Thẻ: MÔI-SE – NGƯỜI LÃNH ĐẠO CỦA DÂN TỘC

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG DÀNH CHO BAN PHỤ NỮ. CHÚA NHẬT 25.02.2024

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG DÀNH CHO BAN PHỤ NỮ. CHÚA NHẬT 25.02.2024

in PHỤ NỮ on 19 Tháng Hai, 2024

Chúa nhật 25/02/2024.

  1. Đề tài: MÔI-SE – NGƯỜI LÃNH ĐẠO CỦA DÂN TỘC.
  2. Kinh Thánh: Xuất 3:1-14; 34:28-35.
  3. Câu gốc: “Phải cẩn thận tuân giữ những điều răn, chứng cớ và luật lệ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã truyền cho anh em” (Phục 6:17 BHĐ).
  4. Đố Kinh Thánh: Châm Ngôn 4-6.
  5. Thể loại: Trò chơi lớn.

* CHỈ DẪN: Trò chơi lớn.

– Chủ đề: NGƯỜI LÃNH ĐẠO.

– Địa điểm: Khuôn viên nhà thờ hoặc trong phòng nhóm.

– Thời gian: 1h30’.

  1. CHUẨN BỊ.

– Chia ban Phụ nữ ra thành 3-4 nhóm. Mỗi nhóm cử một trưởng nhóm và một thư ký nhóm.

– Nhóm thảo luận và trả lời đầy đủ các câu hỏi của bài học tại các trạm, dựa theo phần Kinh Thánh làm nền và tài liệu tham khảo.

– Vật dụng: Kinh Thánh, giấy, viết.

– Xem trước (Xuất 3:1-14; 34:28-35).

Trưởng nhóm điều khiển ban viên giải mật thư và hướng dẫn thảo luận, thư ký nhóm ghi chép lời giải nội dung mật thư, những lời giải đáp.      

  1. THỰC HIỆN.
  2. Thông báo cuộc thi và thể lệ.
  3. Cuộc thi.

– Hàng ngũ trật tự và báo cáo số nhóm viên khi đến mỗi trạm.

– Chấp hành đúng theo yêu cầu tại mỗi trạm.

– Tất cả ban viên tham gia hết mình.

– Thời gian để thực hiện yêu cầu tại mỗi trạm là 15’.

  1. Chấm điểm tại mỗi trạm.

– Hàng ngũ trật tự, báo cáo nghiêm chỉnh …………. 10 điểm.

– Giải mật thư chính xác …………………………………. 10 điểm.

– Đến trạm sớm nhất……………………………………….. 10 điểm.

– Tinh thần tham gia (đầy đủ nhóm viên) ………….. 10 điểm.

(Thiếu một người trừ 1 điểm).

  1. Diễn tiến trò chơi.

– NHD tóm tắt nội dung (Xuất 3:1-14; 34:28-35) cho ban Phụ nữ cùng nghe.

            – NHD cho các nhóm xuất phát bằng trò chơi “Về đất hứa” để nhận mật thư 1.

            – Cách chơi: Mỗi nhóm cử ra 3 người. Tất cả người chơi của các nhóm lên xếp hàng ngang quay lưng về đích.

NHD đứng ở đích quay lưng về hàng ngang khoảng 10m. Nghe tiếng còi, mọi người quay mặt lại và chạy về đích. Thình lình NHD thổi còi và quay lại, tất cả phải đứng yên, (ai cử động hoặc nhúc nhích sẽ bị loại). NHD lặp lại vài lần để tìm người mắc lỗi. Ai về đích, chạm tay đến NHD trước là thắng cuộc và nhóm có người thắng cuộc sẽ nhận được mật thư trước.

Nhóm nào nhận được mật thư thì tập họp nhóm lại và bắt đầu giải mật thư.

* Mật thư 1: TÌM GẶP CẬU BÉ TRONG RƯƠNG MÂY.

± Cách làm: Viết nội dung mật thư lên trên mảnh giấy có hình chiếc nôi. Sau đó, dùng bút màu trang trí một mặt chiếc nôi. Dùng kéo cắt ra thành nhiều mảnh (nhiều, ít tùy khả năng của ban viên). Bỏ tất cả mảnh giấy cắt vụn vào một bì thư, dán kín lại. Bên ngoài viết dòng chữ để làm chìa khóa. Sau khi nhận mật thư. Các nhóm sẽ đọc kỹ câu chìa khóa và ráp tất cả các mảnh vụn theo hình vẽ để đọc được nội dung mật thư.

± Chìa khóa: Hãy để chúng tôi được sống bên nhau.     

_Trạm 1.

            ± Yêu cầu:

– Tập trung nhóm thành hàng dọc, báo cáo số người trong nhóm.

– Phát câu hỏi viết sẵn ra giấy, cho nhóm thảo luận và đánh dấu X vào câu trả lời đúng nhất.

  1. Cậu bé trong rương mây là con của:

            p Vợ chồng người Hê-bơ-rơ.

            p Vợ chồng người Ê-díp-tô.

            p Không rõ.

  1. Vì sao cậu bé bị bỏ xuống sông?

            p Sợ nuôi không nổi.

            p Sợ Pha-ra-ôn phát hiện.

p Tất cả đều đúng.

  1. Ai đặt tên Môi-se cho cậu bé?

            p Mẹ cậu bé.

            p Công chúa Pha-ra-ôn.

            p Cha cậu bé.

Mật thư 2: NÊIHC NĂHC IỜƯGN PẶG MÌT

± Chìa khóa: Cá lội ngược dòng.

_Trạm 2.

            ± Yêu cầu:

– Tập trung nhóm thành hàng dọc, báo cáo số người trong nhóm.

– Phát câu hỏi viết sẵn ra giấy, cho nhóm thảo luận và trả lời trên giấy.

  1. Vì sao Môi-se đi chăn chiên?
  2. Môi-se chăn chiên trong đồng vắng bao lâu?
  3. Theo bạn, người hầu việc Chúa phải được chuẩn bị như thế nào?

Mật thư 3: TÌM ĐÂU ĐỂ GẶP ĐƯỢC MỘT NGƯỜI GIỮ CHỨC, LÃNH VIỆC DẠY ĐẠO CHO NGƯỜI DÂN ĐANG SINH SỰ.

            ± Chìa khóa: Ăn một trả hai.

_ Trạm 3.

± Yêu cầu:

– Tập trung nhóm thành hàng dọc, báo cáo số người trong nhóm.

– Phát câu hỏi viết sẵn ra giấy, cho nhóm thảo luận và đánh dấu X vào câu trả lời đúng nhất.

  1. Đức Chúa Trời giao nhiệm vụ cho Môi-se:

            p Dẫn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập.

            p Đưa dân Y-sơ-ra-ên về đất hứa Ca-na-an.

            p Cả hai đều đúng.

  1. Những công việc Môi-se làm trong hành trình về đất hứa là:

            p Xây cất đền tạm theo mạng lịnh Đức Giê-hô-va.

p Nhận lãnh luật pháp của Đức Chúa Trời và trao cho dân sự.

            p Ghi chép năm sách đầu tiên của Kinh Thánh.

p Tất cả đều đúng.

– NHD phát lệnh: “Các nhóm tập trung về điểm xuất phát”.

  1. Kết thúc.

– NHD cùng ban phụ nữ tóm lược lại nội dung của trò chơi: Những chặng đường các nhóm đã đi qua và cùng khám phá vai trò của người lãnh đạo Môi-se.

– Kêu gọi các ban viên học tinh thần người lãnh đạo để sớm trở thành người lãnh đạo vĩ đại cho nhà Đức Chúa Trời.

– Công bố kết quả và phát thưởng.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

  1. GIỚI THIỆU.

Bốn trăm năm sau khi Gia-cốp di cư xuống Ai-cập, dòng dõi sinh sản thêm nhiều, trở nên một dân tộc hùng mạnh. Vua Ai-cập bắt đầu lo sợ cho nền an ninh, bèn thay đổi chính sách khoan hồng, biến dân Y-sơ-ra-ên trở thành nô lệ, phục dịch người Ai-cập, để dần bị tiêu diệt. Trong tình trạng đau thương, Đức Chúa Trời chuẩn bị một người đặc biệt, đưa Môi-se cứu nguy cho dân sự. Môi-se là con trai của A-ram và Giô-kê-bết, dòng dõi Lê-vi. Đời sống của Môi-se có thể chia làm ba giai đoạn như sau:

  1. Bốn mươi năm trong đền Pha-ra-ôn (Xuất 2:1-10).

Môi-se ra đời khoảng năm 1520 T.C, trong lúc Pha-ra-ôn ra lệnh tàn sát dân Y-sơ-ra-ên bằng cách giết tất cả bé trai sơ sinh của Do Thái. Khi Môi-se sanh, bà Giô-kê-bết đem giấu con trai mình trong ba tháng. Sau đó, bà buộc lòng phải để con trong một giỏ mây, thả trong đám sậy ở mé sông, cho chị đứa trẻ đứng xa trông chừng. Công chúa Pha-ra-ôn đi tắm sông, thấy chiếc nôi bị kẹt trong đám lau sậy, sai người vớt lên. Công chúa thấy một đứa trẻ Do Thái đang khóc, động lòng thương xót, sai người tìm vú nuôi. Nhờ vào sự khôn ngoan của người chị, đứa trẻ được trao cho mẹ nó nuôi nấng, chăm sóc. Đến khi Môi-se khôn lớn, bà Giô-kê-bết dẫn con đến công chúa. Nàng nhận cậu làm con và đặt tên là Môi-se “Ta đã vớt nó khỏi nước”. Môi-se ở trong cung vua, được mang danh là hoàng tử của công chúa Pha-ra-ôn.

  1. Bốn mươi năm trong đồng vắng Ma-đi-an (Xuất 2:11-25).

Mặc dầu được làm con công chúa với tương lai rạng rỡ, nhưng Môi-se không quên mình là người Do Thái và đất hứa Ca-na-an. Năm bốn mươi tuổi, Môi-se quyết định từ bỏ địa vị cao sang của mình, đến cùng dân sự đang bị áp bức dưới tay tàn ác của Pha-ra-ôn. Một ngày kia, chứng kiến cảnh một người Ai-cập hà hiếp người Do Thái, Môi-se ra tay bênh vực và đánh chết người Ai-cập. Môi-se sợ vua truy nã, chạy trốn ẩn mình trong đồng vắng Ma-đi-an. Tại đây, Môi-se được Giê-trô, thầy tế lễ Ma-đi-an đón tiếp vào gia đình, và gả con gái Sê-phô-ra làm vợ. Môi-se sống tại đây đến năm tám mươi tuổi.

  1. Bốn mươi năm với dân Y-sơ-ra-ên trong cuộc hành trình về đất hứa (Xuất 3-14; 34, 40; Phục 34).

Môi-se dẫn bầy chiên qua đồng vắng. Khi đến núi Hô-rếp, Môi-se ngạc nhiên thấy bụi gai cháy mà không hề tàn, bèn lại xem. Thình lình ở giữa bụi gai có tiếng Đức Chúa Trời phán gọi Môi-se, bày tỏ cho Môi-se biết Ngài là Đấng Tự Hữu, Hằng Hữu, sai Môi-se dẫn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập. Môi-se từ chối vì mình không có tài ăn nói. Đức Chúa Trời sai A-rôn, người có tài ăn nói giỏi giúp đỡ Môi-se.

Môi-se trở về Ai-cập, cùng với A-rôn đến gặp Pha-ra-ôn. Hai người nói rằng: Đức Chúa Trời phán, hãy buông tha dân Ngài để họ đi thờ phượng Đức Giê-hô-va. Nhưng Pha-ra-ôn nhiều lần không vâng lệnh Đức Chúa Trời, lại gia thêm sự cực khổ trên dân Y-sơ-ra-ên, nên Đức Chúa Trời dùng Môi-se và A-rôn giáng xuống mười tai họa khủng khiếp, phạt nhà Pha-ra-ôn. Cuối cùng, Pha-ra-ôn buộc lòng để cho dân sự đi. Môi-se dẫn đoàn dân khoảng chừng hai triệu người, cùng với súc vật, từ Gô-sen hướng về Biển Đỏ. Bấy giờ Pha-ra-ôn đổi ý, sai quân đuổi theo bắt dân Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời truyền cho Môi-se giơ gậy trên biển, tức thì nước biển rẽ đôi làm thành con đường khô ráo cho dân sự đi qua cách bình an. Khi tất cả lên khỏi biển, Đức Chúa Trời phán bảo Môi-se đưa gậy trở lại trên biển, nước bèn lấp trở lại, chôn vùi đạo quân Pha-ra-ôn đang đuổi theo dân sự. Như vậy bởi quyền năng của Đức Chúa Trời, dân Y-sơ-ra-ên được cứu khỏi ách nô lệ của Pha-ra-ôn.    

Từ Biển Đỏ, Môi-se vâng theo Đức Chúa Trời dẫn dắt dân sự tiến về Ca-na-an. Trong hành trình, Môi-se gánh lấy trách nhiệm vô cùng lớn lao và khó khăn về nhu cầu và an ninh của đoàn người. Thế mà dân sự nhiều lần lằm bằm, dấy nghịch nên Ngài không cho họ vào đất hứa mãi đến bốn mươi năm sau. Môi-se làm ba công việc quan trọng:

   (1) Xây cất Đền Tạm theo mạng lịnh Đức Chúa Trời, lập chức thầy tế lễ trong Đền Tạm, dạy dân sự cách thờ phượng Đức Chúa Trời (Xuất 25-40).

   (2) Nhận luật pháp của Đức Chúa Trời.

   (3) Viết năm sách thường gọi là Ngũ Kinh Môi-se.

Cuối cùng Môi-se đưa họ đến đồng bằng Mô-áp, biên giới Ca-na-an.

Tại đây Môi-se trao trách nhiệm cho Giô-suê, để dẫn dân sự vào đất hứa. Môi-se sống được 120 tuổi.

  1. SUY GẪM.
  2. Môi-se với sứ mạng Chúa gọi.

Người lãnh đạo dân sự. Môi-se được Đức Chúa Trời giao phó hai công tác lớn là:

(1) Dẫn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. Vấn đề khó khăn nhất là chinh phục Pha-ra-ôn. Cuối cùng, Pha-ra-ôn phải buông tha dân sự (Xuất 3-12).

(2) Đưa dân Y-sơ-ra-ên về Ca-na-an: Môi-se đã gánh trách nhiệm nặng nề gần hai triệu người, phải chịu sự dấy nghịch, lằm bằm oán trách. Cuối cùng, ông đưa dân sự đến biên giới của đất hứa (Phục 31-34).

  1. Người tiên tri của Đức Chúa Trời.

Đức Chúa Trời dùng miệng Môi-se phán bảo dân sự, và dùng tay Môi-se thể hiện quyền năng của Ngài. Công việc lớn nhất của Môi-se là nhận luật pháp của Đức Chúa Trời và trao lại cho dân Y-sơ-ra-ên. Môi-se khuyên bảo, căn dặn dân sự hãy cẩn thận vâng giữ điều răn của Đức Chúa Trời, đó là một giao ước của sự phước hạnh nếu vâng giữ và tuân hành.

Môi-se được Đức Chúa Trời sai đến đúng lúc, lãnh đạo khôn ngoan, sáng suốt, dẫn đưa họ trong suốt hành trình,  can đảm ra mắt Pha-ra-ôn; khiêm nhu, nhẫn nhục trước sự lằm bằm của dân sự; thẳng thắn sửa phạt khi họ phạm điều răn, thờ tượng bò vàng (Xuất 32); yêu thương; cầu thay cho dân sự khi Đức Chúa Trời toan giáng cơn thạnh nộ hủy diệt họ (Xuất 32:32; Dân 12:3).

III. ỨNG DỤNG CHO ĐỜI SỐNG.

             Sứ mạng của Môi-se có hai trách nhiệm quan trọng:

(1) Dẫn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. Đưa người từ tối tăm đến sáng láng.

(2). Mối quan tâm lớn nhất của Môi-se là khuyên bảo, căn dặn dân sự cẩn thận vâng giữ điều răn Đức Chúa Trời.