Chuyên mục: NHI ĐỒNG

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

in NHI ĐỒNG on 9 Tháng Năm, 2024

BÀI 2. ĐIỀU RĂN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 19:1-20; 20:1-17; 24:12.

II CÂU GỐC: “Yêu Đức Chúa Trời tức là chúng ta vâng giữ các điều răn của Ngài; điều răn của Ngài không phải là nặng nề.” (1Giăng 5:3).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Đức Chúa Trời ban Mười Điều Răn cho dân Y-sơ-ra-ên để làm chuẩn mực cho đời sống họ.

– Cảm nhận: Chúa muốn chúng ta hết lòng thờ phượng Ngài và vâng giữ các Điều Răn của Ngài.

– Hành động: Em quyết tâm vâng theo Điều Răn của Đức Chúa Trời.

IV. PHẦN SUY GẪM CỦA GIÁO VIÊN.

       Đức Chúa Trời giải cứu dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ nô lệ Ai-cập, để họ được tự do và trưởng thành trong Ngài. Nếu tự do không dẫn đến trưởng thành thì chúng ta sẽ đi đến chỗ ở trong một ách nô lệ nặng nề hơn trước, đó là ách nô lệ trong tâm hồn. Hình ảnh của sự trưởng thành mà Đức Chúa Trời dùng là hình ảnh của chim ưng mang con nó trên đôi cánh và dạy cho chúng sự tự do tuyệt vời của việc bay lượn.

      Người được hưởng sự tự do phải có trách nhiệm sử dụng sự tự do đó một cách khôn ngoan vì vinh hiển của Đức Chúa Trời và vì ích lợi của những người khác. Mười Điều Răn không chỉ là luật lệ điều phối tuyển dân của Chúa mà còn là một phần trong giao ước mà Đức Chúa Trời đã lập với Y-sơ-ra-ên. Trong đó, bốn điều răn đầu đặc biệt hướng về Đức Chúa Trời và sáu điều răn sau nói đến con người, cách chúng ta liên hệ với những người khác tùy thuộc vào cách chúng ta tương giao với Đức Chúa Trời. Vì nếu chúng ta yêu mến Đức Chúa Trời và Lời Ngài thì chúng ta cũng sẽ yêu mến những người lân cận chúng ta và làm điều lành cho họ.

      Cách chúng ta thờ phượng Đức Chúa Trời, sống giữa mọi người, bày tỏ chúng ta là người tự do và trưởng thành trong Chúa. Là người hướng dẫn các em nhi đồng, bạn phải hết lòng thờ phượng Đức Chúa Trời, vâng giữ các Điều Răn của Ngài để các em noi theo, bạn nhé!

V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Phương thức thờ phượng Chúa.

  1. Vật liệu: Trang tài liệu trong sách học viên.
  2. Thực hiện: Đây là trò chơi đố chữ, giáo viên dựa vào gợi ý, hướng dẫn các em đoán ra 4 chữ. Rồi đem 4 chữ đó điền vào chỗ trống. Sau khi làm xong, giáo viên hướng dẫn các em đọc ra ba phương cách để thờ phượng Chúa. Bài học hôm nay sẽ cho các em biết dân Y-sơ-ra-ên thờ phượng Chúa như thế nào.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị cụ: Photo lớn hình vẽ trong phần phụ lục rồi tô màu cho đẹp).

  1. Vào đề.

Các em thân mến, bất cứ quốc gia nào trên thế giới nầy cũng có luật pháp, còn ở nhà trường phải có nội qui, và trong gia đình phải có phép tắc. Vì sao chúng ta cần phải có luật lệ? (Cho các em nói ra suy nghĩ của mình). Luật lệ là để giúp chúng ta sống vui vẻ với nhau. Khi em chơi một trò chơi nào đó, nếu không có luật chơi, nhất định sẽ gây ra tranh cãi.

      Ngày xưa Đức Chúa Trời cũng đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên những qui tắc đặc biệt để vâng giữ. Những qui tắc đó cũng là cơ sở pháp luật ngày nay của chúng ta. Bây giờ các em cùng tìm hiểu về luật pháp của Đức Chúa Trời nhé. 

      2. Bài học.

      Từ ngày nầy đến ngày khác, Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên tiếp tục đi về vùng đất mà Đức Chúa Trời hứa ban cho họ. Một ngày nọ, họ đi đến một ngọn núi cao, Đức Chúa Trời bảo Môi-se lên cầu nguyện trên núi, còn dân Y-sơ-ra-ên đóng trại nghỉ ngơi ở phía dưới. Lúc Môi-se trở về, ông mời các trưởng lão đến, nhắc họ nhớ lại Đức Chúa Trời đã dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập như thế nào. Môi-se nói với họ: “Đức Chúa Trời có một chương trình đặc biệt cho chúng ta. Chỉ cần chúng ta sẵn lòng tuân theo các điều răn, thì chúng ta sẽ trở thành tuyển dân của Ngài”. Dân chúng trả lời: “Chúng tôi quyết tâm tuân theo Lời Chúa”. Môi-se lại trở lên núi cầu nguyện lần nữa, dân chúng tiếp tục chờ đợi. Khi Môi-se trở về, ông nói với dân chúng: “Đức Chúa Trời bảo: Trong ba ngày tới, ai nấy phải chuẩn bị thật tinh sạch”. Tất cả dân chúng đều tuân theo mệnh lệnh của Chúa. Đến ngày thứ ba, mọi người đều sẵn sàng. Bỗng, chớp nhoáng sấm sét nổi lên, một đám mây dày đặc bao phủ lấy núi. Tiếng kèn thổi vang động, Môi-se dẫn dân sự ra đứng dưới chân núi. Khói bay mù mịt khắp núi. Cả hòn núi rung động dữ dội. Đức Chúa Trời gọi Môi-se và ông rời khỏi dân sự, đi lên núi. Ở đó, Đức Chúa Trời ban luật pháp của Ngài cho Môi-se.

     Dân chúng cứ chờ đợi. Cuối cùng, Môi-se từ trên núi xuống, ông đem Mười Điều Răn mà Đức Chúa Trời muốn dân Y-sơ-ra-ên vâng giữ nói cho họ nghe: “Đây là những điều Đức Chúa Trời phán: “Các ngươi không được thờ thần nào khác ngoài Ta”. “Chớ làm bất cứ hình tượng nào để thờ lạy”.

   “Không được lấy Danh Ta để chơi đùa”.

    “Sáu ngày trong tuần, các ngươi có thể làm việc, nhưng ngày thứ bảy là ngày đặc biệt, các ngươi phải nghỉ ngơi để thờ phượng Đức Chúa Trời”.

     Mọi người đều chú ý lắng nghe, Môi-se tiếp tục đọc những điều răn của Đức Chúa Trời: “Phải hiếu kính cha mẹ. Nếu làm như vậy, các ngươi sẽ có cuộc sống vui vẻ và lâu dài”.

     “Ngươi chớ giết người”.

     “Vợ chồng phải trung thành, chung thủy với nhau”.

    “Không được trộm cướp”.

    “Không được nói dối”.

    “Không được tham lam những gì của người khác”.     

     Đức Chúa Trời đem Mười Điều Răn nầy viết trên hai bảng đá. Dân Y-sơ-ra-ên biết Đức Chúa Trời muốn họ vâng giữ toàn bộ điều răn của Ngài. Họ biết rằng, chỉ cần họ vâng giữ, Đức Chúa Trời sẽ giúp đỡ và chăm sóc họ. Dân sự hứa: “Chúng tôi sẽ vâng phục Đức Chúa Trời”.

  1. Ứng dụng.

     Chúa ban Mười Điều Răn để giúp chúng ta biết cách thờ phượng Chúa và sống vui vẻ với nhau. Nếu vâng giữ các điều răn của Chúa, các em sẽ có một cuộc sống phước hạnh.

    Bây giờ các em mở sách học viên bài 2 để làm bài tập. Nhìn vào các mệnh lệnh em có thể chọn ra điều răn của Đức Chúa Trời không? Để giúp các em hoàn thành bài tập phần A, giáo viên đọc ra các mục trong hình vẽ cách rõ ràng.

    Trong phần bài tập B, nói với các em: Khi chúng ta thờ phượng Đức Chúa Trời là chúng ta bày tỏ tình yêu của mình đối với Ngài, chúng ta tin cậy và xem Lời Ngài là quí trọng. Vì thế, vâng lời Chúa là một trong những cách thờ phượng Ngài. Trong tuần nầy, em sẽ vâng giữ điều răn như thế nào? Dùng hình vẽ hoặc chữ viết để bày tỏ.

 VI. PHỤ LỤC.

BẢNG DA MƯỜI ĐIỀU RAN.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 8 Tháng Năm, 2024

BÀI 1.              LỜI NÓI KHÔNG THÀNH THẬT

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 25:19-28, 27:1-45.

II. CÂU GỐC: Ai nấy hãy nói thật với người lân cận mình; tại cổng thành, hãy xét xử chân thật, công minh và ôn hòa;” (Xa-cha-ri 8:16).

III.  BÀI TẬP.

A. CÙNG SUY NGHĨ.

Em xem hình và trả lời các câu hỏi sau.

  1. Gia-cốp nói dối điều gì?

……………………………………………………….

     2. Gia-cốp đã gạt cha như thế nào?

……………………………………………………..

 

……………………………………………………..

    3. Khi Y-sác tin đó là Ê-sau, ông đã làm gì?

……………………………………………………..

……………………………………………………..

  1. Khi Ê-sau biết sự thật, ông có hành động như thế nào?

……………………………………………………..

……………………………………………………..

  1. Sau khi Gia-cốp nói dối, trong nhà đã xảy ra chuyện gì?

…………………………………………………………

………………………………………………………….

 

B. NẾU LÀ EM, THÌ EM LÀM SAO?

Giả sử em ở trong trường hợp giống như hai bạn dưới đây, thì em sẽ xử sự như thế nào?

  1. Trường hợp thứ nhất.

Trong lúc làm bài thi, Châu lén chép bài của Văn, nhưng thầy giáo không biết. Sau khi thầy giáo chấm điểm, thì bài của Châu được điểm cao trong lớp.

 

Theo em, Châu nên:

  • Thú nhận với thầy giáo là em đã xem bài của bạn.
  • Không nói gì cả.
  • Khoe điểm với các bạn khác.
  • Từ nay về sau không chép bài của người khác nữa.

 

  1. Trường hợp thứ hai.

Minh mượn xe đạp của Phương đi chơi, nhưng do chạy nhanh thắng gấp, em bị té ngã và xe va vào đá, nên bánh xe trước bị hư.

Theo em,  Minh nên:

  • Nhờ cha mẹ sửa xe giùm.
  • Nói với Phương là người khác làm hư xe.
  • Nói thật với Phương để bạn ấy thông cảm.
  • Chờ lúc Phương bận, đem trả xe đạp cho bạn ấy, giả vờ như không có chuyện gì xảy ra cả.
BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 8 Tháng Năm, 2024

BÀI 1. LỜI NÓI KHÔNG THÀNH THẬT

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 25:19-28, 27:1-45.

II. CÂU GỐC: “Ai nấy hãy nói thật với người lân cận mình; tại cổng thành, hãy xét xử chân thật, công minh và ôn hòa;” (Xa-cha-ri 8:16).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Gia-cốp nói dối gây ra những hậu quả buồn khổ cho bản thân và gia đình.

– Cảm nhận: Lời nói không thành thật luôn đưa đến những điều không tốt.

– Hành động: Xin Chúa giúp các em luôn là người chân thật.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. VUI MÀ HỌC.

* Xếp hình sao.

  1. Mục đích: Giúp các em phân biệt giữa Gia-cốp và Ê-sau .
  2. Vật liệu: 2 tấm bìa lớn (trước giờ học, giáo viên vẽ và cắt sẵn hình ngôi sao. Viết các đặc tính, đặc điểm, hình dạng của Ê-sau và Gia-cốp trên từng cánh sao), viết chì màu, kéo.
  3. Thực hiện: Giáo viên trộn lẫn lộn các cánh sao, để các em xếp lại cho thích hợp. Khi các em đang xếp hình, giáo viên có thể đặt một số câu hỏi hướng dẫn các em phân biệt hai anh em. Ví dụ: “Minh à, ở đây nói Gia-cốp là người chăn chiên, em tìm trong ngôi sao kia xem Ê-sau làm gì?”

                             

Ê-SAU                                                            GIA-CỐP

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

Nếu có ai nói dối với các em, khi biết được sự thật, các em cảm thấy thế nào? Nếu các em nói dối người khác, các em sẽ có cảm giác gì? Hôm nay chúng ta sẽ cùng học với nhau về một người nói dối, ông tưởng rằng nói dối là cách hay nhất để đạt được điều mình thích. Ông đã nói dối điều gì? Sau đó, việc gì đã xảy ra? Bây giờ các em cùng lắng nghe nha.

  1. Bài học.

Đây là Y-sác (cho các em xem con rối Y-sác). Ông đã già yếu, hai mắt mờ dần và không còn thấy đường nữa. (Giơ con rối Rê-bê-ca lên). Còn đây là Rê-bê-ca, vợ của Y-sác. Hai vợ chồng có hai con trai sinh đôi. Tính tình lẫn hình dáng của hai người con nầy khác hẳn nhau.

(Cho các em nói về những đặc tính của hai anh em mà các em đã biết trong phần Sinh hoạt đầu giờ, sau đó giáo viên bổ sung cho đầy đủ ý).

(Cầm con rối Ê-sau lên). Đây là Ê-sau, khắp người có rất nhiều lông, được cha yêu thương nhất. Ê-sau săn bắn rất giỏi, thường nấu các món thịt rừng mời Y-sác ăn. (Giơ cao con rối Gia-cốp lên). Còn đây là Gia-cốp, ra đời sau Ê-sau  vài phút. Gia-cốp không có nhiều lông như Ê-sau, thích ở nhà và chỉ đi các nơi gần nhà mà thôi. Gia-cốp thích chăm sóc chiên, và được bà Rê-bê-ca yêu thương vô cùng.

Một hôm, Y-sác gọi Ê-sau: “Con ơi”. Ê-sau thưa: “Con ơi!” Ê-sau thưa: “Dạ, con đây.” Ông nói: “Nầy, cha đã già rồi, chẳng biết chết ngày nào. Bây giờ, con hãy lấy khí giới, ống tên và cây cung của con, ra đồng săn thú rừng cho cha. Rồi con làm một món thật ngon theo sở thích của cha, và dọn lên cho cha ăn để cha chúc phước cho con trước khi qua đời.”

Ê-sau rất vui mừng khi biết cha dự định chúc phước cho mình. Ông lập tức đi vào rừng săn bắn còn Y-sác chờ Ê-sau  trở về và đem thức ăn đến.  

Nhưng ông Y-sác không biết rằng bà Rê-bê-ca đã nghe được câu chuyện của hai cha con. Bà muốn Gia-cốp nhận được phước hạnh nên gọi cậu con trai cưng đến, kể lại tỉ mỉ những lời Y-sác nói cùng Ê-sau, rồi bảo Gia-cốp: “Vậy, con ơi, bây giờ hãy nghe lời mẹ bảo”. Bà Rê-bê-ca tiếp tục nói trong khi Gia cốp chăm chú lắng nghe: “Con mau ra ngoài bầy gia súc, bắt cho mẹ hai dê con thật mập, rồi mẹ sẽ làm một món thật ngon, đúng với sở thích của cha con. 10Con sẽ đem đến cho cha ăn để ông chúc phước cho con trước khi qua đời.”

Gia-cốp suy nghĩ một lát rồi nói: “Tuy đôi mắt ba đã mù nhưng con nghĩ mình không dễ gì dối gạt được ba đâu! Nếu ba rờ con thì sao? Con không có lông, còn trên người anh con thì đầy lông, chắc chắn ba sẽ biết con không phải là Ê-sau”.

Bà Rê-bê-ca trấn an: “Con ơi, để mẹ chịu sự rủa sả đó cho con; con cứ nghe lời mẹ, ra bắt hai dê con đi.” Thế là Gia-cốp đồng ý vì ông cũng mong muốn làm chủ gia đình.

Trước hết, Gia-cốp giúp mẹ nấu nướng món ngon, đúng như sở thích của cha mình. Bà mẹ lấy áo tốt nhất của Ê-sau để ở nhà bảo Gia-cốp mặc vào, lại dùng da dê bao hai tay và cổ của Gia-cốp sao cho giống y như Ê-sau. Xong đâu đấy, bà giao cho Gia-cốp đĩa thịt thơm phức và bánh mới nướng. Gia-cốp đến gần cha và thưa: “Cha ơi!” Y-sác đáp: “Cha đây, con là đứa nào đấy?” Gia-cốp thưa: “Con là Ê-sau, con trưởng nam của cha đây. Con đã làm như lời cha dặn bảo. Xin cha ngồi dậy, ăn món thịt săn của con rồi cha đích thân chúc phước cho con.” Y-sác hỏi: “Sao con săn được nhanh thế?” Gia-cốp thưa: “Nhờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của cha giúp con được may mắn.”. Y-sác nói với Gia-cốp: “Con ơi, con lại gần đây để cha rờ xem con có phải là Ê-sau, con của cha không.” Gia-cốp lại gần cha mình là Y-sác. Ông rờ và nói: “Giọng nói thì của Gia-cốp, mà tay lại của Ê-sau.”  Ông lại hỏi: “Có đúng con là Ê-sau, con trai của cha không?” Gia-cốp thưa: “Dạ phải, chính con đây.” Rồi Y-sác bảo: “Đem cho cha món thịt rừng con săn được để cha ăn và chúc phước cho con.” 

Gia-cốp đứng sang một bên, phục vụ bữa ăn cho cha. Sau đó, Y-sác giữ lời hứa, chúc phước cho Gia-cốp thành người chủ gia tộc. Gia-cốp đã nói dối và chiếm được phước lành! Ông đạt được điều mình mong muốn.

Khi Ê-sau đi săn về, biết Gia-cốp cướp phước lành thì hết sức tức giận, đòi giết Gia-cốp. Gia-cốp đành phải bỏ nhà trốn đi. Ban đầu Gia-cốp định chờ khi Ê-sau nguôi giận sẽ trở về nhà, nhưng ông đã sai lầm. Gia-cốp phải xa nhà hai mươi năm và không còn cơ hội gặp cha mẹ của ông nữa. Gia-cốp tưởng nói dối sẽ dễ dàng đạt được điều mình mong muốn. Nhưng rất tiếc ông phải gánh lấy lo buồn và đau khổ.

  1. Ứng dụng.

Hướng dẫn các em mở sách học viên, dùng các câu hỏi trong phần “Cùng suy nghĩ” giúp các em ôn bài.

Sau đó nói với các em: “Hôm nay, chúng ta cùng suy nghĩ về hai việc đã xảy ra.” Bạn giải thích cho các em hiểu trong hình thứ nhất đã xảy ra điều gì? Và cùng các em thảo luận câu trả lời. Hỏi các em: Làm như vậy sẽ dẫn đến điều gì? Theo em, nếu Châu cũng làm như vậy em sẽ cảm thấy thế nào? (Theo cách đó để thảo luận sự việc thứ hai).

Khi các em phát biểu, tiếp nhận ý kiến của các em. Đừng phê bình vì mục đích của bài học nầy là khuyến khích các em thành thật nói lên suy nghĩ của mình, chứ không phải bắt các em nói những điều mà giáo viên muốn nghe. Hãy luôn nói những câu khích lệ các em như: “Đó là một lý do thú vị”, hay “Ý kiến của em rất hay”. Nghe khen như vậy các em sẽ mạnh dạn phát biểu hơn.

Hướng dẫn các em học câu gốc và nói với các em: “Đức Chúa Trời muốn chúng ta luôn thành thật. Ngài biết điều nầy rất khó thực hiện. Nhưng Ngài hứa sẽ giúp chúng ta. Bây giờ chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ”. Giáo viên hướng dẫn các em cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ các em trở nên một người chân thật.

Khuyến khích các em đem tập học viên về nhà cho phụ huynh kiểm tra và thực hiện phần “Sinh hoạt gia đình”.

V. PHỤ LỤC.

A. HÌNH ẢNH.

  1. Vật liệu: 1 tấm bìa lớn, viết chì, viết chì màu.
  2. Cách làm: Giáo viên vẽ hình dưới đây lên tấm bìa, rồi tô màu thật đẹp.

B. CON RỐI BẰNG BAO GIẤY.

  1. Vật liệu: 4 bao giấy, 4 tấm bìa nhỏ, keo, kéo, viết chì màu, vải hoa hay giấy hoa.
  2. Cách làm: Trước hết, vẽ các hình sau đây vào các tấm bìa rồi cắt ra. Sau đó cắt ngang tấm bìa hình người (khoảng ngang miệng). Dán phần đầu người lên phần dưới bao giấy, phần thân người lên phần trên bao giấy (như hình dưới). Cuối cùng dùng bút chì màu vẽ mắt, mũi, miệng, quần áo…, và lấy vải hoa trang trí lên quần áo cho đẹp mắt.

RÊ-BÊ-CA Y-SÁC

 

 

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

in NHI ĐỒNG on 7 Tháng Năm, 2024

BÀI 1. CHÚA JÊSUS CẦU NGUYỆN

I. KINH THÁNH: Mác 1:35-38; 6:45-46; Lu-ca 5:15-16; 11:1-4

II. CÂU GỐC: “Hãy thường xuyên dùng mọi lời khẩn nguyện, nài xin, mà cầu nguyện trong Thánh Linh. Để đạt mục tiêu nầy, hãy kiên trì, tỉnh thức, và cầu nguyện cho tất cả các thánh đồ.” (Ê-phê-sô 6:18).

III. BÀI HỌC.

  Chúa Jêsus luôn cầu nguyện. Ngài cầu nguyện trên núi. Ngài cầu nguyện trong thành phố. Ngài cầu nguyện tại nhà. Chúa Jêsus luôn cầu nguyện. Ngài cầu nguyện trên đường đi. Ngài cầu nguyện nơi đồng vắng. Ngài cầu nguyện trong đền thờ.

IV. CÙNG SUY NGHĨ.

Xem hình và trả lời các câu hỏi:

  1. Chúa Jêsus đang ở đâu?

…………………………………………

  1. Ngài đến đó để làm gì?

…………………………………………

  1. Tại sao Chúa Jêsus thích cầu nguyện?

…………………………………………

  1. Nếu Chúa Jêsus làm việc quá nhiều hoặc quá mệt, em nghĩ Chúa sẽ làm gì?

………………………………………………

Đánh dấu X vào ô vuông những nơi em có thể cầu nguyện:

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

in NHI ĐỒNG on 7 Tháng Năm, 2024

BÀI 1. CHÚA JÊSUS CẦU NGUYỆN

I. KINH THÁNH: Mác 1:35-38; 6:45-46; Lu-ca 5:15-16; 11:1-4.

II. CÂU GỐC: “Hãy thường xuyên dùng mọi lời khẩn nguyện, nài xin, mà cầu nguyện trong Thánh Linh. Để đạt mục tiêu nầy, hãy kiên trì, tỉnh thức, và cầu nguyện cho tất cả các thánh đồ.” (Ê-phê-sô 6:18).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Chúa Jêsus thường xuyên cầu nguyện với Đức Chúa Trời.

– Cảm nhận: Chúa muốn em trò chuyện với Ngài bằng cách cầu nguyện.

– Hành động: Mỗi ngày đều dành thời gian cầu nguyện với Chúa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

     A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

*Lời cầu nguyện của em.

  1. Mục đích: Giúp các em kể ra và giải thích được những việc các em cầu nguyện.
  2. Vật liệu: Giấy trắng và viết chì màu.

3.Thực hiện: Yêu cầu các em diễn đạt bằng hình vẽ những gì mà các em đã cầu nguyện với Chúa. Trước tiên, bạn có thể dùng những câu hỏi giúp các em suy nghĩ như: “Sáng nay các em có cầu nguyện không? Các em cầu nguyện những gì?” (Các em có thể nói đến bất cứ người nào, vật gì hay món ăn nào cũng được).

   Cho các em vẽ những gì các em đã cầu nguyện ra giấy. Khi các em vẽ xong, nộp cho giáo viên xem. Giáo viên cùng cho các em xem hình vẽ, khen ngợi các em để nâng cao tinh thần học tập của các em.

     B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

   Trong thời gian Chúa Jêsus sống trên đất nầy, Ngài làm rất nhiều điều kỳ diệu. Có một điều Chúa Jêsus thường âm thầm làm. Các em có muốn biết điều đó không? Bây giờ cô sẽ kể cho các em nghe chuyện ấy nha! Cô hy vọng các em sẽ rất thích thú khi nghe câu chuyện này.

  1. Bài học.

   Một ngày nọ, Chúa Jêsus hóa năm cái bánh và hai con cá cho hơn năm ngàn người ăn. Sau khi mọi người ăn no nê, Chúa Jêsus rất mệt vì suốt ngày giảng đạo và phân phát thức ăn cho cả đoàn dân đông. Chúa Jêsus bảo các môn đồ: “Trời tối rồi, các con chèo thuyền qua bên kia bờ hồ trước đi, Ta sẽ đến sau”. Các môn đồ ngạc nhiên hỏi nhau: “Tại sao Chúa Jêsus lại không cùng đi nhỉ? Tại sao Ngài ở lại đó một mình thế?” Tuy vậy, họ vẫn làm theo lời Ngài dặn.

   Khi mọi người đã đi hết, Chúa Jêsus bắt đầu đi lên núi. Ngài càng lên cao, tiếng ồn ào càng lúc càng nhỏ. Cuối cùngkhông còn một tiếng động nào nữa, chỉ còn lại riêng một mình Ngài.

   Các em nghĩ xem, Chúa Jêsus đã mệt mỏi lắm rồi! Trong chỗ yên tĩnh và thoải mái như vậy thì nằm xuống ngủ là sướng nhất. Nhưng Chúa Jêsus lên núi không phải để ngủ, Ngài muốn được cầu nguyện một mình. Chúa Jêsus thích tìm nơi yên tĩnh để trò chuyện với Đức Chúa Trời.

   Kinh Thánh cho biết Chúa Jêsus rất nhiều lần cầu nguyện một mình ở nơi yên tĩnh (cho các em xem hình). Có một lần, trời chưa sáng, lúc các môn đồ vẫn còn đang ngon giấc, thì Chúa Jêsus đã thức dậy, lặng lẽ ra khỏi nhà. Khi các môn đồ thức dậy, họ tìm kiếm Chúa Jêsus và thấy Ngài đang cầu nguyện ở một nơi vô cùng yên tĩnh. Các môn đồ biết đối với Ngài, việc trò chuyện với Đức Chúa Trời là vô cùng quan trọng.

   Có những lúc Chúa Jêsus cầu nguyện suốt đêm, nhiều khi đến giờ ăn Ngài vẫn còn cầu nguyện. Các môn đồ ngạc nhiên tự hỏi: “Sao Chúa Jêsus cầu nguyện thường xuyên như vậy? Ngài cầu nguyện điều gì nhỉ?”

   Một hôm, khi Chúa Jêsus vừa cầu nguyện xong, các môn đồ liền đến thưa cùng Ngài: “Chúa ơi, xin dạy chúng con cầu nguyện”. Chúa Jêsus rất vui, Ngài liền dạy họ cầu nguyện. Vì muốn các môn đồ thường xuyên cầu nguyện, Ngài đã dạy họ một bài cầu nguyện có thể dùng mọi lúc mọi nơi. Đó là “Bài Cầu Nguyện Chung”, ngày nay được phổ biến khắp thế giới.

   Có rất nhiều người yêu thích bài cầu nguyện nầy vì câu mở đầu rất hay. Chúa Jêsus nói: “Khi các con cầu nguyện, hãy gọi Đức Chúa Trời là “Cha trên trời”. Chúa Jêsus muốn các em nghĩ đến Đức Chúa Trời như là người cha yêu thương luôn chăm sóc và sẵn sàng nghe con cái nói bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu.

   Bây giờ, các em hãy cầu nguyện cảm tạ Đức Chúa Trời vì tình thương của Ngài dành cho các em. Đức Chúa Trời luôn sẵn sàng lắng nghe lời cầu nguyện của các em. “Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha yêu dấu của chúng con ở trên trời. Cảm ơn Ngài đã yêu thương và luôn nghe lời cầu nguyện của chúng con. Nhân danh Chúa Jêsus. A-men”.

  1. Ứng dụng.

   Cho các em mở sách học viên, giải thích mục “Em có thể cầu nguyện”, khuyến khích các em về nhà cầu nguyện và cho các em biết Đức Chúa Trời vẫn luôn nghe thấy các em cầu nguyện dù em ở bất cứ nơi nào.

– Cuối cùng, hướng dẫn các em cầu nguyện kết thúc.

– Khuyến khích các em đem bài tập về nhà cho ba mẹ xem và cùng thực hiện mục “Sinh hoạt gia đình”.

HỌC VIÊN NHI ĐỒNG QUÝ 1 NĂM 2024

HỌC VIÊN NHI ĐỒNG QUÝ 1 NĂM 2024

in NHI ĐỒNG on 6 Tháng Năm, 2024

BÀI 1.   ĐỨC CHÚA TRỜI BAN CHO MỌI SỰ CẦN DÙNG

I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 15:22-25; 16:1-3; 11-16; 17:1-6.

II. CÂU GỐC:Đức Chúa Trời tôi sẽ cung ứng mọi nhu cầu của anh em theo sự giàu có vinh quang của Ngài trong Đấng Christ Jêsus”. (Phi-líp 4:19).

III. BÀI TẬP

A. BỨC TRANH CÒN TRỐNG.

  Ở trong đồng vắng, dân Y-sơ-ra-ên nhiều lần oán trách Đức Chúa Trời và Môi-se.

 Đức Chúa Trời yêu thương dân Y-sơ-ra-ên, Ngài ban cho họ những gì?………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

B. EM CẢM TẠ CHÚA.

    Đức Chúa Trời ban mọi sự cần dùng. Em hãy vẽ hoặc ghi vào ô trống những gì Đức Chúa Trời ban cho em trong tuần.

C. AI TINH MẮT.

Em quan sát bức tranh dưới đây sẽ thấy những thức ăn ngon ơi là ngon và những bộ quần áo thật đẹp. Nào hãy bắt đầu quan sát nhé!

GIÁO VIÊN NHI ĐỒNG QUÝ 1 NĂM 2024

GIÁO VIÊN NHI ĐỒNG QUÝ 1 NĂM 2024

in NHI ĐỒNG on 6 Tháng Năm, 2024

BÀI 1. ĐỨC CHÚA TRỜI BAN CHO MỌI SỰ CẦN DÙNG

I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 15:22-25; 16:1-3; 11-16; 17:1

II. CÂU GỐC:Đức Chúa Trời tôi sẽ cung ứng mọi nhu cầu của anh em theo sự giàu có vinh quang của Ngài trong Đấng Christ Jêsus”. (Phi-líp 4:19).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Đức Chúa Trời cung ứng thức ăn và nước uống cho dân Y-sơ-ra-ên.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời ban cho chúng ta đủ mọi sự cần dùng.

– Hành động: Cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự ban cho của Ngài.

  1. PHẦN SUY GẪM CỦA GIÁO VIÊN.

Dân Y-sơ-ra-ên đã kinh nghiệm về quyền năng giải cứu của Chúa khi vượt qua Biển Đỏ, nhưng khi đối diện với những nhu cầu thuộc thể thì họ lo lắng nói với Môi-se: “Chúng tôi sẽ ăn gì? Sẽ uống gì?” Bởi vì đồng vắng khô hạn không có thức ăn, nước uống! Đây cũng là điều rất dễ hiểu đối với chúng ta – những con người yếu đuối.

Trên con đường theo Chúa, đôi lúc Đức Chúa Trời đưa chúng ta vào sự thử nghiệm để giúp chúng ta tăng trưởng về mặt thuộc linh, nhưng Ma quỉ lại cám dỗ để chúng ta càng yếu hèn thêm, càng non kém về thuộc linh thêm. Nếu chúng ta tin cậy Đức Chúa Trời và vâng lời Ngài thì chúng ta sẽ vượt qua được cuộc thử nghiệm và tăng trưởng, nhưng nếu vô tín thì chúng ta sẽ thất bại và cứ ở mãi trong tình trạng non nớt về thuộc linh. Thái độ mà chúng ta chọn để đối phó với những khó khăn sẽ quyết định hướng đi cho cuộc đời chúng ta.

Bạn có cảm tạ Chúa vì những gì Ngài ban cho trên cuộc đời của mình không? Nếu đời sống mà chỉ toàn những thử thách, chúng ta sẽ dễ nản lòng. Nhưng nếu đời sống chỉ toàn là những vui thú, chúng ta sẽ sinh ra phóng túng và chẳng bao giờ có được tư cách thanh cao. Chúa có cách làm cân bằng những khó khăn trong đời sống của chúng ta. Giữa sa mạc mênh mông, Đức Chúa Trời đã ban thức ăn, nước uống dư dật cho dân Y-sơ-ra-ên. Trong cuộc sống của chúng ta cũng vậy, Ngài luôn chu cấp mọi nhu cầu cấp thiết cho chúng ta. Vậy hãy hết lòng tin cậy Chúa và cảm tạ Ngài vì sự nuôi nấng, chăm sóc của Ngài bạn nhé.

  1. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
  2. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Trang bị cho chuyến du lịch.

  1. Vật liệu: Giấy vẽ, bút màu.
  2. Thực hiện: Giáo viên giải thích cho các em cách chơi của hoạt động nầy: Giả sử em đi du lịch đến một hoang đảo, không có bất cứ thứ gì cả. Em sẽ chuẩn bị gì cho chuyến đi nầy? Em sẽ mang theo thứ gì? Hãy vẽ những thứ em sẽ mang theo vào giấy. Khi các em vẽ xong, mời các em chỉ ra hai thứ quan trọng nhất trong cuộc sống.

Câu chuyện hôm nay sẽ cho các em biết những thứ mà dân Y-sơ-ra-ên cần để sống khi ở trong đồng vắng, và ở nơi đó, Đức Chúa Trời đã chăm sóc họ như thế nào nhé.

 

  1. BÀI HỌC KINH THÁNH.

 

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn hình vẽ trong phần phụ lục rồi tô màu cho đẹp).

  1. Vào đề.

Các em thân mến, Đức Chúa Trời ban cho chúng ta rất nhiều thứ trong cuộc đời nầy. Các em có thể kể ra những thứ mà Chúa ban cho em không? (Cho các em kể ra: Thức ăn, nước uống, áo quần v.v…). Khi dân Y-sơ-ra-ên rời khỏi Ai-cập, đi trong đồng vắng thiếu thốn mọi thứ, Đức Chúa Trời làm sao để cung ứng cho nhu cầu của họ? Bài học nầy sẽ trả lời cho các em câu hỏi đó.

  1. Bài học.

Đức Chúa Trời giúp dân Y-sơ-ra-ên đi qua Biển Đỏ để đến vùng đất kỳ diệu mà Ngài hứa ban cho họ. Nhưng muốn đến được vùng đất tốt đẹp đó, họ phải vượt qua sa mạc khô khan, nắng cháy, chỉ có cát và cát mà thôi. Dân chúng đi trong sa mạc nóng bỏng đã ba ngày rồi mà vẫn không gặp được nguồn nước. Họ càng lúc càng khát, miệng họ khô khốc, cơn khát hành hạ họ dữ dội. Bỗng họ nhìn thấy dòng nước trong xanh, đẹp đẽ phía trước. Mọi người kêu lên mừng rỡ: “Nước! Nước”. Họ chạy ùa đến uống, nhưng nước rất đắng, không thể nào uống được. Nhìn thấy dòng nước nhưng lại không uống được khiến cho dân chúng càng khát hơn nữa. Họ bắt đầu oán trách. Họ quên tất cả những việc tốt đẹp mà Đức Chúa Trời từng làm cho họ. Tuy nhiên Môi-se vẫn không quên, ông cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời.

Đức Chúa Trời chỉ cho Môi-se một khúc cây, bảo ông cầm lấy ném xuống nước. Môi-se làm theo Lời Chúa. Ồ thật là lùng, dòng nước nơi đó đã hóa ngọt. Dân chúng vui mừng vì có nước uống thỏa thích.

Nhưng chỉ sau đó mấy tuần, họ lại oán trách lần nữa. Thức ăn họ đem theo từ Ai-cập đã hết! Giữa sa mạc khô cằn nầy không thể mua hoặc kiếm thứ gì ăn được. Họ lằm bằm oán trách Môi-se: “Vì sao ông dẫn chúng tôi đến nơi nầy? Nếu ở Ai-cập ít nhất chúng tôi cũng còn có thức ăn, còn ở đây chúng tôi sẽ chết vì đói mất thôi!” Môi-se cầu nguyện, và Đức Chúa Trời lại cho ông biết nên làm thế nào. Môi-se nói với dân chúng: “Chiều nay các ngươi sẽ nhận biết rằng, chính Đức Chúa Trời dẫn các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập, và Ngài sẽ ban cho các ngươi mọi sự cần dùng”.

Chiều hôm đó, chim cút bay đến nhiều vô số. Chúng bay thật thấp, dày kín chung quanh nơi dân Y-sơ-ra-ên đóng trại. Thế là dân Y-sơ-ra-ên đã có thịt để ăn. Sáng hôm sau khi dân chúng vừa ra khỏi trại, họ thấy những hạt nhỏ, tròn, màu trắng như sương, trải đầy trên mặt đất. Họ hỏi nhau: “Cái gì vậy?” Môi-se nói: “Đó là bánh mà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta làm thức ăn”. Ăn thử thì thấy nó ngọt như loại bánh làm bằng mật ong, dân chúng gọi thức ăn nầy là Ma-na. Từ đó, cứ mỗi sáng người ta lượm ma-na đủ ăn trong ngày. Dân chúng vui vẻ vì có đầy đủ thức ăn rồi.

Dân Y-sơ-ra-ên lại tiếp tục đi về miền đất Đức Chúa Trời hứa ban cho họ. Dọc đường vì thiếu nước, họ lại oán trách lần nữa. Môi-se nói: “Vì sao các ngươi cứ oán trách hoài? Đến lúc nào các ngươi mới chịu tin Đức Chúa Trời là Đấng chăm sóc các ngươi?” Rồi Môi-se cầu nguyện: “Chúa ơi! Con phải làm gì đây?” Đức Chúa Trời hướng dẫn Môi-se những điều phải làm. Môi-se dẫn các trưởng lão và dân Y-sơ-ra-ên đến một tảng đá to. Ông giơ cao gậy, đập mạnh vào tảng đá. Thình lình, nước từ tảng đá tuôn tràn ra, mọi người lại có nước để ăn uống, tắm giặt thỏa thích.

  1. Ứng dụng.

Tuy dân Y-sơ-ra-ên thường xuyên oán trách, nhưng Đức Chúa Trời vẫn chăm sóc họ. Đức Chúa Trời muốn mọi người tin cậy nơi Ngài. Đức Chúa Trời biết chúng ta cần những gì và Ngài sẽ ban cho chúng ta mọi sự cần dùng.

Cho các em mở sách học viên bài 1 để làm bài tập. Hướng dẫn các em vẽ tiếp bức tranh chưa hoàn thành trong phần A. Sau đó hỏi các em: Vì sao dân Y-sơ-ra-ên oán trách? Theo em, lúc họ oán trách, Môi-se cảm thấy như thế nào? Nếu dân Y-sơ-ra-ên nhớ rằng, Đức Chúa Trời luôn ban cho họ mọi điều cần dùng, họ có oán trách không?

Giáo viên tiếp tục cho các em quan sát kỹ hình vẽ trong phần B, xem Đức Chúa Trời ban cho chúng ta những gì? Mời các em ghi thêm ý kiến của mình vào chỗ trống cuối cùng. Khi biết Đức Chúa Trời luôn quan tâm đến em, Ngài ban cho mọi điều cần dùng, em sẽ làm gì? (Cảm tạ Chúa).

 

  1. PHỤ LỤC.

Dân Y-sơ-ra-ên oán trách Môi-se.