưởng gì về chủng loại của người mẹ. Người mua phôi còn có thể biết trước con mình sẽ có tóc màu gì, mắt màu gì, con trai hay con gái, cao lớn hay thấp bé và có thể cả mức độ thông minh của nó nữa.

Rồi tiến bộ hơn nữa, người ta có thể không cần tử cung của bà mẹ. Những hài nhi có thể thụ thai và lớn lên bên ngoài thân thể của con người. Một nhà bác học còn nghĩ đến việc đưa con người lên chiếm ngự các hành tinh bằng cách dùng những cái phôi như thế. Thay vì đưa những người lớn lên hỏa tinh, sau nầy người ta chỉ cần đưa lên trên đó một cái hộp đầy những tế bào và rồi khiến chúng phát triển thành nguyên một thành phố đông người như dưới đất chúng ta. Nhà bác học ấy còn nói rằng việc phóng đôi ba người lên Sao Hỏa đã tốn kém kinh khủng, tại sao không phóng lên những cái phôi nhỏ bé kia, vừa nhẹ lại vừa hữu dụng hơn nhiều.

Tuy nhiên trước khi những tiến bộ ấy ảnh hưởng đến ngoại tầng không gian, thì ngành gọi là kỹ thuật sinh sản kia đã đụng đến cơ sở gia đình trên đất này, làm tan vỡ những ý niệm cổ truyền về tính dục, về tình mẫu tử, về tình yêu, dạy dỗ con cái và giáo dục. Những cuộc bàn luận gia đình rồi sẽ thực hiện trong các phòng thí nghiệm.

Rồi đây vấn đề bàn cãi sẽ là nên sinh sản loài người như thế nào? Và như thế nào là tiêu chuẩn tốt nhất? Ai sẽ định đoạt việc đó? Những câu hỏi nầy không còn mới mẻ gì nữa. Ta có thể tưởng tượng là muốn làm một lớp nhân loại mới sẽ không như nhà nông khổ công chăm sóc đàn lợn đàn gà, nhưng phải là nhà nghệ sĩ biết chọn lựa những màu sắc lạ, những hình thể và vóc dáng…

Một nhà khoa học khác đã nói ước gì chúng ta có thể tạo ra những con người bình đẳng về mọi phương diện. Và đã đến lúc chúng ta có khả năng đào tạo nguyên một thế hệ nhân loại khôn ngoan, kiêu hùng, toàn là những nhà toán học đại tài hay toàn là những thứ tôi mọi.

Người ta còn có khả năng tạo nên những hài nhi có đôi mắt siêu nhiên, có đôi tai đặc biệt, có khả năng biết mọi mùi vị, có sức mạnh bắp thịt kinh khủng, hoặc là có tài năng âm nhạc tuyệt vời. Thật ra vấn đề không còn phụ thuộc khoa học hay kỹ thuật, nhưng là đạo đức và chính trị. Nếu cần cho ý kiến thì những nhà cầm quyền sẽ đòi cha mẹ sinh sản những hài nhi thích hợp với nhu cầu xã hội. Các nhà dự tính tương lai sẽ đòi hỏi có những đứa trẻ đủ khả năng phát triển đến mức tuyệt hảo. Các nhà theo phái lãng mạn sẽ đòi mỗi đứa trẻ phải được phú cho một số năng khiếu đặc biệt về nghệ thuật, và những nhà thiên nhiên học sẽ đòi sản xuất ra những con người hoàn hảo v.v… Thế rồi các nhà khoa học vũ trụ sẽ đòi tạo nên những con người thích hợp với các cuộc du hành. Có thể nói mỗi người trên thế gian đều muốn có một người mẫu theo ý mình, và vấn đề sẽ rắc rối ở chỗ ai là người quyết định giống người cho thế giới mai sau. Tôi là người Việt Nam, chắc chắn tôi sẽ muốn người trên thế giới đều là người da vàng, kiêu hùng, khôn ngoan, tóc đen mắt nâu và có tầm vóc trung bình. Người ở Angola lại muốn toàn thế giới là da đen. Trong khi ấy người Pháp muốn có những anh hùng da trắng như Napoleon. Rồi người Mỹ, người Nhật, người Ba Lan, người Nga nữa, mỗi người muốn một mẫu riêng cho hợp với ý mình. Nếu thỏa mãn tất cả, nhân loại sau này lại cũng có đủ thứ mọi tầng lớp và màu da như hiện nay. Vấn đề sẽ trở thành lẩn quẩn vì không có lối thoát. Điều đáng để ý là con người đang tiến đến chỗ thực hiện, vì giai đoạn nghiên cứu vừa xong. Nhân loại có lẽ sẽ không giết lẫn nhau để tranh giành đất, mà để tranh giành lựa chọn giống người trên đất!

Tôi nghĩ đến câu hỏi của loài người xưa nay là: Tại sao trên đời có nhiều giống người như vậy và tại sao mỗi người khác nhau? Câu trả lời là: Đức Chúa Trời tạo nên dị biệt trong cái đồng nhất. Nghĩa là trong tạo vật gọi là người đó, không ai giống ai cả và đó chính là điểm khôn ngoan đáng kính phục của Đức Chúa Trời. Hơn nữa, tiêu chuẩn mà con người đưa ra để tạo người mẫu là gì? Đó là những tiêu chuẩn hoàn toàn vị kỷ, vụ lợi cho cá nhân, cho một giống người nào đó mà thôi. Con người mẫu đó sẽ không tiêu biểu cho cái gì cả và cũng sẽ lại phục vụ cho những tham vọng của con người mà thôi. Loài người không bao giờ thỏa mãn những gì mình đã đạt được. Đó là một điều không thay đổi từ khi có loài người. Tuy nhiên con người cũng biết những giới hạn của mình nên mới cố vượt ra ngoài giới hạn. Tôi quan niệm rằng tất cả những giới hạn của con người là điều mà Đấng Tạo Hóa đã tạo ra và những định luật dành cho con người là bất di dịch. Nếu cố tâm ra khỏi giới hạn, cố tình phạm luật Chúa thì tất nhiên hậu quả sẽ tai hại vô cùng. Định luật hiện đang ảnh hưởng trên loài người là dị biệt trong cái đồng nhất. Khi nào ta hiểu được định luật đó chính là lúc ta không còn tham vọng thay đổi trật tự của loài người nữa. Thật ra loài người đã tự làm hỏng những gì Đức Chúa Trời đã tạo ra và đó là lý tưởng nhất. Loài người đã phá cả mối liên hệ quý báu giữa trời và người, nên đang mò mẫm tìm tòi các phương cách giải quyết những rắc rối trong đời sống. Trong khi đó con đường ngắn nhất để chấm dứt mọi tranh đấu giành giựt của loài người và cả những đau khổ là quỳ gối thuận phục Đức Chúa Trời. Bạn không cần phải chờ cho đến nhiều năm sau mới thấy một lớp người lý tưởng do nhân loại tạo ra, bạn có thể là con người lý tưởng đó nếu bạn bằng lòng để Đức Chúa Trời tái tạo bạn ngay bây giờ.

Nguyễn sinh (Trích báo Thông Công số 39).

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Xin đọc những câu Kinh Thánh sau và tìm hiểu:

a. Sáng Thế Ký 1:28: Sự sanh sản của loài người là do mạng lịnh của ai?

b. Sáng Thế Ký 4:1; 21:1-7; 29:21; 30:1-3,32; 1Sa-mu-ên 1:5,6; Thi Thiên 127:3: Trong thời Cựu Ước, người ta hiểu thế nào về Đức Chúa Trời và sự sanh con cái? Điều nầy có nghĩa gì?

c. Sáng Thế Ký 20:18: Vì cớ Sa-ra, người nhà của A-bi-mê-léc chịu sự hình phạt nào của Chúa?

d. Phục Truyền 7:13: Một trong phước hạnh Đức Chúa Trời hứa ban cho kẻ vâng giữ điều răn Ngài là gì?

e. Dân Số 1:1-2; 26:1-2: Sự tu bộ dân số Y-sơ-ra-ên là do mạng lịnh của ai?

g. 1Sử Ký 21:1-4,7-8: Ai đã ra lịnh tu bộ dân số Y-sơ-ra-ên và chuốc lấy hậu quả nào? Điều nầy có nghĩa gì?

2. Xin đọc những câu Kinh Thánh sau và tìm hiểu:

a. Sáng Thế Ký 3:16; Thi Thiên 22:9-10: Từ ban đầu, sự sanh sản và nuôi dưỡng được qui định theo phương cách nào?

b. Ê-sai 49:15; Thi Thiên 131:2: Sự sanh sản và nuôi dưỡng theo phương cách thiên nhiên có tác dụng gì đến mối liên hệ giữa con cái và người mẹ?

c. Sáng Thế Ký 16:1-2, 4-5; 25:21; 30:3; 21:8-11; 1Sa-mu-ên 1:10-11,20: Ngày xưa, người đàn bà son sẻ muốn có con có thể chọn một trong hai cách nào? Chúng ta nghĩ cách nào là tốt hơn? Tại sao?

3. Xin cho biết:

a. Những phương pháp sanh sản nhân tạo ngày nay.

b. Những điểm ưu, khuyết của phương pháp sanh sản nhân tạo so với sự sanh sản theo phương cách thiên nhiên.

c. Nếu mai sau, phương pháp sanh sản nhân tạo, sự sanh sản ngoài tử cung của người mẹ, được áp dụng để thay thế cho sự sanh sản theo cách thiên nhiên, thì hậu quả sẽ như thế nào?

4. Bạn đáp ứng thế nào trước vấn đề sanh sản theo phương pháp nhân tạo?

5. Theo bạn, có nên dùng phương pháp hạn chế sanh sản không? Có nên dùng phương pháp sanh sản nhân tạo không? Vì sao?

6. Học biết quyền tể trị của Đức Chúa Trời đối với sự sanh sản của loài người, lòng bạn kính phục Chúa như thế nào?

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI, CHÚA NHẬT 07.08.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI, CHÚA NHẬT 07.08.2015

in NAM GIỚI on 31 Tháng Bảy, 2015

úa nhật 09.08.2015 (Chúa Nhật Thiếu Niên Tin Lành).

1. Đề tài: TÌM HIỂU TUỔI THIẾU NIÊN.

2. Kinh Thánh: Truyền Đạo 11:9-10.

3. Câu gốc: “Hỡi kẻ trẻ kia, hãy vui mừng trong tuổi thiếu niên, khá đem lòng hớn hở trong khi còn thơ ấu, hãy đi theo đường lối lòng mình muốn, và nhìn xem sự mắt mình ưa thích, nhưng phải biết rằng vì mọi việc ấy, Đức Chúa Trời sẽ đòi ngươi đến mà đoán xét” (Truyền Đạo 11:9).

4. Đố Kinh Thánh: Gióp 25-28.

5. Thể loại: Tìm hiểu.

* CHỈ DẪN: Tìm hiểu.

– Mời hai hoặc ba người trong BHD nghiên cứu đề tài “Tìm Hiểu Tuổi Thiếu Niên” và trình bày cho ban Nam giới. Có thể chia ra hai hoặc ba phần để mỗi người trình bày.

– Mời một người lên đúc kết và cầu nguyện.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

TÌM HIỂU TUỔI THIẾU NIÊN.

TUỔI THIẾU NIÊN LÀ TUỔI THAY ĐỔI.

Tuổi thiếu niên là khoảng thời gian những đứa nhỏ chuyển mình để trở thành người lớn. Trong tiến trình này, các em thay đổi trong nhiều phương diện. Có thể nói đây là khoảng thời gian có nhiều thay đổi nhất trong đời sống con người: Thay đổi về thể xác, tâm lý, tình cảm cũng như thay đổi trong cách suy nghĩ, làm việc và cách xử sự với người chung quanh.

I. THAY ĐỔI VỀ THỂ XÁC.

Thay đổi rõ ràng nhất mà chúng ta nhìn thấy nơi tuổi thiếu niên là thay đổi về thể xác. Các em không những lớn vụt lên nhưng thân hình cũng bắt đầu thay đổi, phát triển và có những đường nét đặc biệt, thuộc phái tính của mình. Các em trai thì bể tiếng, giọng nói trầm hẳn xuống, bắp thịt rắn chắc, dáng điệu cứng cáp, mạnh mẽ như một chàng thanh niên. Các em gái thay đổi vóc dáng, thân thể phát triển, mang vẻ dịu dàng yểu điệu của một thiếu nữ. Không ai có thể nói đích xác đến mấy tuổi thì các em bắt đầu thay đổi. Có em bước vào tuổi dậy thì rất sớm và lớn mau, những em khác thì lại bắt đầu tuổi dậy trễ và lớn chậm hơn.

Cùng với sự thay đổi về thể xác, các em mất đi sự hồn nhiên vô tư của trẻ thơ. Thay vào đó các em chú ý nhiều đến con người của mình, nhất là chú ý đến nét mặt và vóc dáng của mình. Đó là lý do tại sao các em thường hay soi gương, chải chuốt, để ý đến áo quần hơn trước. Khi thấy các em thay đổi như thế, người lớn cũng nên tránh chế giễu, phê bình hay la mắng con. Những lời chế giễu hay trêu chọc của người lớn làm các em sợ và khiến các em rất là khổ sở. Đó cũng là một trong những lý do khiến các em không muốn ở gần cha mẹ và người lớn.

Trong thời gian thay đổi về thể xác, các em còn có những thay đổi sau: Mặc cảm tự ti, mệt mỏi và lười biếng, tay chân các em vụng về.

Tuy nhiên, không phải lúc nào các em cũng lừ đừ, mệt mỏi. Có lúc các em lại có quá nhiều sinh lực. Những lúc đó các em không thể ngồi yên một chỗ nhưng cần phải chạy nhảy, la hét hoặc chơi những trò chơi mạnh bạo. Hiểu đặc tính này của các em, chúng ta nên cho các em ăn ngủ đầy đủ và giao công việc cho các em làm. Mặt khác, cho các em có cơ hội chơi thể thao, tham gia những sinh hoạt ở trường và tham dự các sinh hoạt của thanh thiếu niên trong Hội Thánh. Khi người lớn hiểu và thông cảm với các em, sẽ giúp các em đi qua tuổi thiếu niên dễ dàng hơn.

II. THAY ĐỔI VỀ TÂM LÝ.

Về mặt tâm lý và tình cảm, các em thiếu niên cũng có những thay đổi mà cha mẹ thấy khó chấp nhận như:

1. Các em muốn được tự do và tự lập.

Khi bước vào tuổi thiếu niên, các em muốn được tự do, tự lập và không muốn ở dưới quyền kiểm soát của cha mẹ nữa. Ở tuổi nầy, hầu hết các em còn đi học, chưa thể tự nuôi sống. Tuy nhiên, vì cảm thấy mình đã lớn, các em không muốn tuân theo kỷ luật của cha mẹ, nhưng muốn cha mẹ và người chung quanh cho các em được tự do làm điều các em muốn.

Để giúp các em lớn lên có thể tự lo, tự lập, cha mẹ cần giao công việc và trách nhiệm cho các em khi còn nhỏ. Nếu cha mẹ không giao công việc khi các em còn nhỏ, đến tuổi thiếu niên các em sẽ quen tính lười biếng, không giúp đỡ cha mẹ. Lúc đó nếu cha mẹ tức giận, la mắng cũng không có lợi gì. Không những thế, nếu cha mẹ áp dụng kỷ luật quá gắt gao, các em có thể trở thành phản loạn.

2. Các em muốn được tôn trọng.

Trong thực tế có những bậc cha mẹ dù con bao nhiêu tuổi cũng vẫn xem là con nít và luôn luôn sai bảo la mắng, lúc nào cũng bắt con làm theo ý mình. Đây là điều sai lầm, cũng là lý do khiến các em bực bội và không muốn ở gần bên cha mẹ. Tuy các em còn xử sự như trẻ con, nhưng các em đã bắt đầu thay đổi và các em muốn được đối xử như người lớn.

3. Các em bắt đầu thách thức thẩm quyền của cha mẹ.

Khi còn nhỏ, các em rất nể uy quyền của cha mẹ. Cha mẹ bảo gì các em đều vâng theo. Lúc đến tuổi thiếu niên, các em bắt đầu hiểu biết, bắt đầu phân tích vấn đề và biết lý luận để bênh vực mình. Khi bị cha mẹ la mắng, các em thường trả lời lại hoặc nói lên điều các em suy nghĩ để bào chữa cho chính mình. Những lúc đó cha mẹ thường phản ứng lại bằng sự tức giận và càng sửa dạy các em gắt gao hơn vì cho là rằng các em ngang bướng, hổn hào, dám cãi lại cha mẹ. Đây là một trong những lý do khiến giữa phụ huynh và con em trong tuổi thiếu niên thường hay có sự căng thẳng hoặc một khoảng cách nào đó chứ không gần gũi và thân mật như khi các em còn nhỏ.

Để tránh sự căng thẳng giữa cha mẹ và con em trong tuổi thiếu niên, chúng ta cần hiểu con và thông cảm với con, nhất là đừng xem con là con nít, bảo gì cũng phải vâng theo. Khi con bày tỏ ý kiến hay nói lên những lời như có ý phê bình cha mẹ, chúng ta không nên giận dữ, cho là hổn hào hay là làm khôn. Trái lại cần bình tĩnh suy nghĩ lại lời con nói đúng hay sai. Có thể những khuyết điểm của chúng ta mà con cái nhìn thấy là đúng. Nếu thật như thế, chúng ta cần nhìn nhận lỗi lầm và sửa đổi để không mất lòng kính trọng và tin cậy của con. Hơn nữa, chúng ta cũng nên tôn trọng con, đừng đánh đập con hay mắng con bằng những lời thô tục khiến con xấu hổ và mất lòng tin nơi chính mình (Êph 6:4; Côl 3:21).

4. Các em bắt đầu nhìn thấy khuyết điểm của cha mẹ.

Ở tuổi nầy các em bắt đầu nhận ra rằng cha mẹ không phải lúc nào cũng đúng, cũng biết tất cả mọi chuyện và làm được tất cả mọi việc. Hơn nữa, với những kiến thức thu thập ở trường và sự phát triển của trí khôn, các em dần dần hiểu biết nhiều hơn, lắm khi các em biết những điều cha mẹ không biết. Thêm vào đó, các em lại có tính đoán xét và phê bình người lớn, các em cũng muốn làm người lớn vì nghĩ rằng mình đã lớn và đã hiểu biết nhiều.

Tất cả những điều đó cộng lại khiến các em thiếu niên có ý xem thường cha mẹ hoặc xem cha mẹ cũng không có gì hơn các em. Vì suy nghĩ như thế, các em hay cãi lời cha mẹ, lý luận với cha mẹ và không vâng lời cha mẹ cách tuyệt đối như khi còn nhỏ. Trong lúc này, nếu cha mẹ không tin Chúa thật lòng nhưng tin Chúa cách hời hợt bề ngoài, các em sẽ biết ngay. Nếu cha mẹ làm những điều không ngay thẳng hoặc sống giả dối với người chung quanh, các em cũng sẽ nhìn thấy ngay.

Trong trách nhiệm dạy con, nếu muốn con nên người, chúng ta phải nêu gương tốt cho con noi theo. Chúng ta không chỉ dạy con bằng lời nói nhưng dạy con bằng hành động, nhất là trong cách cư xử hằng ngày với người chung quanh. Khi con đã hiểu biết, chúng ta nên trò chuyện với con cách thân mật như bạn. Đừng ngại cho con biết những khuyết điểm hay lỗi lầm của chúng ta. Khi làm như thế cha mẹ không mất lòng tôn kính của con nhưng con sẽ thấy gần với cha mẹ hơn. Khi con nói lên nhận xét của mình về cha mẹ, chúng ta không nên giận dữ hay phủ nhận điều con nói, cũng đừng tự ái nhưng hãy để ý, suy nghĩ điều con nói và sửa đổi nếu cần. Nếu con nhận xét chúng ta cách sai lầm, đừng bực bội nhưng bình tĩnh giải thích cho con. Nếu con đúng, cha mẹ nên khiêm nhường công nhận con nói đúng và cho con biết, cha mẹ cũng đang cố gắng để ngày càng trở nên người tốt hơn. Cách cư xử chân thật, bình đẳng và tốt đẹp đó sẽ đem con cái đến gần với cha mẹ.

III. THAY ĐỔI VỀ TÌNH CẢM.

Trong tất cả những thay đổi của con cái trong tuổi thiếu niên, thay đổi tình cảm là điều các bậc phụ huynh khó chấp nhận hơn cả. Đến tuổi này, tự nhiên các em không muốn ở gần cha mẹ nữa. Các em cũng có vẻ như không cần đến sự chăm sóc và hướng dẫn của cha mẹ nữa. Cả cha mẹ lẫn con cái đều thấy có cái gì bực bội hay ngại ngùng khi phải đối diện với nhau. Vì thái độ của con, cha mẹ không còn nói với con những lời ngọt ngào, âu yếm. Vì cách đối xử của cha mẹ, các em cũng không muốn ở gần hay trò chuyện với cha mẹ.

Sự thay đổi này không ai giải thích được, cũng không ai hiểu để giải thích cho ai. Và cứ thế, giữa cha mẹ và con cái có một sự cách biệt hầu như không sao nối liền được. Cha mẹ không hiểu tại sao mình vẫn thương con như trước mà tình thương đó con không chấp nhận. Các em không hiểu tại sao tình thương của cha mẹ, tình thương mà trước kia các em vui thỏa bây giờ không đáp ứng được sự mong chờ khao khát trong lòng các em.

Mục sư Eugene Peterson là người có nhiều kinh nghiệm trong việc hướng dẫn các em trong tuổi thiếu niên. Ông cho biết tình cảm giữa cha mẹ và con em trong tuổi thiếu niên có nhiều thay đổi. Theo lời Kinh Thánh dạy cũng như theo kinh nghiệm trong đời sống, chúng ta có bốn loại tình cảm khác nhau giữa người này với người kia. Phân tích các tình cảm này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự thay đổi tình cảm của con cái đối với cha mẹ.

Trong đời sống, con người cần bốn loại tình cảm khác nhau đó là tình yêu thương, tình bạn, tình yêu lãng mạn và tình yêu vị tha.

1. Tình yêu thương.

Đây là loại tình cảm đơn giản nhất, phát xuất cách tự nhiên giữa hai cá nhân. Đây là tình cảm tự nhiên mà Đấng Tạo Hóa đã đặt để trong cha mẹ và con cái, đặc biệt là khi con còn nhỏ. Tuy nhiên, đến tuổi thiếu niên, tình thương đơn sơ này chấm dứt. Sự hòa hợp trong việc trao và nhận tình thương giữa cha mẹ và con cái hình như bị gián đoạn. Dầu vậy, các em vẫn cần tình thương của cha mẹ, nhưng tình thương đó phải được bày tỏ theo một cách khác, thích hợp hơn.

Để những đứa con trong lứa tuổi thiếu niên không khước từ tình thương và sự âu yếm của cha mẹ, cha mẹ cần tế nhị trong cách bày tỏ tình yêu thương đối với con. Chẳng hạn như tránh ôm hôn con chỗ đông người hay trước mặt bạn bè của con. Tránh xoa đầu, ôm cổ hay mắng yêu con trước mặt người khác. Có một điều khác chúng ta cũng cần để ý là tránh gọi tên con bằng những tên cha mẹ đặt cho con khi con còn là em bé sẽ làm cho các em xấu hổ.

2. Tình bạn.

Tình bạn thường phát sinh và nẩy nở giữa những người làm việc chung với nhau. Những người cùng lứa tuổi, cùng hoàn cảnh, trình độ, cùng giai cấp và cùng đeo đuổi một mục tiêu cũng dễ trở thành bạn của nhau. Riêng cha mẹ và con cái, tình bạn ít khi có, nhất là trong những năm con còn sống trong gia đình cha mẹ. Cha mẹ và con cái khác nhau về tuổi tác, kinh nghiệm, thẩm quyền, trình độ… vì thế khó trở thành bạn của nhau.

Hơn nữa, khi con em chúng ta đã lớn, nhất là đến tuổi thiếu  niên, các em bận rộn nên ít khi có mặt bên cha mẹ. Riêng cha mẹ thấy con lớn rồi nên để nhiều thì giờ hơn để đi làm, buôn bán hoặc lo những công việc riêng của mình chứ không để ý đến con nhiều như trước. Từ đó, những giây phút đẹp đẽ giữa cha mẹ và con cái càng ngày càng hiếm hoi và cuối cùng chấm dứt hẳn.

Như vậy, khi con đến tuổi thiếu niên, tình yêu thương tự nhiên cũng như tình bạn giữa cha mẹ và con cái đều không còn.

3. Tình yêu lãng mạn.

Khi tạo dựng nên con người, Chúa ban cho con người nhu cầu về tình yêu lãng mạn. Đây là tình yêu liên quan đến tính dục và tạo ra trong ta sự khao khát nơi người mình yêu. Chính trong tình yêu nầy, chúng ta thấy được hạnh phúc, toàn vẹn và thỏa lòng. Dù tình yêu này thường chỉ thấy nơi vợ chồng và những người yêu nhau, nhưng theo các nhà tâm lý học, những người thân trong gia đình cũng có tình yêu này, đặc biệt giữa cha mẹ và con cái.

Nhưng khi con đến tuổi thiếu niên, tình yêu này giữa các em và cha mẹ cũng chấm dứt. Các em thiếu niên không muốn cha mẹ ôm ấp vỗ về nữa, các em không muốn làm người đáp lại sự khao khát tình yêu của cha mẹ nữa. Trong các em bây giờ cũng có sự khao khát một tình yêu lãng mạn, nhưng cha mẹ không phải là người các em tìm đến để sự khao khát đó được đáp ứng.

4. Tình yêu vị tha.

Ngoài ba loại tình cảm là tình thương, tình bạn và tình yêu, giữa cha mẹ và con cái còn một tình cảm khác, gọi là tình yêu vị tha. Đây là tình yêu mà Chúa dùng để yêu chúng ta, cũng là loại tình yêu Kinh Thánh nói đến rất nhiều. Khi con cái đến tuổi thiếu niên, cha mẹ cần thương con bằng tình yêu này, vì lúc đó các em có nhiều điều khó thương, làm những điều khiến cha mẹ xấu hổ hay buồn phiền. Nếu không sống với con bằng tình yêu thương nầy, lúc đó cha mẹ và con cái sẽ trở thành ấu trĩ, khô khan và ích kỷ.

Chỉ có tình yêu thương hi sinh vô điều kiện mới có thể đem cha mẹ và con cái đến gần với nhau. Nếu không, con em có thể tìm cách lìa xa cha mẹ và cha mẹ cũng không muốn giữ con trong gia đình nữa. Nếu trường hợp đó xảy ra thì thật là đáng tiếc. Ước mong quý vị vẫn còn có thể lấy tình yêu thương của Chúa để giữ con trong vòng tay của mình và hướng dẫn con đi qua giai đoạn chuyển tiếp đầy khó khăn nầy.

IV. THAY ĐỔI TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI NGƯỜI CHUNG QUANH.

Đặc điểm trong thay đổi về tâm lý nơi các em thiếu niên mà phụ huynh thấy rõ nhất là các em có vẻ muốn tách rời khỏi cha mẹ hay muốn vượt ra ngoài vòng kiểm soát của cha mẹ. Thật ra đây là một thay đổi bình thường và cần thiết, nằm trong chương trình tăng trưởng mà Đức Chúa Trời đã định cho con người. Các em cần trải qua những thay đổi này để trở nên người trưởng thành, tự lập và có tinh thần trách nhiệm.

Trong 1Cô-rinh-tô 13:11, sứ đồ Phao-lô viết: “Khi tôi còn là con trẻ, tôi nói như con trẻ, tư tưởng như con trẻ, suy xét như con trẻ; khi tôi đã thành nhân, bèn bỏ những sự thuộc về con trẻ”. Câu Kinh Thánh này nói về sự tăng trưởng tâm linh nhưng cũng áp dụng về sự tăng trưởng về thể xác, tâm lý và tình cảm. Khi một người đã trưởng thành, người đó phải bỏ đi những điều trẻ con.

Theo ông G. Keith Olson, một bác sĩ tâm lý Cơ đốc, chuyên về ngành khải đạo gia đình cho biết, các em trong tuổi thiếu niên thường có những đặc điểm sau trong mối quan hệ với người chung quanh:

a. Các em thích có nhiều thì giờ ở riêng một mình và thích gặp bạn bè cùng lứa tuổi.

b. Các em thường không thích tham gia các sinh hoạt tôn giáo.

c. Các em hay có những điều giấu cha mẹ.

d. Các em không muốn tiếp nhận lời khuyên dạy hay phê bình của cha mẹ.

e. Các em không chấp nhận kỷ luật của cha mẹ.

g. Tính phản loạn của tuổi thiếu niên là điều bình thường, không có gì đáng lo ngại.

V. THAY ĐỔI VỀ CẢM XÚC.

Có thể nói, tuổi thiếu niên là tuổi có những cảm xúc lên xuống và thay đổi đột ngột nhất. Những cảm xúc vui buồn xảy đến cách bất ngờ khiến cha mẹ không hiểu và không biết phản ứng như thế nào. Chính vì vậy cha mẹ cần ghi nhớ những điều sau đây để chúng ta hiểu con và thông cảm với con hơn.

– Cảm xúc của con người tự nó không có gì là sai quấy hay tội lỗi.

– Tuổi thiếu niên là tuổi có cảm xúc rất mạnh.

– Các em thiếu niên thường dùng cảm xúc để đạt được điều mình muốn.

Hơn thế nữa, cha mẹ cần biết một số cảm xúc thường có trong các em như sau: Giận dữ, thờ ơ, lãnh đạm, dễ chán, hay buồn, hay mang mặc cảm (Mặc cảm tội lỗi – tội thật, hay tội tưởng tượng hay không chính đáng – mặc cảm về chính mình). Sợ hãi và lo lắng, tinh thần căng thẳng, vui vẻ thái quá, tình yêu.

Những thay đổi đột ngột, lắm khi như là kỳ cục nơi con em chúng ta trong tuổi thiếu niên là điều tự nhiên và bình thường. Những thay đổi này có thể khiến cha mẹ cũng như chính các em thấy bực bội, nhưng đó là những thay đổi cần thiết. Đức Chúa Trời là Đấng tạo dựng nên con người, Ngài ban cho đời sống những giai đoạn khác nhau. Không ai tránh được những thay đổi của chính mình trong từng giai đoạn.

Nếu hiểu được những thay đổi trong tiến trình trẻ thơ trở thành người lớn và biết những nguyên nhân đằng sau sự thay đổi đó, chúng ta có thể đối ứng với con em của mình cách dễ dàng hơn. Chúng ta sẽ biết phải làm gì để giúp đỡ các em và đáp ứng nhu cầu của các em để các em vượt qua tuổi thiếu niên một cách tốt nhất, êm đẹp nhất.