GIÁO VIÊN THIẾU NHI QUÝ 2.2020
By Lee Vi in THIẾU NHI on 23 Tháng Ba, 2020
TÌNH YÊU CỦA CHÚA
MỤC LỤC.
BÀI 1. ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA.
BÀI 2. CON ĐƯỜNG ĐAU KHỔ.
BÀI 3. CHÚA CHỊU THƯƠNG KHÓ.
BÀI 4. CHÚA GIÊ-XU, ĐẤNG SỐNG ĐỜI ĐỜI.
BÀI 5. ĐỜI SỐNG MỚI.
BÀI 6. CHÚA GIÊ-XU LÀ NGUỒN NƯỚC SỐNG.
BÀI 7. GƯƠNG PHỤC VỤ.
BÀI 8. BÀI HỌC CẦU NGUYỆN TỪ CHÚA.
BÀI 9. BỐN LOẠI ĐẤT.
BÀI 10. GIA ĐÌNH YÊU CHÚA.
BÀI 11. SỰ DÂNG HIẾN ĐẸP LÒNG CHÚA.
BÀI 12. TÌNH YÊU CỦA NGƯỜI CHA.
BÀI 13. BÀI ÔN.
BÀI 1. ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA
I. KINH THÁNH: Giăng 12:12-19.
II. CÂU GỐC: “Đức Giê-hô-va phán: Ý tưởng Ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối Ta” (Ê-sai 55:8).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em
– Biết: Chúa Giê-xu vào thành Giê-ru-sa-lem và được dân chúng tung hô, là việc nằm trong đường lối của Đức Chúa Trời.
– Cảm nhận: Đôi khi em không hiểu hết đường lối của Đức Chúa Trời, nhưng em biết đường lối của Ngài luôn tốt đẹp cho em.
– Hành động: Tin cậy và vâng lời bước đi trong đường lối của Chúa.
IV. PHẦN GIÁO VIÊN SUY GẪM.
Chúa Giê-xu bắt đầu tuần lễ cuối cùng của Ngài tại thế gian bằng việc cỡi lừa cái vào Giê-ru-sa-lem trên một tấm thảm bằng lá kè, và đoàn dân đông đón chào Ngài như Vua của họ. Để loan báo Ngài thật là Đấng Mê-si-a, Chúa Giê-xu đã chọn đúng thời điểm dân Y-sơ-ra-ên đang tập hợp tại Giê-ru-sa-lem vào ngày lễ Vượt qua. Việc đoàn dân đông hân hoan chào đón Ngài trái ngược với hành động chống nghịch của các nhà lãnh đạo tôn giáo Do-thái. Dân chúng vừa tung hô vừa vẫy những lá kè, dấu hiệu tôn vinh một người chiến thắng (tham khảo Khải huyền 7:9). Trong suy nghĩ của họ, Chúa Giê-xu đến làm vua, lập lại nước Y-sơ-ra-ên vinh quang như trước. Và tất nhiên, khi Chúa Giê-xu không thực hiện kỳ vọng của họ, nhiều người đã quay sang chống nghịch Ngài.
Danh hiệu vua Y-sơ-ra-ên (câu 13) được đề cập đến trong bài hát ca ngợi của dân chúng thành Giê-ru-sa-lem một lần nữa trình bày rõ ràng tầm quan trọng của Đấng Mê-si-a. Câu 14-15, Giăng trích dẫn Xa-cha-ri 9:9 để minh họa chi tiết Chúa Giê-xu vào Giê-ru-sa-lem trên lưng lừa hơn là trên một con ngựa chiến. Mặt khác, nó chứng tỏ lời tiên tri về Đấng Mê-si-a đã được ứng nghiệm. Tuy nhiên, dân Do-thái, thậm chí các môn đồ không hiểu đường lối của Đức Chúa Trời. Cho đến khi Chúa Giê-xu phục sinh, các môn đồ mới hiểu được những sự kiện xảy ra ở đây chính là sự vinh hiển của Chúa Giê-xu.
Có những lúc chúng ta cũng có thái độ giống như các môn đồ, không hiểu đường lối của Chúa trên đời sống của chúng ta, nên sinh ra nghi ngờ, thậm chí lung lay đức tin. Những lúc như thế, bạn nên nhớ rằng, Đức Chúa Trời mà bạn tin và hầu việc là Đấng hôm qua ngày nay cho đến đời đời không hề thay đổi. Ngài luôn đem đến cho bạn điều tốt nhất vào thời điểm tốt nhất, vì Ngài phán rằng: “Ý tưởng Ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối Ta” (Ê-sai 55:8). Cách tốt nhất cho bạn là tin cậy và vâng phục, để bước đi trong đường lối của Chúa.
V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
Phát cho mỗi em một tờ giấy, bảo các em suy nghĩ và trả lời những câu hỏi sau:
1. Ai là người em ngưỡng mộ nhất?
2. Người đó có những hành động gì khiến em ngưỡng mộ?
3. Em làm gì để thể hiện sự ngưỡng mộ của em đối với người đó?
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào đề.
Chúa Giê-xu thi hành chức vụ của Ngài trên thế gian đã được ba năm. Lúc nầy, nhiều người đã nhận biết Ngài là Con Đức Chúa Trời, nhưng cũng có nhiều người không nhận biết điều đó. Họ cứ hỏi nhau: “Người nầy là ai? Chẳng lẽ là tiên tri?” Còn dân Giu-đa và các thầy thông giáo thì lo lắng, vì họ thấy càng ngày càng có nhiều người đi theo Chúa Giê-xu, điều nầy thật bất lợi cho họ.
Chúng ta sẽ dành bốn tuần lễ để tìm hiểu về tuần lễ cuối cùng của Chúa Giê-xu trước khi Ngài chịu chết và sống lại. Dân chúng và cả các môn đồ của Chúa Giê-xu không biết rằng, Ngài bình thản chờ đợi mọi việc xảy đến với Ngài, vì Ngài biết mọi việc đều ở trong kế hoạch của Đức Chúa Trời.
2. Bài học.
Các em biết không, dân Giu-đa và các thầy thông giáo rất bực tức về những phép lạ mà Chúa Giê-xu đã làm, đặc biệt là Ngài khiến La-xa-rơ sống lại. Bên cạnh đó, càng ngày càng có nhiều người đi theo Chúa Giê-xu. Một số người thấy vậy gấp rút về Giê-ru-sa-lem báo tin cho các thầy thông giáo biết. Các thầy thông giáo hay tin thì hết sức kinh ngạc, liền nhóm nhau bàn rằng: “Người nầy làm phép lạ nhiều lắm, chúng ta tính thế nào? Nếu chúng ta để mặc, thì dân chúng sẽ tin người. Lúc đó, sẽ có nhiều điều bất lợi cho chúng ta” (Giăng 11:47-48). Từ lúc ấy trở đi, lúc nào họ cũng tìm cách giết Chúa Giê-xu.
Chúa Giê-xu biết rõ âm mưu của họ, nhưng thời điểm Ngài chịu thương khó chưa đến, nên Ngài sang thành phố khác và tiếp tục giảng đạo.
Chính lúc nầy, các thầy tế lễ cả ra lệnh bắt Chúa Giê-xu, họ thông báo cho mọi người biết nếu ai gặp Chúa Giê-xu ở đâu, thì phải báo về ngay để họ đến bắt.
Khi lệnh nầy được đưa ra thì Chúa Giê-xu đang ở Bê-tha-ni. Lúc nầy đang là mùa xuân và cũng sắp đến lễ Vượt qua. Như thường lệ, dân chúng từ khắp nơi đổ về Giê-ru-sa-lem để dự lễ. Ai cũng biết lệnh của các thầy thông giáo đưa ra, nên họ tìm kiếm Chúa Giê-xu quanh khu vực đền thờ và hỏi nhau: “Anh em nghĩ thế nào? Ông ấy không về dự lễ sao?”
Khi họ biết Chúa Giê-xu đang ở Bê-tha-ni thì vội đến đó để xem Chúa Giê-xu và La-xa-rơ là người được Chúa khiến sống lại. Các thầy tế lễ cả hết sức tức giận! La-xa-rơ sẽ là người làm chứng mạnh mẽ về quyền năng của Chúa Giê-xu, nên các thầy thông giáo cũng muốn giết La-xa-rơ.
Sáng hôm sau, Chúa Giê-xu và các môn đồ rời Bê-tha-ni đến Giê-ru-sa-lem. Trên đường đi, rất nhiều người gia nhập vào đám đông cùng đi với Ngài. Dân chúng và các môn đồ đều chú ý quan sát Chúa, vì họ nghĩ rằng: “Ngài có biết sẽ gặp nguy hiểm ở thành Giê-ru-sa-lem không? Chẳng lẽ hôm nay Ngài đến để tuyên bố Ngài là vua mới của thành Giê-ru-sa-lem?” Chúa Giê-xu tiếp tục đi đến Giê-ru-sa-lem, Ngài không hề nghĩ điều gì khác, mà chỉ làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Khi gần đến Giê-ru-sa-lem, Ngài bảo hai môn đồ đến làng ở phía trước, sẽ gặp một con lừa con chưa ai cỡi, hãy đem nó về đây vì Ngài cần dùng nó. Hai môn đồ đi và làm y theo lời Chúa dặn.
Đám đông đi theo và các môn đồ nghe Chúa Giê-xu cần con lừa để cỡi thì khấp khởi mừng thầm, vì nghĩ rằng Chúa Giê-xu sắp tuyên bố Ngài là vua tại Giê-ru-sa-lem. Họ nhớ lại lời tiên tri trong Cựu ước đã nói: “Nầy, Vua ngươi đến cùng ngươi, Ngài là công bình và ban sự cứu rỗi, nhu mì và cỡi lừa” (Xa-cha-ri 9:9). Vì vậy, đám đông đi theo Chúa Giê-xu càng phấn khởi hơn.
Lừa con được dắt đến. Mọi người lấy áo trải trên lưng lừa, rồi đỡ Chúa Giê-xu lên. Theo tục lệ ngày xưa, một vị vua mới phong chức cỡi trên lưng lừa, được dân chúng lấy áo trải dưới đất làm thảm để vua đi qua (tham khảo 2Các-vua 9:13). Chúa Giê-xu cỡi lừa con đi vào thành Giê-ru-sa-lem, đoàn dân rầm rộ đi theo Ngài. Các em đọc Giăng 11:13 xem dân chúng thành Giê-ru-sa-lem đón chào Chúa như thế nào?
Hô-sa-na có nghĩa là “Xin hãy cứu!”. Dân Do-thái cầu xin vua mới cứu giúp, bảo vệ, giải thoát họ khỏi sự thống trị của đế quốc La-mã. Từ đó đến giờ, các môn đồ cũng như dân chúng đều nghĩ Chúa Giê-xu đến thế gian nầy để làm vua, và đây là thời điểm Ngài công khai làm vua, nên họ ca ngợi Ngài.
Các em thân mến, Chúa Giê-xu vào thành Giê-ru-sa-lem bằng cách nầy thì khó có ai tin được là Ngài sắp bị bắt giữ. Các em nghĩ xem một người biết mình đang bị mọi người truy bắt thì sẽ làm gì? (Có thể lẩn trốn, hoặc lén lút vào thành…). Còn Chúa Giê-xu đi vào thành một cách công khai, trong tiếng tung hô reo hò của dân chúng như một vị vua.
3. Ứng dụng.
Các em thân mến! Mọi việc xảy ra ngày hôm đó đều ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Mê-si-a (cho các em đọc Xa-cha-ri 9:9). Mọi việc xảy ra đều nằm trong đường lối của Đức Chúa Trời. Dân chúng cần một vị vua, nên Đức Chúa Trời sai Chúa Giê-xu đến thế gian, giải thoát con người khỏi tội lỗi, chuẩn bị con đường cho chúng ta đến với Đức Chúa Trời, và Chúa Giê-xu trở thành Vua của muôn vua. Lúc đó, dân Do-thái không biết Đức Chúa Trời đã có một kế hoạch tốt đẹp hơn cả điều họ cầu xin.
Cũng vậy, đôi khi các em thấy Đức Chúa Trời không làm theo ý các em cầu xin, lúc đó các em cảm thấy như thế nào?
Giáo viên cần nhấn mạnh Đức Chúa Trời là Đấng quyền năng, yêu thương, chăm lo đời sống của các em. Khi các em vừa sanh ra, Ngài đã có chương trình cho từng em. Nếu các em yêu mến Chúa, bằng lòng giao phó cuộc đời mình cho Chúa dẫn dắt, thì tất cả mọi sự xảy ra trong đời sống của các em đều nằm trong kế hoạch của Đức Chúa Trời. Nhiều khi sự việc xảy đến, nhất là việc đó không giống như điều em cầu xin, các em không thể hiểu nổi tại sao lại như vậy. Những lúc như thế, các em nên nhớ rằng, chương trình của Chúa luôn luôn là tốt nhất cho đời sống của các em, bởi Ngài biết hết mọi việc. Kinh Thánh chép: (cho các em em đọc câu gốc). Các em phải tin cậy Lời của Ngài vì Ngài luôn có ý định tốt đẹp cho các em. Hãy tin cậy, vâng phục và bước đi trong đường lối của Chúa, các em nhé!
Có khi nào em cảm thấy Chúa không quan tâm đến em không? Ví dụ như: Chúa không lắng nghe em cầu nguyện… Hướng dẫn các em đọc câu Kinh Thánh chứng tỏ Chúa hứa chăm nom các em, giúp các em suy nghĩ các từ: “ở cùng”, “nhận lời”, “giải cứu”…)
BÀI 2. CON ĐƯỜNG ĐAU KHỔ
I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 26:30-75; 27:11-31.
II. CÂU GỐC: “Chẳng có ai cất sự sống Ta đi, nhưng Ta tự phó cho; Ta có quyền phó sự sống, và có quyền lấy lại” (Giăng 10:18).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em
– Biết: Chúa Giê-xu bị bắt, bị xét xử và bị kết án tại Giê-ru-sa-lem.
– Cảm nhận: Chúa Giê-xu tự nguyện đi trên con đường đau khổ để cứu chuộc và bày tỏ tình yêu của Ngài đối với em.
– Hành động: Tạ ơn tình yêu của Chúa Giê-xu và tin nhận Ngài làm Cứu Chúa của em.
IV. PHẦN GIÁO VIÊN SUY GẪM.
Qua sự ký thuật của bốn sách Tin Lành về sự thương khó của Chúa Giê-xu, chúng ta có thể cảm nhận một phần nào về con đường đau khổ mà Ngài đã đi qua vì chúng ta. Chặng đầu tiên là tại vườn Ghết-sê-ma-nê. Ghết-sê-ma-nê bắt nguồn từ chữ gat semen tiếng A-ram, có nghĩa là cối ép dầu. Có thể nói vườn Ghết-sê-ma-nê được xem là tương phản với vườn Ê-đen, vì tại đây A-đam sau cùng đã chiến thắng sự cám dỗ bằng sự quỳ gối vâng phục Đức Chúa Cha. Hành động qùy gối của Chúa Giê-xu tại Ghết-sê-ma-nê đã sinh ra thói quen qùy gối cầu nguyện của Cơ Đốc Nhân.
Chặng tiếp theo là Đấng thánh khiết bị bắt và phải chịu xét xử bởi con người bất khiết. Những người có mặt tại vuờn Ghết-sê-ma-nê hôm đó phải kinh ngạc vì thái độ bình tĩnh của Chúa Giê-xu khi đối diện với quân lính La-mã. Thái độ đó của Ngài cho chúng ta suy nghĩ gì? Phải chăng Con Trời đã biết trước và đầu phục kế họach của Cha? Phải chăng Ngài đã tự nộp mình để đi trên con đường đau khổ đến đồi Sọ? Chúa Giê-xu phán: “Chẳng có ai cất sự sống Ta đi, nhưng Ta tự phó cho; Ta có quyền phó sự sống, và có quyền lấy lại” (Giăng 10:18).
Một loạt những cuộc thẩm vấn suốt đêm ấy và buổi sáng hôm sau (thứ sáu) tạo thành “Cuộc xét xử Chúa Giê-xu”. Thoạt đầu, có lẽ cuộc thẩm vấn không chính thức trước An-ne là thầy tế lễ thượng phẩm đã bị phế truất (GiăngGa 18:12-23) không đem lại kết quả gì. Tiếp theo là hai cuộc thẩm vấn trước Cai-phe và tòa công luận, (một vào ban đêm và một vào lúc sáng sớm), lần đầu có lẽ là cuộc triệu tập vội vàng cho một lần sơ thẩm, và lần sau là buổi họp của tòa công luận, phê chuẩn những gì đã tìm thấy trong lần họp trước, rồi đưa ra một phán quyết có tính cách hình thức rằng, Chúa Giê-xu đã phạm tội lộng ngôn. Ngài đã bị buộc tội lộng ngôn về điều gì thì không có gì chắc chắn cả, nhưng việc Ngài chấp nhận danh vị Đấng Mê-si-a, và những lời ám chỉ tiên báo trong tương lai Ngài sẽ lấy quyền năng mà đến để thực hiện việc phán xét, chắc chắn là những yếu tố mang tính quyết định để họ định tội Ngài.
Theo luật pháp Do Thái, bản án dành cho tội lộng ngôn là tử hình, nhưng thời đó, quyền tuyên án tử hình được giới hạn trong tay quận trưởng La-mã, trong khi luật La-mã lại không chấp nhận lời buộc tội lộng ngôn. Vì thế, Chúa Giê-xu bị giải đến Phi-lát với lời buộc tội là sách động chính trị, phản quốc, căn cứ trên việc sử dụng danh hiệu “Vua dân Do-thái”. Phi-lát không muốn xét xử, và càng không muốn kết án Chúa Giê-xu, trước hết là vì ông khinh dể người Do-thái và mối quan tâm tôn giáo của họ. Khi nhận ra những lời tố cáo chỉ là cáo gian, và hành động của Chúa Giê-xu vốn không phải là một cuộc khởi nghĩa chính trị, thì thái độ miễn cưỡng của ông ta càng tăng thêm. Phi-lát né tránh trách nhiệm nầy bằng cách đẩy vụ án sang cho vua Ạc-ríp-ba và đề xuất thả Chúa Giê-xu ra, phù hợp với một tập tục ân xá nhân ngày lễ Vượt qua, nhưng nỗ lực của Phi-lát không thành công trước tiếng la hét manh động đầy lòng thù ghét của đám đông, và những nhà lãnh đạo tôn giáo Do-thái đồng loạt hướng về Chúa Giê-xu. Thế là Chúa Giê-xu đã bị kết án đóng đinh vào thập tự giá như một đại tội nhân.
Bạn thân mến, nhân dịp chúng ta kỷ niệm Chúa Giê-xu chịu thương khó, mong bạn tìm một nơi yên tĩnh để suy niệm về sự hy sinh, tình yêu vô điều kiện mà Ngài đã dành cho bạn, để tiếp tục dấn thân phục vụ, và vui lòng dự phần vào sự thương khó với Ngài.
V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
Giáo viên cắt nhiều miếng bìa nhỏ 3×5 cm, trên đó viết các từ sau: Lễ Vượt qua, Hô-sa-na, lễ tiệc thánh, thầy tế lễ, tiên tri.
Sau đó, chia các em làm hai nhóm, mỗi nhóm nhận những miếng bìa trên. Sau đó lật mặt sau của mỗi miếng bìa, viết lên đó lời giải thích ngắn gọn cho mỗi cụm từ.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào đề.
Vào bữa tối cuối cùng trước khi chịu thương khó, Chúa Giê-xu và mười hai môn đồ dùng bữa tại một phòng cao trong thành Giê-ru-sa-lem. Sau khi Giu-đa Ích-ca-ri-ốt bỏ đi, Chúa Giê-xu dạy mười một môn đồ còn lại thực hiện lễ tiệc thánh để tưởng nhớ đến Ngài (cho các em chia sẻ ý nghĩa của lễ tiệc thánh).
2. Bài học.
Sau khi ăn bữa tối xong, tất cả đều rời khỏi nhà. Chúa Giê-xu và các môn đồ ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem, đến vườn Ghết-sê-ma-nê, nơi Chúa Giê-xu vẫn thường đến đó để cầu nguyện.
Chúa Giê-xu biết mình sắp phải đi trên con đường đau khổ, đó là chịu đóng đinh trên cây thập tự. Ngài đã nhiều lần nói với các môn đồ điều đó, nhưng họ không hiểu. Khi đến gần vườn, Chúa Giê-xu nói với các môn đồ: “Đêm nay, các con đều lìa bỏ Ta” (Ma-thi-ơ 26:31).
Nếu Chúa Giê-xu cũng nói với các em như vậy, thì các em sẽ nói với Ngài như thế nào? (Cho các em 1 phút suy nghĩ và trả lời). Các môn đồ im lặng, còn Phi-e-rơ thì nói: “Con sẽ chẳng bao giờ xa thầy”.
Phi-e-rơ nói vậy vì ông cảm thấy như vậy, nhưng Chúa Giê-xu phán: “Đêm nay trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần”, nhưng Phi-e-rơ kiên quyết nói: “Không đâu, con thà chết còn hơn chối thầy!” Tất cả các môn đồ khác đều đồng ý như vậy.
Khi đến nơi, Chúa Giê-xu cùng Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng đi vào vườn cầu nguyện, tám môn đồ còn lại ngồi đợi ở cửa vườn. Sau đó, Chúa Giê-xu đi sang một góc khác để cầu nguyện một mình.
Các em có biết Chúa Giê-xu đã cầu nguyện những gì không? Ngài cầu nguyện xin vâng phục ý muốn của Đức Chúa Trời. “Cha ơi! Nếu có thể được, xin cho chén nầy lìa khỏi Con! Song không theo ý muốn Con, mà theo ý muốn Cha”. (Có thể ghi trên tờ giấy lớn và dán trên bảng).
Các em có biết “chén” mà Chúa Giê-xu nói đến trong lời cầu nguyện là gì không? (Cho các em suy nghĩ trả lời). Đó là tội lỗi của toàn nhân loại mà một mình Chúa Giê-xu phải gánh chịu. Chúa Giê-xu vẫn có quyền từ chối không uống “chén” nầy, nhưng Ngài yêu thương, muốn cứu mọi người ra khỏi tội lỗi, nên sẵn sàng vâng phục ý muốn của Đức Chúa Cha. Chúa Giê-xu còn cầu nguyện nhiều điều lắm đến nỗi mồ hôi của Ngài rơi xuống như những giọt máu lớn.
Các em đọc Ma-thi-ơ 26:47-50 và mô tả cảnh tượng xảy ra trong vườn Ghết-sê-ma-nê tối đó bằng lời riêng của các em?
Thông thường, tội phạm tìm cách chạy trốn để khỏi bị bắt, nhưng đêm đó, trong vườn chỉ có quân lính, chứ không có tội phạm. Chúa Giê-xu bình thản đứng trước ánh sáng của các ngọn đuốc, nhìn họ. Ngài biết rõ việc gì xảy ra, nhưng vẫn hỏi: “Các ông tìm ai?”
Họ đáp: “Tìm Giê-xu người Na-xa-rét”.
Chúa Giê-xu nói: “Chính Ta đây”.
Nghe Chúa Giê-xu nói một cách dõng dạc, bọn lính vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi thối lui ra sau và té nhào xuống đất. Chúa Giê-xu lại hỏi lần nữa: “Các ông tìm ai?” Họ trả lời y như lần trước. Chúa Giê-xu phán: “Ta đã bảo với các ông là chính Ta đây! Nếu các ông tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người nầy được đi tự do” (Giăng 18:8).
Chúa Giê-xu vừa nói xong, Phi-e-rơ liền rút gươm ra chém đứt tai một đầy tớ của thầy cả thượng phẩm đang đứng gần đó. Nhưng Chúa Giê-xu ngăn cản Phi-e-rơ và chữa lành tai cho người đầy tớ nầy. Quân lính nhào tới bắt Chúa Giê-xu và dẫn Ngài ra khỏi vườn, còn các môn đồ đều bỏ chạy.
Quân lính giải Chúa Giê-xu đến chỗ thầy cả thượng phẩm Cai-phe. Đêm đó, không gian yên tĩnh, các môn đồ tản ra mỗi người mỗi ngả, chỉ có Phi-e-rơ và Giăng theo chân quân lính đến nhà Cai-phe.
Chúa Giê-xu bị giải đến trước mặt thầy tế lễ thượng phẩm Cai-phe để thẩm vấn Ngài. Sau khi tra hỏi, họ không tìm được bằng chứng nào để gán tội Chúa Giê-xu. Cuối cùng, họ cũng tìm cách vu cáo Ngài. Các em đọc Ma-thi-ơ 26:63-68 và tìm xem họ kết tội Chúa Giê-xu như thế nào?
Lúc nầy đã quá nửa đêm, trong khi Chúa Giê-xu bị tra hỏi và đánh đập, thì bên ngoài Phi-e-rơ thất bại trong việc chối Chúa ba lần, điều mà ông đã kiên quyết nói rằng, sẽ không bao giờ làm như vậy.
Kế tiếp, Chúa Giê-xu bị giải đến quan tổng trấn Phi-lát. Phi-lát biết dân Giu-đa buộc tội Chúa Giê-xu vì ganh ghét, nên không muốn giết người vô tội. Vì thế sau khi tra hỏi Chúa Giê-xu, Phi-lát không tìm thấy chứng cớ nào để kết tội Chúa Giê-xu cả, nên định sai lính đánh đòn Chúa rồi thả ra.
Các em đọc Ma-thi-ơ 27:22-23 xem thái độ của dân Giu-đa như thế nào trước ý định thả Chúa Giê-xu của Phi-lát?
Thời đó có một tục lệ là hễ đến kỳ lễ Vượt qua thì sẽ phóng thích một tên tội phạm. Trước áp lực của dân chúng, Phi-lát ra lệnh thả tên cướp nguy hiểm tên Ba-ra-ba, và giao Chúa Giê-xu cho quân lính La-mã.
Bọn lính lột áo của Chúa rồi khoác cho Ngài một cái áo choàng màu tía, làm chiếc mũ bằng gai đội lên đầu và đặt vào tay Ngài một cây gậy. Xong, họ chế giễu Ngài, khạc nhổ vào mặt Ngài, lấy gậy đánh trên đầu Ngài. Họ sỉ nhục Chúa, rồi chuẩn bị mọi sự để đóng đinh Ngài trên thập tự giá.
3. Ứng dụng.
Các em thân mến! Các em nhớ lại xem Chúa Giê-xu đã đi qua những chặng đường đau khổ nào? (Cho các em trả lời). Đầu tiên là tại vườn Ghết-sê-ma-nê, Chúa Giê-xu một mình cầu nguyện, chiến đấu trong sự vâng phục Đức Chúa Trời, bị Giu-đa Ích-ca-ri-ốt phản bội. Kế đến là bị tra hỏi tại dinh thầy tế lễ cả Cai-phe, sau đó bị Phi-e-rơ chối bỏ, rồi bị Phi-lát kết án tử hình, bị quân lính sỉ nhục.
Các em suy nghĩ xem vì sao Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời, là Đấng quyền năng, là Vua của muôn vua, là Chúa của muôn chúa, mà lại chịu để con người đối xử với Ngài như vậy? (Cho các em trả lời). Chỉ vì tình yêu thương! Vì Chúa Giê-xu yêu thương con người hư mất, trong đó có tất cả chúng ta, nên Ngài tự nguyện đi trên con đường đau khổ, chịu chết trên cây thập tự để chuộc tội cho chúng ta. Chúa Giê-xu phán: “Chẳng có ai cất sự sống Ta đi, nhưng Ta tự phó cho” (Giăng 10:18).
Tuy lúc Chúa Giê-xu bị bắt, các em chưa sanh ra, nhưng Chúa Giê-xu đã biết và yêu thương các em. Ngài đã chịu chết trên thập tự giá để chúng ta được cứu. Chúa Giê-xu chịu tất cả mọi đau đớn, sỉ nhục vì tội lỗi của các em. Vì thế, các em phải tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa và hết lòng yêu kính, vâng phục Ngài.
(Kêu gọi các em cầu nguyện tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa).
BÀI 3. CHÚA CHỊU THƯƠNG KHÓ
I. KINH THÁNH: Lu-ca 23:26-55, Giăng 19:17-42.
II. CÂU GỐC: “Vả, Đấng Christ cũng vì tội lỗi chịu chết một lần, là Đấng công bình thay cho kẻ không công bình, để dẫn chúng ta đến cùng Đức Chúa Trời” (1Phi-e-rơ 3:18).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em
– Biết: Chúa Giê-xu chịu đóng đinh trên thập tự giá là phương cách duy nhất để đưa con người đến với Đức Chúa Trời.
– Cảm nhận: Chúa Giê-xu yêu thương em đến nỗi chịu chết trên thập tự giá.
– Hành động: Em tin Chúa Giê-xu chịu chết vì tội em và ca ngợi tình yêu của Ngài.
IV. PHẦN GIÁO VIÊN SUY GẪM.
Theo từ ngữ Hy văn, “Thập tự giá” là một cây cột hay cây xà ngang chống, và một cây cột (xà) phụ (giá) được dùng như một dụng cụ để trừng phạt và hành quyết.
Cực hình đóng đinh tội phạm còn sống vào thập tự giá không thấy xuất hiện trong Cựu Ước (thường là ném đá). Tuy nhiên, các thi thể thỉnh thoảng bị treo lên cây như một lời cảnh cáo (Phục-truyềnDnl 21:22-23; Giô-suê Gs 10:26). Một cái xác treo như thế xem như là bị nguyền rủa. Cũng vậy, thời xưa, thập tự giá là biểu tượng của sự hèn hạ, nhục nhã. Việc đóng đinh vào thập tự giá được người Phê-ni-xi và Carthaginians thực hành, rồi sau đó, được người La-mã sử dụng rộng rãi. Chỉ có các nô lệ, dân tỉnh lẻ và các loại phạm nhân hạng thấp nhất mới bị đóng đinh vào thập tự giá, nhưng hiếm khi thấy công dân La-mã chịu hình phạt nầy. Do đó mà truyền thuyết kể rằng Phi-e-rơ, giống như Chúa Giê-xu, đã bị đóng đinh vào thập tự giá, nhưng Phao-lô thì bị chém đầu, phù hợp với tập quán xưa.
Tử hình bằng cách đóng đinh gây đau đớn kinh khiếp cho tử tội. Cây cột gỗ đứng thẳng đơn độc, trên đó nạn nhân bị cột chặt vào, hay đâm xuyên ngang người cho dính chặt vào. Ngoài ra còn có ba loại thập tự giá khác: Hình chữ T, hình chữ X, và loại có hình dáng chữ thập (+). Trước khi đem đi đóng đinh, tử tội bị đánh một cách dã man bằng một cây roi da. Điều đó giải thích cho việc Chúa Giê-xu không thể vác nổi cây thập tự nên Si-môn đã vác thay cho Ngài, và nó cũng góp phần đẩy nhanh cái chết của Ngài.
Theo các nhà văn đương thời mô tả, đóng đinh là một hình thức chết đau đớn nhất. Tử tội bị lột trần, đặt nằm dưới đất với khúc gỗ làm thập tự giá đặt dưới đôi vai, rồi các cánh tay và bàn tay bị cột chặt hoặc đóng đinh vào đó (GiăngGa 20:25). Sau đó, cây cột gỗ nầy được dựng đứng lên, sao cho đôi chân bấy giờ cũng đã bị cột hay đóng đinh chặt rồi, chỉ vừa không chạm mặt đất mà thôi, chứ không quá cao như chúng ta thường thấy trong các hình vẽ. Trọng lượng chính của thân thể thường được một cây chốt trồi lên chịu đựng, đóng vào chỗ mà nạn nhân ngồi lên. Phạm nhân bị bỏ cho chết đói và kiệt sức tại đấy. Có khi cái chết được đẩy nhanh bằng cách đánh gãy ống quyển, như trong trường hợp hai tên trộm cướp, nhưng đã không xảy ra trong trường hợp của Chúa chúng ta, vì Ngài đã chết rồi. Tuy nhiên, một mũi giáo cũng đâm vào hông Ngài để chắc chắn rằng Ngài đã chết, để thi thể có thể được gỡ xuống như đòi hỏi của người Do-thái trước ngày Sa-bát.
Tuy nhiên, các sách Phúc âm đã không đưa ra phần mô tả chi tiết về những nỗi đau đớn về thể xác của Chúa chúng ta, mà chỉ viết đơn giản và kính cẩn rằng: “Họ đã đóng đinh Ngài trên cây thập tự” (Ma-thi-ơ Mt 27:34). Chúa chúng ta đã từ chối mọi hình thức làm giảm cơn đau đớn của Ngài, chắc vì Ngài muốn giữ tâm trí được minh mẫn cho đến cuối cùng, khi vâng theo ý chỉ của Cha Ngài. Do đó mà có sự kiện Ngài đã có thể an ủi tên cướp đang hấp hối, và thốt ra những tiếng kêu diệu kỳ trên thập tự giá.
Về phương diện thần học, từ ngữ “thập tự giá” đã được dùng như một phần mô tả tóm tắt Phúc âm cứu rỗi, rằng Chúa Cứu Thế Giê-xu đã chết vì tội chúng ta. Cho nên “truyền giảng Phúc âm” là truyền giảng đạo của thập tự giá, truyền giảng Chúa Cứu Thế đã bị đóng đinh vào thập tự giá (1Cô-rinh-tô1Cr 1:17). Vì thế, sứ đồ Phao-lô lấy làm vinh “về thập tự giá của Chúa Cứu Thế Giê-xu”, và nói về vấn đề chịu đau khổ, bách hại “vì thập tự giá của Chúa Cứu Thế”. Rõ ràng ở đây, từ ngữ “thập tự giá” tiêu biểu cho toàn thể công tác cứu chuộc qua sự chết của Chúa Giê-xu trên thập tự giá.
“Đạo của thập tự giá” cũng là “đạo giảng hoà” (2Cô-rinh-tô 2Cr 5:19). Đề mục nầy nổi bật hẳn lên rõ ràng trong thư Ê-phê-sô và Cô-lô-se. Chính “bởi thập tự giá” mà Đức Chúa Trời đã hoà giải người Do-Thái với người ngoại quốc, phá đổ bức tường ngăn cách, luật pháp của các điều răn (Ê-phê-sô Ep 2:14-16). Chính “bởi huyết của thập tự giá” mà Đức Chúa Trời đã làm hòa khi “khiến muôn vật dưới đất trên trời đều nhờ Ngài mà hoà thuận cùng chính mình Đức Chúa Trời” (Cô-lô-seCl 1:20). Việc hoà giải nầy vừa cho từng cá nhân, vừa cho toàn thể vũ trụ.
Hơn nữa, thập tự giá còn là biểu tượng của sự hợp nhất của chúng ta với Chúa Cứu Thế, không những chỉ đơn giản là việc chúng ta noi theo gương Ngài, mà cả trong những gì Ngài đã làm cho chúng ta và trong chúng ta nữa. Sự chết thay thế của Ngài cho chúng ta trên thập tự giá, chúng ta cũng “chết trong Ngài” (2Cô-rinh-tô 2Cr 5:14), và con người cũ của chúng ta đã cùng bị đóng đinh vào thập tự giá với Ngài, để nhờ Thánh Linh Ngài ngự vào lòng chúng ta, chúng ta có thể bước đi trong đời sống mới (Rô-maRm 6:4, Ga-la-tiGl 2:20; 5:24; 6:14) và ở trong Ngài.
V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
1. Mục đích: Cho các em chơi trò chơi để ôn lại các sự kiện trong tuần lễ cuối cùng trước khi Chúa Giê-xu chịu chết.
2. Chuẩn bị: Một số bìa cứng 4×6 cm, trên mỗi tờ, viết những việc xảy ra trong tuần lễ cuối cùng như: Các môn đồ đi dắt lừa con, Chúa Giê-xu vào thành Giê-ru-sa-lem, dân chúng reo hò đón Ngài, bữa tiệc cuối cùng (tiệc thánh), vườn Ghết-sê-ma-nê, Giu-đa Ích-ca-ri-ốt phản Chúa, Phi-e-rơ chối Chúa…
3. Thực hiện:
a. Chia các em làm hai nhóm, mỗi nhóm sẽ thi đua xếp các tấm bìa theo đúng thứ tự sự việc đã xảy ra.
b. Sau đó, mỗi nhóm lần lượt rút thăm 1 tấm bìa, rồi diễn kịch câm để nhóm kia đoán xem việc gì.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào đề.
Các em vừa ôn lại một số sự việc xảy ra trong tuần lễ cuối cùng của Chúa Giê-xu tại Giê-ru-sa-lem. Sau khi kết án Chúa Giê-xu, Phi-lát giao Ngài cho dân chúng. Lúc đó vào khoảng 8-9 giờ sáng, Chúa Giê-xu bị giải đi đóng đinh trên thập tự giá.
2. Bài học.
Đóng đinh là hình phạt kinh khiếp nhất thời bấy giờ, dành cho những phạm nhân phạm tội nặng, công dân La-mã hiếm khi bị xử phạt theo cách nầy. Hôm đó, có rất nhiều người đi theo xem Chúa Giê-xu bị hành hình, trong đó có cả quân lính, các thầy tế lễ, và các thầy thông giáo. Cùng bị đóng đinh với Chúa Giê-xu là hai tên cướp. Quân lính giải Chúa Giê-xu ra ngoài thành Giê-ru-sa-lem, đến một ngọn đồi hoang vắng, gọi là Gô-gô-tha, đây là nơi người ta dùng để thi hành án tử hình.
Suốt đêm qua Chúa Giê-xu đã bị đánh đập, nay lại phải vác cây thập tự nặng nề. Những người lính thấy Ngài kiệt sức, không thể vác được nữa, thì bắt một nông dân tên là Si-môn vác cây thập tự giúp Ngài.
Gô-gô-tha là một núi đá nhỏ, ít gập ghềnh và tương đối bằng phẳng, cao khoảng chừng 10m và đặc biệt hình dáng của núi nầy rất giống cái sọ người. Có lẽ vì vậy mà người ta gọi nó là đồi Sọ.
Theo tục lệ thời đó, Phi-lát phải ghi tội trạng của Chúa Giê-xu trên miếng gỗ gắn phía sau đầu Ngài. Vì vậy, phía trên đầu Ngài người ta ghi: “GIÊ-XU NGƯỜI NA-XA-RÉT, LÀ VUA DÂN GIU-ĐA”. Để tất cả mọi người đều có thể đọc và hiểu được, nên câu ấy được viết bằng ba thứ tiếng: Hê-bơ-rơ, La-tinh và Hy-lạp (Giăng 19:20).
Trong khi Chúa Giê-xu bị treo trên thập tự giá, thì ở bên dưới có nhiều người đứng xem. Các em đọc Lu-ca 23:35-37 xem họ đã nói gì?
Cùng lúc đó, quân lính phụ trách việc hành hình bắt thăm để lấy áo choàng bên ngoài của Ngài. Họ không hề biết việc họ làm đã ứng nghiệm lời tiên tri trong Kinh Thánh (mời một em đọc Thi thiên 22:18).
Chúa Giê-xu đau đớn và cô đơn trên thập tự giá, nhưng Ngài vẫn cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết mình làm điều gì”.
Khoảng từ giữa trưa cho đến ba giờ chiều hôm ấy, khắp xứ đều tối tăm mù mịt, mặt trời bị che khuất, không gian như một màn đen bao phủ. Bỗng nhiên Chúa Giê-xu thốt lên: “Mọi việc đã trọn” (Giăng 19:30). “Thưa Cha! Con xin giao linh hồn trong tay Cha” (Lu-ca 23:46). Tiếp đến Ngài tắt hơi! Các em đọc Lu-ca 23:44-45 xem sự việc xảy ra ngay khi Chúa Giê-xu chết? Các em đoán xem những người có mặt ở đó sẽ cảm thấy như thế nào?
Kinh Thánh chép lại một viên đại đội trưởng La-mã đứng gần cây thập tự thấy trời tối sầm lại, thấy Chúa Giê-xu chết như vậy, thì nói: “Người nầy vô tội” (Lu-ca 23:47), “Người nầy đúng là Con Đức Chúa Trời” (Mác 15:39). Dân chúng tận mắt chứng kiến Chúa Giê-xu trút hơi thở cuối cùng đều đấm ngực ra về, còn những người bạn của Ngài đứng ngó từ xa.
Sau đó, có một người tên là Giô-sép đến gặp Phi-lát xin cho đem xác Chúa xuống để về chôn. Giô-sép là người giàu có, ông có một ngôi mộ mới trong sườn núi, chưa chôn ai hết (mộ của người Do-thái xưa giống như cái động được đục trong đá, có thể chôn đến tám người).
Được sự đồng ý của Phi-lát, ngay lập tức, Giô-sép và Ni-cô-đem hạ xác Chúa xuống. Họ gấp rút làm xong trước khi trời tối, vì ngày mai là ngày Sa-bát, theo luật của người Do-thái, không ai được chạm vào xác chết. Hai người lấy vải gai mịn và thuốc thơm tẩm liệm thi hài Chúa, rồi sau đó cẩn thận đặt vào trong mộ.
Có mấy người phụ nữ đến xem Giô-sép và Ni-cô-đem đặt xác Chúa Giê-xu vào mộ, rồi lấy đá lấp cửa mộ lại. Khi trở về, họ sắm sửa thuốc thơm và sáp thơm để sau ngày Sa-bát sẽ đến viếng mộ Chúa.
Trong khi đó thì các thầy tế lễ cả và người Pha-ri-si đến yêu cầu Phi-lát cho niêm phong mộ Chúa, và sắp đặt quân lính canh gác cẩn thận, để đề phòng các môn đồ đến lấy cắp xác Chúa rồi loan tin Ngài sống lại. Tuần sau, các em sẽ biết việc đề phòng của họ có thành công không nhé!
3. Ứng dụng.
Các em thân mến! Có lẽ các em thường nghe câu chuyện nầy, nhất là vào dịp Lễ Thương khó và Phục sinh, nhưng thật ra các em không nên nhớ đến sự thương khó của Chúa khi nghe đến chuyện ấy, mà luôn biết ơn sự hy sinh của Ngài.
Tuy các em không có mặt trong đám đông chứng kiến Chúa Giê-xu chịu đóng đinh, nhưng các em nên tin chắc rằng Chúa Giê-xu chết là vì các em (cho các em đọc câu gốc). Sự chết của Chúa Giê-xu có liên quan gì đến sự sống của các em không? (Sự chết của Chúa khiến tội của em được tha, và nhờ thế các em đến với Đức Chúa Trời và hưởng được nhiều ơn của Ngài)
Qua bài học hôm nay, anh (chị) mong các em nhận biết tình yêu của Chúa Giê-xu đã dành cho các em, và có hành động xứng đáng với tình yêu ấy như: Tin nhận Ngài, làm theo lời Chúa, ca ngợi Ngài, nói về sự chết của Chúa cho bạn bè…
BÀI 4. CHÚA GIÊ-XU, ĐẤNG SỐNG ĐỜI ĐỜI
I. KINH THÁNH: Lu-ca 24:1-8, 13-53; Giăng 20:19-29.
II. CÂU GỐC: “Đức Chúa Trời là Đấng đã khiến Chúa sống lại, cũng sẽ lấy quyền phép mình khiến chúng ta sống lại nữa” (1Cô-rinh-tô 6:14).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em
– Biết: Chúa Giê-xu phục sinh và hiện ra với các môn đồ.
– Cảm nhận: Chúa Giê-xu sống lại từ cõi chết chứng tỏ Ngài chính là Đức Chúa Trời.
– Hành động: Em tin Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời, Ngài đã sống lại để ban cho em sự sống đời đời.
IV. PHẦN GIÁO VIÊN SUY GẪM.
Nét đặc trưng đáng chú ý nhất trong những lời rao giảng của các Cơ Đốc Nhân đầu tiên là nhấn mạnh về sự sống lại của Chúa Giê-xu. Điều nầy khiến họ nổi bật trong số những thầy dạy đạo khác thời bấy giờ, và cũng khiến Cơ Đốc Giáo khác biệt với các tôn giáo khác. Rõ ràng sự sống lại là điều rất quan trọng trước tiên đối với niềm tin Cơ Đốc.
Các sách Phúc âm cho biết Chúa Giê-xu đã bị đóng đinh, Ngài chết và chôn. Đến ngày thứ ba, phần mộ nơi đặt xác Ngài trống không. Các thiên sứ nói với những người đàn bà đến thăm mộ rằng, Ngài đã sống lại từ kẻ chết. Một số kẻ vô tín đã nghi ngờ về sự kiện ngôi mộ trống. Họ gợi ý rằng các môn đồ đã không đến đúng ngôi mộ của Chúa Giê-xu, và người thanh niên trong bộ đồ trắng nói rằng: “Ngài không ở đây đâu”, hàm ý rằng: “Ngài ở một ngôi mộ khác”. Giả thuyết nầy không thể trả lời được câu hỏi: “Chẳng lẽ tất cả bạn bè, người thân và cả kẻ thù của Chúa đều hoàn toàn quên ngôi mộ chôn Ngài sao?” Khi bài rao giảng đầu tiên nhấn mạnh về sự sống lại của các sứ đồ, chúng ta có thể tin chắc rằng, các lãnh đạo tôn giáo và nhà cầm quyền sẽ nỗ lực đi tìm xác Chúa.
Nếu ngôi mộ trống, khả năng chỉ có ba trường hợp xảy ra: (1) Những người bạn của Chúa đã đem giấu xác Ngài ở một nơi tuyệt đối bí mật. (2) Kẻ thù phi tang xác Chúa. (3) Chúa Giê-xu đã thật sự sống lại. Giả thiết thứ nhất rất khó xảy ra. Tất cả chứng cớ cho thấy không có ý nghĩ nào về sự sống lại trong đầu của các môn đồ, và họ là những người tuyệt vọng trong đêm Chúa Giê-xu bị bắt. Những ngày sau đó, họ là những người mất nhuệ khí, mệt mỏi và đã chạy trốn vì sợ những nhà lãnh đạo Do-thái. Hơn nữa, theo Ma-thi-ơ, có lính canh nơi cửa mộ nên người thân và bạn bè của Chúa không thể đánh cắp xác Ngài, thậm chí khi họ muốn làm điều nầy. Tuy nhiên, điều đó không thể xảy ra, vì qua sách Công vụ chúng ta thấy họ đã chịu khổ như thế nào để rao giảng sự sống lại của Chúa. Nếu những điều họ biết là giả dối, thì không ai có thể chịu đựng được những sự bắt bớ như vậy. Tóm lại, giả thuyết cho rằng các môn đồ đã đánh cắp xác Chúa không thể nào xảy ra.
Cũng khó có thể cho rằng những kẻ chống nghịch Chúa đã di dời hoặc phi tang xác Ngài. Tại sao? Bởi họ không có một động lực nào để làm điều đó. Vì như vậy chắc chắn những tin đồn về sự phục sinh mà họ lo sợ sẽ lan ra. Hơn nữa, những lính canh phần mộ chắc cũng là một trở ngại lớn cho họ như đối với các bạn của Chúa. Nếu như họ làm điều đó, thì tại sao họ không đem xác Chúa Giê-xu ra ngay khi các môn đồ rao giảng về sự phục sinh? Trong hoàn cảnh nầy, nếu họ đem xác Chúa Giê-xu ra, Hội Thánh của Chúa chắc chắn đã giải tán trong sự xấu hổ. Sự im lặng của người Do-thái có ý nghĩa như lời rao giảng của các Cơ Đốc Nhân. Đây là những sự phủ nhận quả quyết cho giả thuyết trên.
Vì không thể cho rằng hoặc các bạn hoặc kẻ thù đã lấy cắp xác Chúa, và vì ngôi mộ trống không, nên chúng ta phải công nhận giả thuyết về sự phục sinh. Điều nầy còn được ủng hộ bởi những sự hiện ra của Chúa sau khi Ngài phục sinh cho cá nhân lẫn tập thể, cho đàn ông lẫn đàn bà nhìn thấy, đặc biệt là với Phao-lô. Ông không phải là người dễ tin, nhưng là người có học, người đã rất căm ghét Cơ Đốc Nhân. Ông đã làm chứng một cách mạnh mẽ rằng, ông đã nhìn thấy Chúa Giê-xu sau khi Ngài từ kẻ chết sống lại. Ông tin chắc đến nỗi, ông đã đặt trọn cuộc đời mình vào niềm tin đó.
Có một giả thuyết khác cho rằng Chúa Giê-xu không chết thật, nhưng chỉ ngất đi, sau đó trong mộ lạnh Ngài đã tỉnh lại. Giả thuyết nầy làm phát sinh nhiều thắc mắc: Ngài đã ra khỏi phần mộ thế nào? Điều gì xảy ra với Ngài? Sau đó Ngài đi đâu? Sao chúng ta không nghe thêm gì về Ngài? Ngài chết khi nào?…v…v… Câu hỏi thì nhiều nhưng câu trả lời thì không. Một số người đã nghĩ các môn đồ bị ảo giác, nhưng làm sao ảo giác lại xảy ra cho 500 người cùng một lúc?
Trên thực tế, không có câu trả lời nào chính xác và dễ dàng hơn là Chúa Giê-xu đã phục sinh đúng như lời Ngài đã phán. Sự phục sinh của Chúa có ý nghĩa rất lớn đối với niềm tin Cơ Đốc.
V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
* Trò chơi thú vị.
Có thể chia các em thành từng nhóm, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, các nhóm mở sách học viên bài 4 phần 1, lần lượt đọc các câu ở cột bên trái và nối vào địa chỉ ở cột bên phải sao cho thích hợp.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào đề.
Các em thân mến! Chúa Giê-xu đã chết. Mộ Ngài đã đóng kín và có quân lính canh gác. Các môn đồ và người thân của Ngài buồn bã, không còn hy vọng gì nữa, vì đối với họ, Chúa Giê-xu đã chết thật rồi. Các em thấy suy nghĩ của họ như vậy có đúng không? Tại sao? (Cho các em trả lời).
2. Bài học.
(Câu chuyện nầy quen thuộc nên cho các em tham gia vào bài học bằng cách đóng kịch ngắn, dựa vào những phân đoạn Kinh Thánh được đưa ra dưới đây).
* Lu-ca 24:1-8.
Sáng sớm Chúa nhật (ba ngày sau khi Chúa Giê-xu chết), có mấy phụ nữ đem theo thuốc thơm đến mộ Chúa. Nhưng khi đến nơi, họ thấy tảng đá lớn chặn trước cửa mộ đã lăn qua một bên. Các bà không biết việc gì đã xảy ra nên vội bước vào trong mộ và kinh ngạc vì không thấy xác Chúa Giê-xu đâu cả. Đang hoang mang không biết phải tính sao, thì thình lình có hai người nam mặc áo sáng ngời xuất hiện trước mặt họ, và nói: “Chúa không ở đây đâu, Ngài đã sống lại rồi!” Các bà nhớ lại lời Chúa đã phán khi Ngài còn sống rằng, Ngài sẽ bị đóng đinh trên thập tự giá, đến ngày thứ ba sẽ sống lại. Các bà vui mừng chạy về báo tin cho mọi người biết Chúa Giê-xu đã sống lại. Nhưng các môn đồ nghi ngờ, không tin đó là sự thật. Mọi người nhóm nhau lại bàn tán về việc đó.
* Lu-ca 24:13-35.
Đến chiều, có hai môn đồ đi về làng Em-ma-út, cách thành phố Giê-ru-sa-lem khoảng 12 km. Họ vừa đi vừa bàn cãi về việc mấy bà nói Chúa Giê-xu đã sống lại, thì ngay lúc đó Chúa Giê-xu hiện ra đi bên cạnh họ, nhưng họ không nhận ra Ngài. Các em nghĩ tại sao hai môn đồ nầy không nhận ra Chúa Giê-xu? Chúa Giê-xu hiện ra với hình dạng khác chăng? Vì tâm trí họ đầy sự lo âu, bối rối, buồn bã và nghi ngờ Chúa sống lại, nên không thể nhận ra người đi bên cạnh mình là Chúa Giê-xu.
Chúa Giê-xu hỏi: “Các anh đang bàn luận chuyện gì vậy?”
Hai môn đồ dừng lại, nét mặt buồn bã, một trong hai người nói: “Trong cả thành Giê-ru-sa-lem, chắc chỉ có mình ông không biết việc gì xảy mấy ngày nay?”
Chúa Giê-xu hỏi: “Việc gì vậy?”
Họ kể cho Chúa nghe tất cả mọi việc xảy ra cho Chúa Giê-xu. Nào là Ngài đã làm nhiều phép lạ, chữa lành nhiều bệnh tật, nhưng đã bị bắt và đóng đinh trên thập tự giá. Một người nói tiếp: “Chúng tôi luôn tin Ngài là Chúa Cứu Thế đến để giải cứu dân tộc chúng tôi. Nhưng bây giờ Ngài đã chết ba ngày rồi. Sáng sớm hôm nay có mấy người đàn bà đến thăm mộ, họ nói thi hài của Ngài đã biến mất, rồi có hai thiên sứ báo với họ là Chúa đã sống lại. Một vài môn đồ chạy đến mộ, đúng như lời các bà nói, chẳng thấy xác Ngài đâu”.
Hai môn đồ vừa nói vừa đi tiếp đến làng Em-ma-út. Suốt đoạn đường đi, Chúa Giê-xu giảng giải cho hai môn đồ những lời tiên tri đã nói về Ngài trong Kinh Thánh.
Đến chiều tối, họ đến làng Em-ma-út. Chúa Giê-xu muốn đi tiếp, nhưng hai môn đồ cố nài Ngài ở lại, vì trời đã gần tối. Hành động đó biểu hiện lòng mến khách, vì để một người đi trên đường vào ban đêm là việc hết sức nguy hiểm.
Chúa Giê-xu nhận lời mời của họ. Ngài vào nhà và cùng ăn tối với họ. Khi ngồi vào bàn, Chúa Giê-xu cầm bánh, tạ ơn Đức Chúa Trời rồi bẻ ra trao cho họ. Ngay lúc đó, họ mới nhận ra người đi bên cạnh họ từ chiều đến giờ chính là Chúa Giê-xu. Đó không phải là lời đồn đại nữa, mà là tận mắt họ nhìn thấy Chúa Giê-xu sống lại. Nhưng Chúa đã biến mất.
Hai môn đồ vừa kinh ngạc và vừa mừng rỡ biết bao. Chúa Giê-xu thực đã sống lại! Họ nói với nhau: “Dọc đường, Chúa nói chuyện và giải nghĩa Kinh Thánh, lòng chúng ta há chẳng nóng nảy sao?” (Lu-ca 24:32). Họ vội vã quay trở về Giê-ru-sa-lem để chia sẻ niềm vui đó với các môn đồ khác, mặc dù trời đã tối.
* Lu-ca 24:36-43.
Khi hai môn đồ về đến Giê-ru-sa-lem, thì gặp các môn đồ khác đang nhóm lại trong phòng cao. Mọi người khóa chặt cửa lại vì sợ hãi. Hai người liền thuật lại mọi việc vừa xảy ra với họ. Đang nói, bỗng Chúa Giê-xu hiện ra đứng chính giữa các môn đồ và phán rằng: “Bình an cho các con”.
Nếu có mặt ở đó, các em sẽ cảm thấy như thế nào? Các môn đồ đều sửng sốt rụng rời, họ tưởng là thần linh. Chúa Giê-xu thấy sắc mặt sợ hãi của các môn đồ thì phán: “Sao các con bối rối? Sao vẫn còn nghi ngờ? Hãy xem tay chân Ta. Chính Ta đây! Hãy sờ Ta xem, vì thần linh đâu có thịt xương, còn Ta thì có đấy!” (Lu-ca 24:38-39).
Các môn đồ nhìn thấy dấu đinh trên bàn tay và chân Ngài. Để xác quyết với các môn đồ Ngài đang đứng trước mặt họ bằng xương bằng thịt, nên Ngài hỏi: “Các con có gì ăn không?” Các môn đồ dâng cho Ngài miếng cá nướng và tận mắt nhìn thấy Chúa Giê-xu ăn trước mặt họ.
Chúa Giê-xu nhẫn nại nhắc lại lời Kinh Thánh để củng cố đức tin của các môn đồ, và căn dặn họ làm chứng về sự chết, sự sống lại của Ngài (Lu-ca 24:46-48).
3. Ứng dụng.
Các em thân mến, sau khi Chúa Giê-xu sống lại, Ngài còn ở thế gian bốn mươi ngày nữa. Trong những ngày đó, Ngài hiện ra với nhiều người khác nữa, dạy dỗ, dặn dò, thậm chí còn ăn uống với họ vài lần nữa. Sau đó, Ngài thăng thiên về trời và hứa sẽ quay trở lại.
Các em nghĩ xem nếu Chúa Giê-xu không sống lại, thì các em nghĩ về Ngài như thế nào? Nếu Chúa Giê-xu không sống lại, thì Ngài có thể cứu các em ra khỏi tội lỗi không? (Cho các em chia sẻ).
Tham khảo các đoạn Kinh Thánh sau.
– 1Cô-rinh-tô 15:14: Chúa Giê-xu chứng tỏ Ngài là Đức Chúa Trời qua sự sống lại. Nếu Ngài không phục sinh, chúng ta sẽ không có một Cứu Chúa, chúng ta vẫn phải chịu hình phạt của Đức Chúa Trời vì tội lỗi của chúng ta, nhưng Chúa Giê-xu đã sống lại để gánh thay hình phạt cho chúng ta.
– Rô-ma 6:9: Chúa Giê-xu sống lại chứng tỏ Ngài có quyền năng thắng hơn sự chết. Rô-ma 6:9 chép: “Chúa Giê-xu… chẳng chết nữa; sự chết không còn cai trị trên Ngài”. Những người tin Chúa Giê-xu khi chết đi sẽ được ở cùng Chúa.
– 1Cô-rinh-tô 15:17 và Giăng 14:6: Chúa Giê-xu sống lại chứng tỏ Ngài có quyền cứu chúng ta ra khỏi tội lỗi, ban cho chúng ta địa vị làm con cái Đức Chúa Trời.
– 1Cô-rinh-tô 6:14: Chúa Giê-xu sống lại bảo đảm cho chúng ta về sự sống lại. Nếu chúng ta qua đời, chúng ta sẽ được sống lại trong ngày Chúa trở lại, và sau đó ở với Ngài mãi mãi.
– Giăng 14:3: Chúa Giê-xu đã sắm sẵn một chỗ tốt đẹp cho chúng ta ở trên trời. Vì vậy, sau khi chết, chúng ta sẽ ở với Chúa trong nơi tốt đẹp đó.
– Ma-thi-ơ 28:20: Chúa Giê-xu luôn ở cùng chúng ta cho đến tận thế.
– Công vụ 1:11: Chúa sẽ trở lại thế gian, chúng ta chờ đợi và chuẩn bị sẵn sàng tiếp đón Chúa.
BÀI 5. ĐỜI SỐNG MỚI
I. KINH THÁNH: Giăng 3:1-21.
II. CÂU GỐC: “Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời” (Ê-phê-sô 2:8).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em
– Biết: Muốn vào Nước Trời thì phải được tái sanh.
– Cảm nhận: Đời sống được tái sanh là nhờ ân điển Chúa ban cho.
– Hành động: Ăn năn, xưng tội với Chúa, mời Chúa Giê-xu ngự vào lòng để đời sống được đổi mới.
IV.PHẦN GIÁO VIÊN SUY GẪM.
Ni-cô-đem theo tiếng Hy-lạp có nghĩa là “người chinh phục dân chúng”. Chúng ta chỉ nhìn thấy Ni-cô-đem trong sách Giăng, được mô tả là người Pha-ri-si và là thành viên của toà án tối cao Do Thái. Ông là người đến thăm Chúa Giê-xu vào ban đêm (Giăng 3:1-21). Ni-cô-đem có vẻ là người sốt sắng, đã bị thu hút bởi tính cách và sự giảng dạy của Chúa Giê-xu, nhưng sợ những người bạn Pha-ri-si của ông biết về sự quan tâm nầy. Ông không thể hiểu những ẩn dụ thuộc linh mà Chúa Giê-xu đã nói. Ni-cô-đem phai nhạt khỏi bối cảnh này và chúng ta được để lại với lời của Chúa nói về Do-Thái giáo bị bao quanh bởi sự tối tăm.
Sau đó, Ni-cô-đem được đề cập lại trong GiăngGa 7:50-52. Ở đây, chúng ta thấy ông tỏ ra mạnh dạn hơn trong việc chống lại vụ kết án Chúa Giê-xu. Cuối cùng, ông được nhắc đến trong GiăngGa 19:40 với hình ảnh đẹp- Đem đến hương liệu qúy giá để tẩm xác Chúa. Ngoài ra, chúng ta không biết thêm gì nữa về Ni-cô-đem, mặc dù có nhiều truyền thuyết về ông.
Qua cuộc trò chuyện giữa Chúa Giê-xu và Ni-cô-đem, chúng ta thấy vấn đề quan trọng được nói đến là sự tái sanh. Tái sanh là công việc siêu nhiên do Đức Thánh Linh thực hiện trong tâm linh của một người tin nhận Chúa Giê-xu, để làm mới lại tâm linh của người ấy theo hình ảnh của Đức Chúa Trời .
Con người với bản chất tội lỗi, đã chết về mặt thuộc linh, bị phân cách với Đức Chúa Trời là nguồn của sự sống, bởi đó tâm tánh của con người trở nên bại hoại, ô uế, không thể sống thánh khiết theo ý muốn Đức Chúa Trời, nhưng cứ có khuynh hướng về những việc tội lỗi, và làm theo ý muốn của bản ngã mình. Trong sự chết thuộc linh này, con người trở nên bất lực, không thể nhận biết được những điều thuộc về Đức Chúa Trời, cũng như không có khả năng để sống theo ý muốn của Ngài. Do vậy, sự tái sanh hoàn toàn bị tác động bởi quyền năng của Đức Thánh Linh. Kết quả là khi một người được tái sanh, thì người ấy sẽ nhận lãnh sự sống của Ngài, được phục hồi lại mối tương giao với Chúa. Người ấy có một bản tánh mới, xu hướng về Đức Chúa Trời, có thể hiểu biết những giá trị thiên thượng, và có năng lực bởi sự sống mới Chúa ban để làm những việc lành. Sự tái sanh là sự kiện xảy ra tức thời bởi sự vận hành của Đức Thánh Linh, và con người hòan toàn bị động trong việc này. Bởi hành động nầy mà “hạt giống” sự sống mới của Đức Chúa Trời được hình thành trong đời sống một người, và nó bắt đầu cho một quá trình tăng trưởng sẽ tiếp tục diễn ra trong đời sống theo Chúa của người ấy.
V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
1. Chuẩn bị: Nước, vỏ chai nước khoáng, phẩm màu đỏ, hoa cúc trắng (hoặc rau cần).
2. Thực hiện:
Hướng dẫn các em làm thí nghiệm trong sách học viên bài 5. Giáo viên làm trước thí nghiệm nầy ở nhà, rồi đem đến lớp cho các em xem.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào đề.
Mấy tuần vừa qua, các em đã biết về Chúa Giê-xu chịu chết và phục sanh như thế nào rồi phải không? Các em có biết vì sao Chúa Giê-xu phải chịu chết không? Sự phục sinh của Ngài đem đến cho em những gì? Ngài muốn các em trở thành một người như thế nào? (Dành 1 phút cho các em chia sẻ).
2. Bài học.
Các em biết không, vài năm trước khi Chúa Giê-xu chịu chết, có một người đi tìm gặp Ngài vào ban đêm. Người đó tên là Ni-cô-đem, một trong những người lãnh đạo dân Giu-đa, và là một người Pha-ri-si giàu có.
Các em biết gì về người Pha-ri-si? Người Pha-ri-si vâng giữ nghiêm ngặt luật pháp Môi-se. Nhiều người Pha-ri-si cho rằng mình tuân giữ đúng luật của Đức Chúa Trời nên tỏ ra kiêu ngạo, cho mình là người tốt. Tuy nhiên, cũng có những người Pha-ri-si như Ni-cô-đem, không tự cao tự đại mà hết lòng vâng giữ luật pháp Đức Chúa Trời.
Ni-cô-đem nghe mọi người đồn đại về những phép lạ và sự dạy dỗ của Chúa Giê-xu, nên một buổi tối nọ, ông tìm gặp và muốn trò chuyện với Ngài. Các em đọc Giăng 3:2 xem Ni-cô-đem nhận biết về Chúa Giê-xu như thế nào?
Chúa Giê-xu nhìn con người trầm lặng, nghiêm trang đang ngồi trước mặt Ngài, Ngài biết Ni-cô-đem luôn giữ luật pháp Đức Chúa Trời. Ni-cô-đem chưa nêu lên câu hỏi của mình, thì Chúa Giê-xu đã phán: “Nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời” (Giăng 3:3) (ghi câu Kinh Thánh nầy lên bảng). Chúa Giê-xu muốn Ni-cô-đem hiểu điều quan trọng không phải là các phép lạ, làm người tốt hay vâng giữ luật pháp Đức Chúa Trời, mà là sự thay đổi trong tấm lòng. Đó là sự tái sanh mà Chúa Giê-xu phán là “sanh lại”.
Ni-cô-đem không hiểu lời Chúa Giê-xu phán. Từ trước đến nay ông cứ nghĩ rằng, chỉ cần vâng giữ luật pháp Đức Chúa Trời thì được vào nước thiên đàng. Vì vậy, Ni-cô-đem ngạc nhiên khi nghe Chúa Giê-xu nói vâng giữ luật pháp không đủ để vào nước Đức Chúa Trời, mà phải được sanh lại mới có thể trở thành thành viên trong gia đình Đức Chúa Trời. Ông tưởng Chúa Giê-xu nói “sanh lại” có nghĩa là trở vào lòng mẹ và sanh lần thứ hai, nên ông hỏi: “Người đã già thì sanh lại làm sao được?”
Chúa Giê-xu giảng cho ông hiểu, muốn trở thành con dân Nước Trời, thì người đó phải có một đời sống mới, tức phải sanh lại.
Ni-cô-đem vẫn còn chưa hiểu, thì bỗng đâu có một làn gió nhẹ thổi qua, Chúa Giê-xu mượn ngay hình ảnh gió để tiếp tục giải thích cho Ni-cô-đem hiểu. Ngài nói: “Gió muốn thổi hướng nào cũng được, nghe tiếng gió, nhưng ông không biết gió đến từ đâu hay sẽ đi đâu. Người được sanh lại bởi Đức Thánh Linh cũng giống như vậy” (Giăng 3:8).
Các em có thể nhìn thấy gió có hình dáng như thế nào không? Thế tại sao các em biết có gió? (Cho các em trả lời). Các em thấy cánh buồm căng lên, con diều bay cao, cành cây đung đưa xào xạc, tóc em bay bay… thì các em biết có gió, đúng không?
Cũng vậy, sự tái sanh mà Đức Thánh Linh thực hiện trên một người là hành động xảy ra bên trong. Một người được tái sanh nhìn bên ngoài vẫn không có gì thay đổi, nhưng tấm lòng người đó được thay đổi. Ví dụ trước kia người đó thường đánh lộn, chưởi thề, ăn cắp… nhưng sau khi được tái sanh thì không còn làm những điều đó nữa, mà làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời.
Tuy Ni-cô-đem là người có học thức, nhưng ông vẫn không hiểu hết lời dạy của Chúa Giê-xu. Ni-cô-đem thắc mắc: “Làm sao có thể thực hiện được điều đó?” Chúa Giê-xu liền dùng hình ảnh con rắn đồng để giải thích cho ông hiểu. Các em còn nhớ câu chuyện về con rắn đồng không? (Giáo viên cho các em nhắc lại. Tham khảo Dân-số-ký 21:4-9).
Như các em đã biết, trong dân Y-sơ-ra-ên, hễ ai nhìn lên con rắn đồng thì được sống. Ni-cô-đem biết rất rõ câu chuyện nầy, nên Chúa Giê-xu phán: “Xưa Môi-se treo con rắn lên nơi đồng vắng thể nào, thì Con người cũng phải bị treo lên dường ấy, hầu cho hễ ai tin đến Ngài đều được sự sống đời đời” (Giăng 3:14-15).
Chúa Giê-xu nói như vậy là có ý gì? Theo các em, con rắn bằng đồng treo trên cây sào đó có quyền phép chữa trị không? Tại sao dân chúng được cứu sống? (Vì họ tin cậy và vâng lời Đức Chúa Trời nhìn lên con rắn treo trên cây sào). Chúa Giê-xu lấy hình ảnh con rắn treo trên cây sào trong thời Cựu ước để chỉ về Ngài. Ngài cũng phải bị treo trên thập tự giá, và hễ ai tin nhận Ngài thì nhận được sự sống mới.
Bây giờ, Ni-cô-đem đã hiểu điều Chúa Giê-xu muốn nói. Tuy nhiên, kết thúc buổi nói chuyện, chúng ta không thấy Kinh Thánh nói Ni-cô-đem tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa.
3. Ứng dụng.
Các em thân mến, sau khi nghe xong câu chuyện giữa Chúa Giê-xu và Ni-cô-đem, các em đã biết Chúa muốn các em làm gì rồi phải không? (Lắng nghe ý kiến của các em, nhấn mạnh rằng Chúa Giê-xu yêu các em, Chúa muốn tất cả các em đều được tái sanh để trở thành con cái Ngài).
Chúa Giê-xu phán rằng: “Các ngươi phải sanh lại” (Giăng 3:7b). Đó là bước đầu tiên và cũng là bước quan trọng để vào Nước Đức Chúa Trời. Chúng ta tìm hiểu xem tại sao phải tái sanh và làm thế nào để được tái sanh nhé!
a. Trước hết, các em cần hiểu tại sao phải sanh lại. Rô-ma 3:23 nói tất cả chúng ta đều phạm tội với Chúa, và hễ ai phạm tội thì không thể trở thành con cái của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời yêu các em nên Ngài đã sai Chúa Giê-xu đến thế gian, chịu chết trên thập tự giá để chuộc tội cho các em. Nếu các em tin Chúa Giê-xu thì sẽ được tha tội. Ngay lúc đó, các em sẽ được ban cho một tấm lòng mới, tức được tái sanh và các em sẽ trở nên con cái của Đức Chúa Trời (cho các em xem lại thí nghiệm trong phần sinh hoạt đầu giờ).
b. Thứ hai, làm thế nào để được sanh lại? (Mời các em cùng đọc Ê-phê-sô 2:8-9). Trong hai câu Kinh Thánh nầy có những chữ hết sức quan trọng, đó là: “ân điển”, “đức tin”, “được cứu”.
– Thế nào là “ân điển?”
“Ân điển” là một từ quen thuộc nhưng có ý nghĩa sâu sắc. “Ân điển” là sự ban cho của Đức Chúa Trời một cách vô điều kiện, dù chúng ta không xứng đáng. Chúa Giê-xu là món quà vô giá mà Đức Chúa Trời ban cho con người, không đòi hỏi điều kiện nào hết, chỉ cần con người nhận lấy.
– “Đức tin” là gì?
“Đức tin” là đặt lòng tin hoàn toàn vào một người. Các em tin Chúa có nghĩa là các em hoàn toàn tin cậy Ngài, tin Ngài là Đức Chúa Trời, tin Ngài yêu các em và đã chịu chết trên thập tự giá để chuộc tội cho các em.
– “Được cứu”
Đây là từ chỉ về những người được ở trong nhà Đức Chúa Trời. Khi các em thật lòng tin Chúa, Chúa sẽ tha tội cho các em (Giăng 3:16). Các em được cứu khỏi sự hình phạt của tội lỗi, khỏi sự chết đời đời.
Phần cuối câu gốc có nói: “… không phải đến từ anh em mà là sự ban cho của Đức Chúa Trời”. Đức Chúa Trời ban cho các em một đời sống mới không phải vì các em tốt, giỏi… nhưng bởi tình yêu của Ngài. Vì thế, các em phải tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa và tạ ơn Ngài đã cho các em trở thành con cái của Ngài.
(Giáo viên kêu gọi các em tiếp nhận Chúa, hoặc dâng đời sống mình cho Ngài).
BÀI 6. CHÚA GIÊ-XU LÀ NGUỒN NƯỚC SỐNG
I. KINH THÁNH: Giăng 4:1-30, 39-42.
II. CÂU GỐC: “Kẻ trộm chỉ đến để cướp giết và hủy diệt; còn Ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống, và được sự sống dư dật” (Giăng 10:10).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em
– Biết: Người phụ nữ Sa-ma-ri đã nhận được nguồn Nước Sống sau khi gặp gỡ và trò chuyện với Chúa Giê-xu.
– Cảm nhận: Chúa Giê-xu ban sự sống đời đời cho những ai tin nhận Ngài.
– Hành động: Tin nhận Chúa Giê-xu và nhờ cậy Ngài trong đời sống.
VI. PHẦN GIÁO VIÊN SUY GẪM.
Đoạn Kinh Thánh của bài nầy bắt đầu khi Chúa Giê-xu rời khỏi xứ Giu-đê để đi đến xứ Ga-li-lê. Có hai tuyến đường để đi từ Giu-đê đến Ga-li-lê. Tuyến thứ nhất dài hơn là đi ngang qua vùng đất của dân ngoại về phía đông Giô-đanh. Tuyến thứ hai ngắn hơn là đi ngang qua xứ Sa-ma-ri. Tuy nhiên, giữa dân Giu-đa và dân Sa-ma-ri có sự hiềm khích lâu đời, vì dân Giu-đa khinh thường người Sa-ma-ri, cho họ là dân tạp (tổ tiên của người Sa-ma-ri kết hôn với người ngoại bang).
Chúa Giê-xu cố tình đi ngang qua Sa-ma-ri chứng tỏ Ngài không giống như dân Giu-đa, và Ngài nghỉ chân bên một giếng nước. Theo thói quen sinh hoạt lúc bấy giờ, những người phụ nữ thường ra múc nước vào buổi sáng hoặc buổi tối mát mẻ. Nhưng người phụ nữ nầy lấy nước vào giữa trưa, chắc để tránh mặt những người khác vì bà có một đời sống không tốt.
Hành động trò chuyện và xin nước uống của Chúa Giê-xu vượt qua hai thành kiến của người Do thái. Đó là tiếp cận với phụ nữ và nói chuyện với người Sa-ma-ri. Tuy nhiên sự ngạc nhiên của người đàn bà Sa-ma-ri (câu 9) cho chúng ta suy nghĩ thành kiến về chủng tộc mạnh hơn thành kiến về giới tính.
Người đàn bà Sa-ma-ri kinh ngạc khi nghe Chúa Giê-xu đề nghị bà cho nước uống. Vì thế, bà hỏi lại Chúa tại sao không làm theo lệ thường (câu 9). Chúa Giê-xu cũng không trực tiếp trả lời bà mà nói về “Nước Sống” để dẫn dắt bà suy nghĩ về chính bản thân mình. Khi bà biết Chúa Giê-xu nói về nước của sự sống (câu 14), thì cầu xin Ngài ban nước nầy cho bà, để bà không cần phải đi lấy nước mỗi ngày nữa. Bà còn ngạc nhiên hơn khi Chúa Giê-xu biết rõ quá khứ cũng như hiện tại của bà. Lúc đầu, bà tưởng Chúa Giê-xu là một tiên tri, nhưng khi Chúa Giê-xu bày tỏ Ngài là Đấng Mê-si-a (câu 21-22), bà đã mừng đến nỗi bỏ cả vò đựng nước của mình, chạy vào thành thông báo cho mọi người biết mình đã gặp Cứu Chúa.
Chúng ta để ý cách xưng hô của người đàn bà này đối với Chúa Giê-xu. Đầu tiên, bà gọi Chúa Giê-xu là “ông”. Sau đó, khi nghe Chúa Giê-xu nói đến Nước Sống, bà đổi cách xưng hô gọi Ngài là “Chúa” (câu 11). Khi Chúa Giê-xu chỉ ra những bí mật trong cuộc sống của mình, bà gọi Ngài là “tiên tri” (câu 19). Sau cùng, bà nhận biết Chúa Giê-xu chính là “Đấng Mê-si-a” (câu 25). Chúa Giê-xu cố ý trò chuyện với bà để dẫn dắt bà đến niềm tin trong Ngài. Từ đó, đời sống của bà đã được thay đổi. Trước kia, bà không dám đối diện với người khác, nhưng nay thì dám đứng trước mọi người để nói về quá khứ xấu xa của mình. Không những thế, bà còn làm chứng cho những người trong thành về Chúa Giê-xu nữa (câu 28-29).
Chúa Giê-xu đi vào Sa-ma-ri chứng tỏ Ngài yêu thương tất cả mọi người trên thế gian nầy. Ngài không xa lánh những người bị coi khinh, cũng không có sự phân biệt giữa người nầy với người khác. Điều Ngài quan tâm là tấm lòng khao khát của chúng ta. Chúa Giê-xu sẵn lòng giúp chúng ta trưởng thành, cho chúng ta có sức mạnh để đối mặt và giải quyết những khó khăn trong cuộc sống.
V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
* Ai là bạn tri kỷ.
Cho các em thực hiện phần “Ai là bạn tri kỷ?” trong sách học viên. Hướng dẫn các em ghi tên những bạn càng thân thì ở những vòng tròn càng gần em. Làm xong, dành thời gian cho các em chia sẻ họ tên người được viết ở vòng tròn gần nhất.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào đề.
(Sau khi các em chia sẻ xong, giáo viên dẫn vào bài học Kinh Thánh).
Các em thân mến, bạn bè thân thiết thường có ít nhiều ảnh hưởng đến nhau. Tuy nhiên, trong bài học Kinh Thánh hôm nay, các em sẽ thấy có một người phụ nữ lần đầu tiên gặp Chúa Giê-xu, nhưng đời sống của bà hoàn toàn thay đổi.
2. Bài học.
(Mời giáo viên khác hoặc các em trong lớp tham gia vào bài học Kinh Thánh. Vẽ trên bảng vòng tròn mối quan hệ, bảo các em vừa nghe vừa lưu ý mối quan hệ giữa người đàn bà Sa-ma-ri và Chúa Giê-xu chuyển biến như thế nào).
Dẫn chuyện: Chúa Giê-xu rời khỏi Giu-đê đến Ga-li-lê (vừa nói vừa chỉ trên bản đồ vị trí Giu-đê, Sa-ma-ri và Ga-li-lê), vì Ngài không muốn người Pha-ri-si can dự vào công việc của Ngài. Con đường ngắn nhất để đi từ Giu-đê đến Ga-li-lê là ngang qua xứ Sa-ma-ri, nhưng dân Giu-đa thà đi vòng chứ không muốn đi ngang qua Sa-ma-ri, vì họ khinh ghét người Sa-ma-ri. Dầu vậy, Chúa Giê-xu không giống như những người Giu-đa khác. Ngài cố tình đi ngang qua Sa-ma-ri và ngồi nghỉ bên giếng nước. Theo thói quen sinh hoạt thời bấy giờ, những phụ nữ thường đi lấy nước vào buổi sáng hoặc chiều tối, ít ai lấy nước vào buổi trưa nắng nóng. Nhưng có một người phụ nữ Sa-ma-ri lấy nước vào giờ nầy. Có lẽ bà có một đời sống không tốt, nên không muốn nhìn thấy ánh mắt khinh thường của những người phụ nữ khác.
Chúa Giê-xu: Bà có thể cho Ta một ít nước uống không?
Người đàn bà (ngạc nhiên): Ông là người Giu-đa, sao lại xin nước uống từ một người đàn bà Sa-ma-ri?
Chúa Giê-xu: Nếu bà biết người xin nước là ai, thì chắc bà sẽ xin người cho uống, và người sẽ cho bà Nước sống.
Người đàn bà: Hỡi Chúa, Chúa không có bất cứ cái gì để múc nước, thì làm sao có thể cho tôi Nước sống. Chẳng lẽ Chúa còn lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cốp đã để giếng nầy lại cho chúng tôi sao?
Chúa Giê-xu: Bất cứ ai uống nước nầy sẽ còn khát mãi, nhưng uống Nước sống ta cho thì chẳng hề khát nữa.
Người đàn bà: Lạy Chúa, xin cho tôi Nước ấy, để tôi không phải hằng ngày đến đây lấy nữa!
Chúa Giê-xu: Bà trở về nhà gọi chồng đến đây!
Người đàn bà (vẻ mặt không vui): Xin lỗi, tôi không có chồng!
Chúa Giê-xu: Bà đã có năm đời chồng, và người hiện đang sống với bà cũng không phải là chồng bà.
Người đàn bà (cúi mặt xấu hổ): Tôi nhìn thấy Chúa là một Đấng tiên tri. Tổ phụ chúng tôi thờ lạy trên hòn núi nầy, còn dân Giu-đa thì nói rằng phải thờ phượng tại Giê-ru-sa-lem.
Chúa Giê-xu: Sự thờ phượng Đức Chúa Trời không phải tại hòn núi nầy, cũng không phải tại Giê-ru-sa-lem. Vì Đức Chúa Trời là Thần nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy.
Người đàn bà: Tôi biết rằng Đấng Christ sẽ đến.
Chúa Giê-xu: Người đang nói với bà chính là Đấng đó.
Dẫn chuyện: Lúc nầy, các môn đồ trở về thấy Chúa Giê-xu nói chuyện với người đàn bà Sa-ma-ri thì rất kinh ngạc. Còn người đàn bà thì vội vàng bỏ lại vò của mình bên giếng, chạy vào thành. Bà nói với những người trong thành rằng: “Hãy đến xem một người đã nói với tôi mọi việc tôi làm trong quá khứ. Người đó chẳng phải là Đấng Christ sao?” Mọi người nghe vậy liền chạy ra ngoài thành để gặp Chúa Giê-xu. Kết quả là có nhiều người đến cùng Chúa Giê-xu và tin Ngài là Cứu Chúa. Họ mời Chúa ở lại làng của họ hai ngày. Đây là cơ hội để Chúa Giê-xu giảng dạy về Nước Trời. Số người tin Chúa càng đông hơn.
Cho các em tìm ra diễn tiến mối quan hệ giữa Chúa Giê-xu và người đàn bà Sa-ma-ri qua bài tập phần 2, có thể đánh dấu vào vòng tròn mối quan hệ trên bảng. Trước khi thực hiện, giáo viên giải thích: “Đây không phải là vòng tròn mối quan hệ trong bài tập phần 1, mà là vòng tròn thể hiện người đàn bà Sa-ma-ri từ khu an toàn (không muốn gặp ai) đi đến những bước đột phá trong đời sống, sẵn sàng làm chứng về Chúa Giê-xu cho những người trong thành. (Đáp án phần nầy như sau: Ông, thù ghét lẫn nhau, Chúa, chồng, giếng Gia-cốp, giữa trưa, lạy Chúa, tiên tri, Đấng Christ, làm chứng, mọi điều tôi đã làm).
Khi các em làm xong, giáo viên ghi trên bảng: Ông Chúa Tiên tri Đấng Christ. Sau cùng tổng kết: “Chúa Giê-xu biết được mỗi việc làm của chúng ta, Ngài sẵn lòng giúp đỡ mọi người được trưởng thành trong sự nhận biết Chúa”.
3. Ứng dụng.
a. Thảo luận nan đề: Giáo viên nêu ra 1 hoặc 2 nan đề mà các em thường gặp phải, rồi cùng các em thảo luận nên cầu xin Chúa giúp đỡ như thế nào, để em có thể đối mặt với nan đề một cách đúng đắn, và có sự khôn ngoan để giải quyết nó.
b. Hướng dẫn các em làm bài tập phần 3: “Mở cửa sổ tâm hồn”. Bảo các em đánh dấu trước khó khăn mà em đang gặp phải. Kế tiếp là thưa với Chúa xin Ngài giúp đỡ. Giáo viên có thể dùng cách tính điểm sau đây để giúp các em đánh giá mức độ khó khăn của nan đề.
* Cách Tính Điểm (tối thiểu- tối đa).
Chỉ tính câu nào có dấu , câu nào không có dấu thì không tính điểm.
Câu 1: 1- 2 điểm.
Câu 2: 2-3 điểm.
Câu 3: 3-4 điểm.
Câu 4: 4-1 điểm.
Câu 5: 5-2 điểm.
Câu 6: 6-3 điểm.
Câu 7: 7-1 điểm.
Câu 8: 8-3 điểm.
Mức Độ Khó Khăn.
12-21 điểm: Sự khó khăn của em thuộc loại khá nghiêm trọng. Em cần phải giải quyết ngay (khích lệ em đó bằng cách gặp người lớn hay giáo viên).
8-12 điểm: Sự khó khăn của em thuộc loại trung bình, cần chú ý đến sự phát triển của các vấn đề, để tránh chuyển hướng xấu.
0-8 điểm: Sự khó khăn của em thuộc loại nhẹ, không đến nỗi cần người khác giúp đỡ. Tuy nhiên, em cần phải tự khắc phục khó khăn.
BÀI 7. GƯƠNG PHỤC VỤ
I. KINH THÁNH: Giăng 13:1-5, 12-17; 21:1-14.
II. CÂU GỐC: “Hễ ai muốn làm lớn trong các ngươi, thì sẽ làm đầy tớ. Còn ai trong các ngươi muốn làm đầu, thì sẽ làm tôi mọi mọi người” (Mác 10:43b,44).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em
– Biết: Chúa Giê-xu đã nêu gương về tinh thần phục vụ qua việc rửa chân, và phục vụ bữa ăn sáng cho các môn đồ.
– Cảm nhận: Chúa Giê-xu đã phục vụ người khác thì chúng ta cũng phải biết phục vụ lẫn nhau.
– Hành động: Thảo luận những cách có thể phục vụ người khác một cách hiệu quả nhất trong tuần này.
IV. PHẦN GIÁO VIÊN SUY GẪM.
Chúa Giê-xu là một đầy tớ gương mẫu, và Ngài đã nêu gương về tinh thần phục vụ cho các môn đồ. Theo phong tục của người Do thái, đầy tớ trong nhà có nhiệm vụ rửa chân cho những người khách đến thăm nhà, không chỉ để khách có đôi chân sạch sẽ khỏi bụi đường, mà còn cho họ cảm giác mát mẻ để nghỉ ngơi thoải mái. Muốn rửa chân thì phải qùy xuống, vì thế công việc nầy là công việc của người đầy tớ trong nhà. Nhưng Chúa Giê-xu đã vấn khăn ngang hông như một đầy tớ hèn mọn nhất, rồi rửa và lau chân cho các môn đồ. Đây là bài học đầy ý nghĩa và sâu sắc. Hành động khiêm nhường phục vụ của Chúa Giê-xu đã làm tan chảy lòng kiêu ngạo của họ. Rồi sau khi Chúa Giê-xu phục sinh, Ngài tiếp tục nêu gương phục vụ qua việc tự tay nướng bánh và cá phục vụ các môn đồ khi họ đang mệt mỏi.
Bạn thân mến, Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời trong thân xác con người, bằng lòng phục vụ như một đầy tớ, nên chúng ta- Những người theo Chúa, cũng phải là đầy tớ vui lòng phục vụ người khác để tôn vinh Đức Chúa Trời. Bạn có sẵn lòng noi gương phục vụ của Chúa Cứu Thế không? Ngày hôm nay, bạn có thể phục vụ ai? Thật là một phước hạnh đặc biệt dành cho những ai không chỉ tin rằng hạ mình phục vụ là cách sống của Chúa Cứu Thế, mà còn noi theo gương Chúa mà sống đời sống phục vụ như Ngài (GiăngGa 13:17).
V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
* Người phục vụ.
1. Chuẩn bị: Giấy vẽ, viết.
2. Thực hiện: Phát cho mỗi em một tờ giấy vẽ, viết. Trước khi thực hiện, giáo viên chia sẻ: “Mỗi khi chúng ta phục vụ một người nào đó, chúng ta rất nhớ việc mình đã làm cho họ, nhưng chúng ta lại rất dễ quên việc người khác đã làm cho mình”. Sau đó, bảo các em vẽ hai gương mặt của hai người đã giúp đỡ (phục vụ) em trong tuần rồi. Sau đó viết tư liệu về một trong hai người đó như sau:
– Họ và tên người đó:
– Quan hệ với em:
– Việc người đó giúp đỡ em:
– Cảm nhận của em:
– Sự đáp lại của em:
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào đề.
Tuần vừa rồi các em đã được ai phục vụ (giúp đỡ)? (Cho các em trao đổi hình vẽ trong phần sinh hoạt đầu giờ để xem).
Các em thân mến, khi một người giúp đỡ các em là người đó đã phục vụ các em. Các em thường cảm thấy như thế nào khi được người khác phục vụ? Nhưng nếu các em phục vụ người khác hoặc làm những công việc thấp nhất, thậm chí dơ bẩn thì các em cảm thấy như thế nào? (Cho các em tự do chia sẻ).
Các em biết không, khi Chúa Giê-xu còn ở thế gian, Ngài đã sẵn lòng làm công việc của một người đầy tớ, có nghĩa là làm công việc thấp hèn nhất mà không ai muốn làm. Chúng ta sẽ học biết Ngài muốn dạy chúng ta điều gì nhé!
2. Bài học.
Trước ngày lễ Vượt qua, Chúa Giê-xu biết đêm nay, môn đồ của Ngài là Giu-đa sẽ phản Ngài. Ngài sẽ bị bắt và chịu đóng đinh trên thập tự giá. Vì vậy, Chúa Giê-xu rất qúy trọng giây phút mà Ngài còn ở bên các môn đồ. Các em đọc Giăng 13:1 xem tình cảm của Chúa Giê-xu đối với các môn đồ như thế nào? (Ngài rất yêu thương họ).
Chúa Giê-xu yêu thương các môn đồ, nên trong bữa ăn tối của lễ Vượt qua, Ngài đã làm một việc khiến họ ngạc nhiên. Các em đọc Giăng 13:4-5 xem Chúa Giê-xu đã làm gì?
Theo các em, tại sao Chúa Giê-xu làm như vậy? Hành động của Ngài có ý nghĩa gì? Hãy tưởng tượng em cũng có mặt ở đó, và Chúa Giê-xu đến trước mặt em, cúi người xuống rửa chân cho em, thì em cảm thấy như thế nào? Tại sao?
Hành động của Chúa Giê-xu khiến các môn đồ ngạc nhiên, thậm chí Phi-e-rơ đã rụt chân lại không dám để Chúa Giê-xu rửa, vì thấy mình không xứng đáng. Để trả lời cho những thắc mắc của các môn đồ, sau khi rửa chân xong, Chúa Giê-xu dùng khăn lau khô chân họ, rồi Ngài trở về bàn ăn và hỏi: “Các ngươi có hiểu điều Ta đã làm cho các ngươi không?” Các môn đồ ngạc nhiên nhìn nhau. Các em đọc Giăng 13:14-15 xem Chúa Giê-xu đã dạy các môn đồ bài học gì qua việc làm của Ngài?
Các em thân mến, theo phong tục của người Do thái, mỗi khi có khách đến thăm nhà, thì chủ nhà sai đầy tớ rửa chân cho khách để tỏ lòng hiếu khách. Chúa Giê-xu đã làm công việc của người đầy tớ. Ngài bằng lòng hạ mình để phục vụ, bởi vì Ngài yêu thương họ và muốn họ cũng yêu thương nhau, phục vụ nhau. Hơn nữa, nhân cơ hội này, Ngài muốn bày tỏ tình yêu thương của Ngài, và dạy họ tinh thần phục vụ, tình nguyện phục vụ bởi tình yêu thương và sự khiêm nhường. Vì nếu không có sự khiêm nhường thì cũng không thể phục vụ được.
Một gương phục vụ khác của Chúa Giê-xu cũng được chép lại trong Giăng 21:1-14. Sau khi Chúa Giê-xu chết và sống lại, Phi-e-rơ và các môn đồ vẫn còn bối rối và chán nản, đến nỗi họ muốn trở lại công việc cũ của mình lúc trước. Thế là họ cùng rủ nhau đi đánh cá. Các em đọc Giăng 21:3b xem kết quả của việc đánh cá của họ như thế nào?
Suốt một đêm không bắt được một con cá nào! Nếu là em, em sẽ cảm thấy như thế nào?
Cuối cùng, trời đã sáng. Phi-e-rơ và các môn đồ chèo thuyền vào bờ. Bỗng họ nghe tiếng nói quen thuộc: “Các con không có gì ăn hết sao?” Các môn đồ ngẩng lên nhìn người ấy và trả lời: “Dạ không!”
Đọc Giăng 21:6 xem người ấy bảo các môn đồ làm gì? Và khi họ làm theo thì kết quả như thế nào? (Cho các em đọc câu Kinh Thánh và trả lời).
Các môn đồ bắt được một mẻ lưới đầy cá đến nỗi họ không thể kéo lên được. Lúc đó, họ bắt đầu chú ý đến người nói chuyện với họ. Giăng nói với Phi-e-rơ: “Đó là Chúa!”
Phi-e-rơ rất phấn khởi khi nghe nói đó là Chúa. Ông vội lấy áo dài quấn quanh mình, và nhảy xuống nước lội vào bờ. Các môn đồ khác đem thuyền đến, phụ kéo lưới cá lên.
Khi các môn đồ lên bờ, Chúa Giê-xu chờ đợi họ ở đó. Chúa Giê-xu nướng bánh và cá trên bếp lửa than để phục vụ các môn đồ bữa ăn sáng. Hành động của Chúa cho các em suy nghĩ gì? Tại sao Ngài làm như vậy?
Chúa Giê-xu nói với các môn đồ vừa mệt vừa đói rằng: “Hãy lại mà ăn!” Họ ngồi xuống quanh bếp than ấm áp và tận hưởng tình yêu mà Chúa Giê-xu dành cho họ qua bữa ăn sáng mà Ngài đã dọn sẵn.
3. Ứng dụng.
Các em thân mến, khi Chúa Giê-xu dạy dỗ các môn đồ điều gì đó, Ngài thường làm gương trước. Ngài làm gương cho các môn đồ về sự phục vụ lẫn nhau bằng tình yêu thương và sự khiêm nhường. Cho các em theo hướng dẫn để hoàn thành bài tập “Việc tìm người” để ôn lại bài học.
Tiếp đó cho các em đọc câu gốc, rồi hỏi: “Trọng tâm của câu gốc nầy là gì? (Khiêm nhường phục vụ lẫn nhau). Làm thế nào các em có thể giúp người khác học cách phục vụ? (Em phải phục vụ người khác trước).
Đôi khi chúng ta nhìn thấy nhu cầu của người khác, nhưng cũng có khi người khác trình bày nhu cầu đó chúng ta mới biết. Sau khi các em hoàn thành phần bài tập: “Đường dây phục vụ”, cho các em chia sẻ: “Em nhận biết gì về nhu cầu của người khác? Em đã làm gì trước nhu cầu đó? (Khích lệ các em thực hiện sự phục vụ trong tuần này).
BÀI 8. BÀI HỌC CẦU NGUYỆN TỪ CHÚA
I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 6:5-15.
II. CÂU GỐC: “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời” (Phi-líp 4:6).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em
– Biết: Chúa Giê-xu dạy chúng ta biết cách cầu nguyện với Đức Chúa Trời sao cho xứng hợp và đẹp lòng Ngài.
– Cảm nhận: Chúa Giê-xu là Đấng lắng nghe và nhậm lời cầu nguyện của em.
– Hành động: Sửa chữa những thái độ sai trái trong khi cầu nguyện, và trình dâng mọi điều cầu xin của em cho Chúa.
IV.PHẦN GIÁO VIÊN SUY GẪM.
Bố thí, cầu nguyện và kiêng ăn là những yếu tố trung tâm trong Do-Thái giáo, và tất cả đều cho là có giá trị đối với các môn đồ của Chúa (cả chúng ta ngày hôm nay nữa). Tuy nhiên, vấn đề quan trọng không phải là bạn có nên thực hành chúng không, mà là thực hành như thế nào cho đúng đắn và xứng hợp. Vì thế, Chúa Giê-xu đã dạy các môn đồ cầu nguyện, khi họ cầu xin Chúa dạy (Lu-ca 11:1). Trong Ma-thi-ơ 6:7-8, Chúa Giê-xu đưa ra phương pháp sai khi cầu nguyện, và tiếp đó Ngài đưa ra phương pháp đúng (câu 9-15). Thái độ cầu nguyện đẹp lòng Chúa được tìm thấy trong câu 6: “Song khi các ngươi cầu nguyện, hãy vào phòng riêng, đóng cửa lại, rồi cầu nguyện Cha ngươi, ở nơi kín nhiệm đó; và Cha ngươi, là Đấng thấy trong chỗ kín nhiệm, sẽ thưởng cho ngươi”. “Phòng” chỉ về một nơi kín đáo, có lẽ không có cửa sổ và là nơi duy nhất trong nhà có thể khóa được, là nơi ít có sự chung chạ nhất.
Câu 7: “… đừng dùng những lời lặp vô ích”, trọng tâm không phải ở chỗ “lặp lại”, nhưng là sự vô nghĩa và sự ồn ào trong lời nói, dường như ép buộc Đức Chúa Trời chú ý. Lời cầu nguyện thật không phải là một kỹ thuật hay sự trình diễn, mà là một mối liên hệ.
Câu 14-15: Chúa Giê-xu đưa ra một lời cảnh cáo gây kinh ngạc về sự tha thứ: Nếu chúng ta không chịu tha thứ cho người khác, Đức Chúa Trời cũng sẽ không tha thứ cho chúng ta. Vì sao? Vì khi chúng ta không tha thứ cho người khác là chúng ta phủ nhận việc chúng ta vốn là tội nhân cần được Đức Chúa Trời tha thứ. Đức Chúa Trời tha thứ không phải là kết quả trực tiếp của việc chúng ta tha thứ cho người khác, nhưng nó đựơc căn cứ trên việc chúng ta nhận thức được tha thứ có nghĩa gì (tham khảo Ê-phê-sô 4:32). Cầu xin Đức Chúa Trời tha tội cho mình thì dễ, nhưng tha thứ cho người khác rất khó. Hễ khi nào chúng ta cầu xin Đức Chúa Trời tha tội cho mình, chúng ta phải tự vấn: “Tôi có tha thứ cho những người đã làm điều sai trái với tôi không?”
V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
Giáo viên sưu tầm một số câu chuyện về Chúa đáp lời cầu nguyện của các em thiếu nhi, để khích lệ các em trong sự cầu nguyện, hoặc có thể cho các em chia sẻ kinh nghiệm về việc Chúa đáp lời cầu nguyện của các em hoặc gia đình.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào đề.
Nếu các em thấy một người vừa đi ngoài đường vừa cầu nguyện rất lớn tiếng, thì các em có suy nghĩ gì?
Trong thời đại Chúa Giê-xu, vừa đi trên đường vừa lớn tiếng cầu nguyện là việc bình thường, nhưng đó không phải là thái độ đẹp lòng Đức Chúa Trời. Bài học hôm nay, các em sẽ được Chúa Giê-xu dạy cách cầu nguyện sao cho đẹp lòng Chúa.
2. Bài học.
a. Cha trên trời dạy về thái độ khi cầu nguyện.
Trước hết, các em thảo luận xem cầu nguyện là gì? (Nói chuyện với Chúa). Tuy nhiên, trong Ma-thi-ơ 6:5, chúng ta thấy có một số người bị xem là giả hình vì có thái độ cầu nguyện không đúng (cho các em đọc câu 5 và đưa ra lý do vì sao họ bị Chúa Giê-xu quở trách).
Như vậy, các em suy nghĩ xem Chúa Giê-xu không muốn chúng ta lớn tiếng phải không? Khi chúng ta cầu nguyện chung với nhau, chúng ta cần phải cầu nguyện lớn tiếng để người khác có thể nghe, và hiệp lòng dâng lên Chúa lời cầu nguyện đó. Nhưng ở đây, Chúa Giê-xu quở trách những người nầy, bởi họ cố ý cầu nguyện lớn tiếng để người khác nghe và khen mình. Chúa Giê-xu nói họ làm như vậy là đã nhận được phần thưởng của mình rồi (được người khác khen). Vì thế, Đức Chúa Trời không ban cho họ thêm gì nữa.
Vì vậy, khi cầu nguyện, điều đầu tiên các em cần phải ghi nhớ là các em nói chuyện với Đức Chúa Trời, dâng sự vinh hiển cho Ngài, chứ không phải để người khác nghe và khen mình.
Vậy, chúng ta phải cầu nguyện với thái độ như thế nào cho đẹp lòng Chúa? (Cho các em đọc Ma-thi-ơ 6:6-8 và nêu ra điều nên làm và không nên làm khi cầu nguyện).
Chúng ta cùng tìm hiểu một vài điều mà Chúa Giê-xu nói ở đây. “Hãy vào phòng riêng” có nghĩa là gì? (Một mình cầu nguyện với Đức Chúa Trời). Dĩ nhiên, các em cầu nguyện cùng với ba mẹ, bạn bè… là cần thiết, nhưng các em cũng cần có thời gian riêng biệt mỗi ngày để cầu nguyện với Chúa. Trong nhà các em có chỗ nào thích hợp để cầu nguyện không? (Các em có thể kể vài nơi như phòng ngủ, trên gác, vườn hoa…) Nếu các em không có phòng riêng, mấy anh chị em ở chung một phòng, thì nên sắp xếp thời gian với anh chị để mỗi người đều có thời gian cầu nguyện một mình trong phòng. Ngày xưa, Chúa Giê-xu cũng không có nhà cửa, phòng riêng. Ngài thường lên núi hay ra vườn cầu nguyện).
Trong khi cầu nguyện, “đừng dùng những lời lặp vô ích” là như thế nào? (Tức là lặp đi lặp lại một lời nói vô nghĩa, không nhớ đang nói với ai, nói cái gì…)Tại sao họ phải lặp đi lặp lại lời cầu nguyện? (Vì họ nghĩ rằng cầu nguyện dài dòng thì Đức Chúa Trời sẽ nhậm lời). Các em đọc Ma-thi-ơ 6:8 xem vì sao Chúa Giê-xu dạy chúng ta đừng cầu nguyện như vậy? (Vì Cha trên trời biết chúng ta cần gì trước khi cầu xin Ngài).
Vì vậy, khi các em cầu nguyện, điều thứ hai các em cần phải ghi nhớ là: Đức Chúa Trời luôn chăm lo và nghe lời cầu nguyện của các em.
Sau khi đưa ra những thái độ sai trái khi cầu nguyện và sửa chữa lại cho đúng, Chúa Giê-xu đã đưa ra một bài cầu nguyện, mà chúng ta gọi là “Bài cầu nguyện chung”. “Bài cầu nguyện chung” được chia ra làm ba phần.
– Phần I: Thái độ tôn kính Đức Chúa Trời khi cầu nguyện. Các em đọc Ma-thi-ơ 6:9-10 tìm ra những từ bày tỏ lòng tôn kính Đức Chúa Trời (Cha trên trời, danh Cha được thánh, nước Cha được đến, ý Cha được nên). Những từ này có ý nghĩa gì?
“Lạy Cha chúng con ở trên trời” nhắc các em nhớ rằng Đức Chúa Trời giống như một người cha hết lòng yêu thương và chăm lo cho con cái mình.
“Danh Cha được tôn thánh”. Các em đang cầu nguyện với một Đức Chúa Trời thánh khiết, và các em phải sống thế nào để Danh Ngài được tôn thánh.
“Nước Cha được đến, ý Cha được nên…”, nghĩa là các em xin ý của Chúa được thực hiện trong đời sống của mình.
– Phần II: Chúa Giê-xu dạy các em phải cầu xin như thế nào? Đọc Ma-thi-ơ 6:11-13 và tìm ra 3 điều Chúa Giê-xu dạy các em cầu xin. (Chúa ban cho đồ ăn đủ ngày, Chúa tha thứ mọi tội lỗi, Chúa gìn giữ khi bị cám dỗ). Ba điều này có ý nghĩa gì?
Khi cầu nguyện “xin cho chúng con hôm nay đồ ăn đủ ngày”, các em không chỉ cầu xin Chúa ban cho đồ ăn thức uống, mà còn bao gồm quần áo, nhà cửa, và các nhu cầu khác nữa. Chúa là Đấng giàu có, mọi sự thuộc về Ngài, Ngài sẽ chu cấp đầy đủ mọi sự cần dùng cho các em và gia đình.
“Xin tha tội lỗi cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ phạm tội nghịch cùng chúng con”. Mỗi ngày, các em có thể làm nhiều việc sai trái như không vâng lời Chúa, cãi lời ba mẹ, nói dối, chưởi thề, giận hờn… Nếu các em ăn năn, xưng tội với Chúa, Chúa sẽ tha tội cho các em, nhưng các em cũng phải tha thứ cho người phạm lỗi với các em.
“Xin chớ để chúng con bị cám dỗ, mà cứu chúng con khỏi điều ác”. Các em cầu xin Chúa giúp các em vượt qua mọi sự cám dỗ. Chắc chắn Ngài sẽ giúp các em không làm những điều sai trái và đắc thắng sự cám dỗ.
– Phần III: Ca ngợi, tôn vinh quyền năng vinh hiển của Đức Chúa Trời.
Ngoài việc cầu xin, sự ca ngợi Đức Chúa Trời cũng rất quan trọng. Đó là điều đẹp lòng Chúa.
3. Ứng dụng.
(Cho các em đọc lại bài nguyện chung một cách rập rành, để tâm trí và lòng vào trong lời cầu nguyện).
Sau đó, hướng dẫn các em mở sách học viên và hoàn thành phần bài tập “Ai làm đúng?!” Hỏi các em: Thái độ và hành vi đúng đắn khi cầu nguyện là gì? (Cho các em trả lời).
Giáo viên chia sẻ: “Cầu nguyện là một phần không thể thiếu trong đời sống tâm linh của chúng ta, không thể xem đó là việc có hay không cũng được. Vì vậy, cầu nguyện cũng là một việc mà các em phải thực hiện mỗi ngày. Cho các em hoàn thành phần bài tập “Thời gian cầu nguyện” và chuẩn bị chia sẻ trong tuần sau.
BÀI 9. BỐN LOẠI ĐẤT
I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 13:1-9; 18-23; Lu-ca 8:4-15.
II. CÂU GỐC: “Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình” (Gia-cơ 1:22).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em
– Biết: Hạt giống được gieo vào bốn loại đất khác nhau, chỉ có đất tốt mới làm cho hạt giống lớn lên và kết quả. Cũng vậy, một người nghe lời Chúa, làm theo thì đời sống mới kết quả.
– Cảm nhận: Nghe và làm theo Lời Chúa rất quan trọng.
– Hành động: Kể ra những phương pháp giúp em được tăng trưởng trong Chúa.
IV.PHẦN GIÁO VIÊN SUY GẪM.
Khi giảng cho một đám đông thính giả, Chúa Giê-xu dùng nhiều thí dụ minh hoạ hay ẩn dụ. Nó giúp thính giả hiểu được chân lý thuộc linh bằng cách sử dụng những đồ vật và các mối liên hệ thường gặp hằng ngày. Các ẩn dụ thôi thúc người nghe khám phá ra chân lý, nhưng đồng thời cũng che giấu chân lý đối với người quá lười biếng hoặc quá ngoan cố.
Ví dụ mà Chúa Giê-xu kể được chép lại trong Ma-thi-ơ 8:4-15 (cũng được chép trong các sách Tin Lành khác) là sự mô tả đơn giản về những “số phận” khác nhau của các hạt giống rơi vãi trên một cánh đồng có các loại đất khác nhau: Trên bờ, bụi gai, đất đá sỏi, và đất tơi xốp. Tuy nhiên, câu chuyện không nêu lên ý nghĩa của nó, người nghe phải tự hỏi chính mình: “Tất cả những điều này có ý nghĩa gì?”
Sau này khi các môn đồ hỏi Chúa Giê-xu câu chuyện ngụ ngôn này có nghĩa gì, Ngài đã giải thích cho họ. Lời lẽ dùng để giải thích ngụ ngôn này hơi khác với trong Mác vì Lu-a đã nhấn mạnh các yếu tố mà ông xem là quan trọng đối với độc giả của mình. Qua ngụ ngôn nầy, chúng ta thấy Lời Đức Chúa Trời phải được đáp ứng bởi đức tin và sự kiên nhẫn nếu người nghe giống như loại đất tốt sinh kết quả. Trong lòng một số người, hạt giống có thể chẳng bao giờ có cơ hội để nảy mầm, trong một số người khác, sự phát triển của nó bị kìm hãm vì họ không thể chịu đựng nổi. Hạt giống rơi trên đường đi giống như nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo Giu-đa, đã từ chối không chịu tin sứ điệp của Chúa Giê-xu. Những người thuộc vùng đất “đá sỏi,” giống như nhiều người trong đám đông theo Chúa Giê-xu, tin sứ điệp của Ngài nhưng chẳng bao giờ tìm cách làm bất cứ điều gì cho sứ điệp ấy cả. Những người thuộc hạng “bụi gai,” bị sự lo lắng về đời này và sự cám dỗ của vật chất áp đảo, đã chẳng dành một chỗ nào trong đời sống họ cho Đức Chúa Trời. Những người thuộc “đất tốt”, trái với các nhóm người kia, đã theo Chúa Giê-xu bất chấp phải trả giá nào. Bạn thuộc loại đất nào?
V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
1. Chuẩn bị: Một số tranh ảnh liên quan đến nông thôn như: Cánh đồng, trâu bò, lúa, người nông dân…
2. Thực hiện: Cho các em xem tranh và sau đó thảo luận những câu hỏi sau:
a. Nông thôn có những nét đặc biệt nào mà thành phố không thể có?
b. Công việc thường ngày của người nông dân là gì?
c. Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng như thế nào cho đất nước?
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào đề.
Khi Chúa Giê-xu ở thế gian, rất nhiều người nhóm lại bên Ngài để nghe giảng dạy và làm phép lạ. Trong vòng họ, có những người làm nghề nông, nghề đánh cá và cũng có những người học thức nữa. Chúa Giê-xu đã dùng những ví dụ rất cụ thể, rõ ràng, gần gũi với cuộc sống để tất cả mọi người đều có thể hiểu về Nước Đức Chúa Trời. Hôm nay, các em sẽ học về một ví dụ của Chúa. Trước tiên, chúng ta phải tìm ra ý nghĩa mà Chúa Giê-xu muốn nói qua ví dụ đó, rồi xem ví dụ đó dạy dỗ chúng ta điều gì nhé!
(Giáo viên ghi bốn cột nầy lên bảng và bắt đầu dẫn vào bài theo thứ tự từ 1 đến 4. Vừa dạy vừa ghi những ý chính ra).
Thời gian, địa điểm (Chúa Giê-xu nói ví dụ đó khi nào, ở đâu?) Ví dụ
(Chúng ta phải chú ý lắng nghe). Ý nghĩa
của ví dụ
(Giải thích ví dụ). Ứng dụng
(Rút ra bài học qua ví dụ đó).
2. Bài học.
a. Thời gian và địa điểm.
Khi Chúa Giê-xu giảng đạo bên bờ biển Ga-li-lê, dân chúng nhóm lại quanh Ngài. Chúa Giê-xu bận rộn trong suốt ngày đó. Đoàn dân đông đến nỗi Chúa Giê-xu phải xuống thuyền để giảng dạy, còn dân chúng đứng trên bờ lắng nghe.
Có lẽ Chúa Giê-xu nhìn thấy xa xa bóng dáng các nông dân đang gieo giống trên ruộng, nên Ngài dùng ngay hình ảnh nầy dạy dỗ dân chúng.
b. Bốn loại đất trong ví dụ (nếu được thì vừa nói vừa vẽ đơn giản bốn loại đất trên bảng để minh họa).
Chúa Giê-xu phán, có một người nông dân đang gieo giống trên ruộng. (Cho các em mô tả hình ảnh người nông dân đang gieo lúa). Theo thói quen, ông vung mạnh tay để hạt giống được rải đều xuống ruộng, nhưng có một số hạt giống rơi trên bờ ruộng, lập tức chim chóc bay ngay xuống và ăn hết. Một số hạt giống khác rơi xuống chỗ đất xấu, chỉ có một lớp đất thịt mỏng ở phía trên, còn phía dưới toàn là đá sỏi. Các em đoán xem hạt giống nầy có nảy mầm được không? (Cho các em trả lời). Hạt giống bám trên lớp đất thịt mỏng nên nảy mầm nhanh chóng, nhưng khi mặt trời lên cao, ánh nắng chói chang khiến nó bị héo chết. Các em có biết vì sao không? (Vì lớp đất quá mỏng, cây không đâm rễ sâu nên không đủ sức sống). Có một số hạt giống rơi nhằm bụi gai, cây con yếu ớt vừa mọc lên liền bị bụi gai bao phủ, lấn ép nên không thể lớn lên được nên còi cọt dần rồi chết. Phần hạt giống còn lại rơi vào chỗ đất tơi xốp, màu mỡ. Ánh nắng mặt trời, cỏ dại cũng không ngăn được cây non phát triển. Đến mùa thu hoạch, người nông dân thu được gấp 30 lần, 60 lần, thậm chí gấp 100 lần.
c. Ý nghĩa của ví dụ.
(Cho các em đọc Lu-ca 8:11-15 và tìm ra lời giải đáp của Chúa Giê-xu)
Hạt giống tượng trưng cho Lời của Đức Chúa Trời). Người nông dân chỉ về Chúa Giê-xu. Bốn loại đất tượng trưng cho bốn thái độ khác nhau của con người khi nghe Lời Chúa.
* Phần đất cứng.
Phần đất cứng giống như những người nghe đạo Đức Chúa Trời nhưng lơ là trong việc suy gẫm. Họ nói: “Tôi không hiểu Kinh Thánh”, nhưng thật ra họ không chịu suy nghĩ. Khi các em không hiểu Kinh Thánh, các em càng phải chăm chỉ học tập và lắng nghe lời Đức Chúa Trời. Ma quỉ thường rình rập, dụ dỗ các em mau quên những gì nghe được về Lời Đức Chúa Trời, nhưng nếu có Chúa giúp đỡ, các em vẫn có thể làm theo lời Chúa. Những người ở “phần đất cứng” nầy thường hứa với Đức Chúa Trời là “sẽ có một ngày” mình vâng lời Chúa, nhưng rốt cuộc họ không bao giờ làm.
* Phần đất đá sỏi.
Phần đất đá sỏi giống như những người tạm thời vâng lời Chúa. Kinh Thánh nói họ “nghe đạo, liền vui mừng chịu lấy; nhưng họ không có rễ, chỉ tin tạm mà thôi” (Lu-ca 8:13).
Những người nầy thường nói rằng: “Dĩ nhiên tôi tin đạo Đức Chúa Trời, ai cũng phải đọc Kinh Thánh!” Nhưng thực sự, lời của Đức Chúa Trời không bén rễ trong lòng họ. Vì vậy, khi gặp khó khăn, họ quên hết lời hứa và lời dạy của Chúa, nên ngã lòng và cuối cùng là bỏ đạo.
Chúa Giê-xu nói loại người nầy giống như cây mọc rễ không sâu, không chắc nên không lấy được đầy đủ chất dinh dưỡng. Đó là lý do tại sao nhiều người bỏ Chúa, vì họ thấy theo Chúa Giê-xu là một việc quá khó khăn, mặc dù Đức Chúa Trời luôn hứa ban cho họ sự giúp đỡ khi cần thiết.
* Bụi gai.
Bụi gai giống như những người đã nghe và tin đạo, nhưng họ lại quá bận bịu với cuộc sống đời nầy, đến nỗi không bao giờ có thời gian đọc Kinh Thánh, đi nhà thờ. Có những lúc các em cũng bận rộn xem ti vi, mải chơi hoặc quá lo lắng bài học ở trường, nếu kéo dài như vậy mãi thì các em cũng sẽ giống như tình trạng của loại đất nầy.
* Phần đất tốt.
Phần đất nầy giống như những người thật lòng tin và muốn hầu việc Chúa Giê-xu. Khi họ nghe Lời Đức Chúa Trời, họ không chỉ nghe mà còn làm theo, thậm chí vâng lời Chúa trong lúc khó khăn.
3. Ứng dụng (rút ra bài học qua ví dụ đó).
Các em thân mến! Ví dụ về người gieo giống mà Chúa Giê-xu đã kể, cho chúng ta biết Ngài mong muốn chúng ta hiểu tầm quan trọng của việc nghe và giữ đạo Chúa. Đây là thì giờ cho mỗi em suy nghĩ về chính đời sống của mình đang ở trong phần đất nào? “Đất cứng”, “Đất đá sỏi”, “Bụi gai” hay “Đất tốt”. (Giáo viên phát cho mỗi em một tờ giấy nhỏ để các em tự đánh giá mình thuộc phần đất nào. Các em không cần ghi tên và nộp cho giáo viên. Đến cuối khóa học, các em lại tự đánh giá một lần nữa xem phần đất của mình có thay đổi không).
Nếu các em thấy mình không thuộc phần “đất tốt”, hãy thật lòng cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ các em nghe, hiểu và làm theo lời Ngài. Chúa Giê-xu mong muốn tấm lòng các em giống như phần “đất tốt” để lời Ngài gieo vào được kết quả.
(Cho các em đọc câu gốc một cách rập ràng hai lần). Các em thấy câu gốc nầy nhắc chúng ta đề phòng hai loại đất nào? (Đất cứng và đất đá sỏi vì nó lừa dối chúng ta rằng nghe thôi đã đủ, thật ra, giữ lời Chúa và làm theo còn quan trọng hơn việc nghe lời Chúa nhiều).
(Cho các em thảo luận lúc nào là lúc tốt nhất để đọc Kinh Thánh. Mới thức dậy? Hay trước khi đi ngủ? Giáo viên giúp các em tìm thời gian thích hợp nhất trong ngày để đọc Kinh Thánh và tạo thành thói quen tốt. Có thể thực hiện thời khoá biểu đọc Kinh Thánh trong tuần như sau.
Ngày Đọc Kinh Thánh Việc cần làm
Chúa Nhật 1Giăng 4:7-12
Thứ Hai Cô-lô-se 3:12-15
Thứ Ba Ga-la-ti 6:1-10
Thứ Tư Ê-phê-sô 4:1-13
Thứ Năm Ê-phê-sô 4:30-31
Thứ Sáu Ê-phê-sô 6:1-4
Thứ Bảy Phi-líp 4:4-9
BÀI 10. GIA ĐÌNH YÊU CHÚA
I. KINH THÁNH: Lu-ca 10:38-42.
II. CÂU GỐC: “Nếu các ngươi yêu mến ta, thì giữ gìn các điều răn ta” (Giăng 14:15).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em
– Biết: Ma-thê và Ma-ri đã bày tỏ lòng yêu kính của mình đối với Chúa Giê-xu
– Cảm nhận: Yêu mến Chúa Giê-xu thì phải làm theo lời Ngài.
– Hành động: Đưa ra một hành động cụ thể để bày tỏ lòng yêu kính của em đối với Chúa Giê-xu, và thực hiện nó.
IV.PHẦN GIÁO VIÊN SUY GẪM.
Kinh Thánh cho chúng ta biết gia đình của La-xa-rơ có ba người: La-xa-rơ, Ma-thê và Ma-ri. Họ sống tại làng Bê-tha-ni (Giăng 11:1).
Ngoài phân đoạn Kinh Thánh của bài nầy, còn có một vài phân đoạn khác liên quan đến gia đình nầy với Chúa Giê-xu. Thứ nhất là sự sống lại của La-xa-rơ. Khi La-xa-rơ bệnh, Ma-thê và Ma-ri lập tức sai người đi báo cho Chúa Giê-xu biết. Giăng 11:3 chép câu nói của Ma-thê và Ma-ri khi dặn người đi thông báo cho Chúa Giê-xu là: “Lạy Chúa, nầy, kẻ Chúa yêu mắc bệnh”. Chỗ khác thì chép: “Đức Chúa Giê-xu yêu Ma-thê, em người và La-xa-rơ” (Giăng 11:5). Điều đó cho thấy mối quan hệ giữa Chúa Giê-xu và gia đình rất thân thiết, và mọi người đều biết mối quan hệ nầy.
Một sự kiện khác là Ma-ri lấy dầu thơm quý giá xức đầu và chân Chúa, được Chúa Giê-xu khen ngợi. Việc nầy có ghi lại trong ba sách Phúc âm Ma-thi-ơ, Mác và Giăng. Ma-thi-ơ và Mác không nói rõ người xức dầu cho Chúa Giê-xu là ai, nhưng Giăng thì nói rõ là Ma-ri (Giăng 12:1-8). Hành động của Ma-ri bày tỏ lòng yêu kính Chúa của cô và được Ngài khen ngợi.
Chúa Giê-xu cảm thấy thoải mái và ấm áp khi đến gia đình nầy. Lu-ca 10:38 chép Ma-thê chủ động đón Chúa Giê-xu vào nhà mình. Mục đích của Ma-thê là muốn Chúa Giê-xu được nghỉ ngơi và được tiếp đãi cách tốt nhất. Vì thế, Ma-thê cố gắng nấu một bữa ăn thật ngon để đãi Chúa, còn Ma-ri thì muốn ngồi dưới chân Chúa để nghe Ngài giảng dạy. Rõ ràng hai người có hai cách phục vụ khác nhau, và cả hai đều xuất phát từ lòng yêu Chúa. Có thể có người chê trách hành động của Ma-ri, cho rằng cô không để cho Chúa nghỉ ngơi. Đáng lẽ cô phải phụ giúp Ma-thê nấu ăn để tiếp đãi Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giê-xu đánh giá cao hành động của Ma-ri. Còn Ma-thê vì không làm chủ được công việc của mình bối rối và sinh ra tâm trạng bực dọc.
Ngày hôm nay, cũng có người dành nhiều thời gian để tương giao với Chúa, nhưng cũng có một số người dành hầu hết thời gian để làm công tác phục vụ. Chúng ta không nên phê bình hoặc chỉ trích lẫn nhau. Điều quan trọng là mỗi người phải làm với động cơ yêu Chúa, và muốn làm đẹp lòng Ngài. Tuy nhiên, chúng ta nên có một đời sống quân bình, giữ mối tương giao với Chúa mỗi ngày và phục vụ Ngài. Ma-thê được Chúa dạy dỗ không phải sự phục vụ của bà là sai, mà là tâm trạng sai lệnh của bà khi phục vụ. Còn Ma-ri được Chúa khen không phải cô ngồi đó nghe lời Ngài, mà là tấm lòng của cô thật sự yêu mến và khao khát lời Ngài. Nếu Ma-thê vừa phục vụ Chúa vừa lặng lẽ tương giao với Chúa trong lòng, thì có lẽ bà sẽ không có sự lằm bằm oán trách. Bạn phải nhớ một điều, dù bạn có bận rộn nhiều việc (công việc Chúa), thì điều không thể bỏ qua đó là tương giao với Chúa. Đây là việc ưu tiên và quan trọng nhất trong mọi công việc của chúng ta. Nó cũng là kinh nghiệm của Martin Luther khi ông nói: “Vì tôi quá bận nên nên tôi phải đi ở riêng với Chúa”.
V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
Cho các em mở sách học viên và thảo luận phần “Giả sử có một ngày…” Có thể chia nhóm để suy nghĩ về nhiều đề tài khác nhau như: Ăn gì? Mặc gì? Ngủ ở đâu? Phải chuẩn bị những gì? Sẽ mua những thứ gì? Các em có thể viết ra trước, sau đó chia sẻ và giải thích một chút. Sau đó, giáo viên đưa vào bài học Kinh Thánh.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào đề.
Các em thân mến, nếu được báo trước có một người khách đặc biệt đến thăm nhà, chắc hẳn các em cần phải giúp đỡ ba mẹ chuẩn bị nhiều thứ. Tại ngôi làng nhỏ Bê-tha-ni, có một gia đình kia cũng chuẩn bị chu đáo để đón Chúa Giê-xu đến nhà họ.
2. Bài học.
(Giáo viên chọn hai em nữ đóng vai Ma-thê và Ma-ri để thực hiện phần kịch dưới đây).
– Giáo viên: Một ngày nọ, Ma-thê và Ma-ri biết tin Chúa Giê-xu sẽ đến làng của mình, nên mừng lắm và muốn mời Ngài vào nhà mình để nghỉ ngơi.
– Ma-thê (cầm viết và giấy): Có lẽ Ngài sẽ đến vào lúc chiều tối. Bây giờ, mình phải đi mua vài thức ăn tươi, về nấu một bữa thật ngon để đãi Chúa. Có thể mua cá nấu canh chua. À, không thể thiếu món thịt nướng… (ghi vào giấy). Cũng cần một ít rau trộn nữa… Suýt quên món tráng miệng. Mình sẽ mua chuối, nho, dưa lê… (đọc lại những thứ đã ghi).
– Ma-ri (đi ra): Chị ơi, chị chuẩn bị mọi thứ chưa?
– Ma-thê: Chị ghi ra xong hết rồi nè! Em ở nhà dọn dẹp nhà cửa, chị sẽ đi chợ. Sau đó, chúng ta sẽ đi đón Chúa ngoài đầu làng và mời Chúa về nhà. Ngài thật vất vả, phải đi giảng dạy khắp nơi suốt từ sáng đến tối. Em nhớ giúp chị làm một bữa ăn thật ngon để tiếp đãi Chúa nhé (Xách giỏ đi chợ).
– Ma-ri (nói một mình): Đã lâu rồi Chúa Giê-xu không đến đây. Mình mong nhanh chóng được gặp Ngài để nghe giảng dạy. Các môn đồ của Ngài thật hạnh phúc. Họ có thể theo Ngài và nghe Ngài giảng dạy thường xuyên.
– Giáo viên: Cả Ma-thê và Ma-ri đều yêu mến Chúa và đều muốn phục vụ Ngài. Nhưng trong quá trình phục vụ đã xảy ra xích mích. Bây giờ, các em cùng tìm hiểu nguyên nhân và xem ai đúng, ai sai nhé!
Sau khi hai chị em đón Chúa Giê-xu vào nhà và mời Ngài ngồi nghỉ ngơi, thì Ma-thê vội vàng vào bếp để nấu ăn, còn Ma-ri ngồi dưới chân Chúa nghe Ngài giảng dạy. Ma-thê càng lúc càng bận rộn, giờ ăn sắp đến rồi mà thức ăn thì chưa nấu xong. Cô bắt đầu bối rối và cảm thấy bực mình vì Ma-ri không giúp một tay. Cuối cùng, Ma-thê đến nói với Chúa: “Thưa Chúa! Ma-ri để một mình con làm việc. Xin Ngài bảo cô ấy giúp con một tay!”
Các em nghĩ Ma-thê và Ma-ri, ai đúng ai sai? Tại sao? Em đoán xem Chúa Giê-xu giải quyết như thế nào? (Cho các em nói ra suy nghĩ của mình).
Chúa Giê-xu đáp rằng: “Ma-thê ơi! Cô chịu khó và bối rối về nhiều việc, nhưng có một việc cần mà thôi. Ma-ri đã lựa phần tốt, là phần không có ai cất lấy được”. Các em hiểu câu nói của Chúa Giê-xu có ý nghĩa gì không? (Cho các em suy nghĩ và trả lời).
Chúa Giê-xu trả lời Ma-thê cách mềm mại. Ngài không trách Ma-thê mà là nhắc nhở cô, đôi khi vì bận rộn quá nhiều việc đã bỏ qua việc quan trọng nhất, đó là thì giờ tương giao với Chúa, học lời Ngài. Chúa Giê-xu không bảo Ma-thê ngừng công việc lại để nghe Ngài giảng dạy, cũng không bảo Ma-ri đứng lên để giúp việc bếp núc. Cả hai chị em đều yêu mến Chúa và hầu việc Ngài, nhưng với hai cách khác nhau. Sự hầu việc của Ma-thê không sai, nhưng cô đã để cho quá nhiều việc chi phối đến nỗi bối rối và trách móc Ma-ri. Chúa Giê-xu khen Ma-ri bởi Ma-ri chọn việc tương giao với Chúa, và đó là điều quan trọng nhất. Nếu Ma-thê vừa làm vừa lặng lẽ tương giao với Chúa, thì chắc sẽ không sanh sự bực mình, oán trách, mà được phước càng hơn.
Các em thân mến, qua việc Chúa Giê-xu nhắc nhở Ma-thê, chúng ta rút ra bài học cho bản thân. Đó là đặt việc tương giao với Chúa ở thứ tự ưu tiên, không thể bỏ qua việc quan trọng nầy trước khi làm những việc khác. Mỗi con cái của Chúa đều phải cầu nguyện, học lời Chúa mỗi ngày. Tuy nhiên, cũng không lợi dụng việc cầu nguyện và học Kinh Thánh để trốn tránh công việc. Nếu gia đình em là một gia đình Cơ Đốc, thì em nên cùng với những thành viên trong gia đình cầu nguyện, học Kinh Thánh, hát Thánh ca trong giờ lễ bái buổi sáng hoặc tối, đồng thời yêu thương và giúp đỡ nhau để gia đình em là một gia đình yêu mến Chúa như gia đình của Ma-thê. Nếu gia đình em có người chưa tin Chúa, thì em phải thể hiện tình yêu của Chúa cho họ thấy.
3. Ứng dụng.
Cho các em làm bài tập phần 3 “Phương thức của em”. Có thể cho các em giơ tay để biết kết quả chọn lựa của các em. Sau đó giáo viên kết luận: “Rất nhiều người khi tặng quà cho bạn bè sẽ tặng thứ mình thích, hoặc đoán ý của họ, hoặc hỏi chính người được tặng thích gì. Đương nhiên, người được nhận món quà hợp ý mình thì sẽ rất vui. Ma-thê và Ma-ri đều bày tỏ lòng yêu Chúa, nhưng Chúa Giê-xu đã nói điều gì là quan trọng hơn hết? Vậy, em sẽ bày tỏ lòng yêu Chúa của mình như thế nào?
Sau đó cho các em đọc câu gốc và cầu nguyện. Nhắc nhở các em cách bày tỏ lòng yêu Chúa đẹp lòng Ngài nhất, chính là vâng theo lời Ngài.
BÀI 11. SỰ DÂNG HIẾN ĐẸP LÒNG CHÚA
I. KINH THÁNH: Lu-ca 21:1-4; Mác 14:3-9.
II. CÂU GỐC: “Mỗi người nên tùy theo lòng mình đã định mà quyên ra, không phải phàn nàn hay là vì ép uổng, vì Đức Chúa Trời yêu kẻ dâng của cách vui lòng” (2Cô-rinh-tô 9:7).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em
– Biết: Ma-ri và bà goá đã dâng điều tốt nhất cho Chúa.
– Cảm nhận: Đức Chúa Trời đẹp lòng thái độ dâng hiến xuất phát từ lòng kính yêu Chúa.
– Hành động: Dâng hiến tiền bạc, tài năng, thời gian và bản thân cho Chúa.
IV. PHẦN GIÁO VIÊN SUY GẪM.
Bài học hôm nay đề cập đến hành động của hai người phụ nữ nghèo nàn và nhỏ bé, nhưng khiến người ta phải ngưỡng mộ. Chúa Giê-xu cũng rất đẹp lòng về hành động của họ. Lu-ca 21:1-4 chép lại hành động dâng hiến của một quả phụ nghèo. Số tiền mà quả phụ nầy dâng so với số tiền mà những người khác dâng thì quả là ít ỏi. Nhưng trong cái nhìn của Chúa Giê-xu, số tiền mà bà dâng là lớn hơn hết, vì Chúa không chú trọng số tiền nhiều hay ít nhưng là phần người dâng còn lại sau khi dâng mới là đáng trân trọng. Bà quả phụ nghèo nàn nầy sau khi dâng đã không còn một đồng nào trong túi. Bà đã dâng hết số tiền mà bà có để nuôi sống mình, khác với cách mà phần đông chúng ta vẫn sử dụng tiền bạc của mình. Theo bạn, động cơ nào khiến bà góa nầy dâng hết cho Chúa? Chắc không có động cơ nào khác ngoài việc kính yêu Chúa và tin cậy vào tình yêu và sự chăm sóc của Ngài.
Khi chúng ta xem việc dâng một số phần trăm nào đó lợi tức của mình như một thành quả vĩ đai, thì chúng ta cũng giống như những kẻ “lấy của dư mình mà làm của dâng.” Tại đây, Chúa Giê-xu đánh giá cao việc dâng hiến rời rộng và đầy hy sinh. Là con cái của Chúa, chúng ta cần phải quan tâm đến việc gia tăng thêm sự dâng hiến của mình, hoặc về tiền bạc, thì giờ, hoặc các tài năng… đến một mức độ vượt xa hơn mức thích hợp hay an toàn cho bản thân.
Mác 14:3-9 chép lại hành động đẹp đẽ của Ma-ri, mà khi nhắc đến cô, ai cũng phải nhớ. Trong sách Phúc Âm Giăng, biến cố này xảy ra trước khi tuần lễ thương khó bắt đầu (xem GiăngGa 12:1), nhưng Ma-thi-ơ và Mác thì xếp biến cố này ngay trước bữa tiệc cuối cùng. Chúng ta phải nhớ rằng chủ đích của các trước giả Phúc âm không phải trình bày một phần ký thuật cuộc đời Chúa Cứu Thế theo thứ tự thời gian chính xác, nhưng là nhằm đưa ra một phần ký thuật chính xác sứ điệp của Ngài. Có lẽ Ma-thi-ơ và Mác đã chọn xếp biến cố này vào đây, để làm tương phản sự tận hiến hoàn toàn của Ma-ri với sự phản bội của Giu-đa, và sự ghen ghét của các cấp lãnh đạo tôn giáo.
Tất cả những gì chúng ta biết về người phụ nữ này chính là giá trị lớn lao của món quà và những phản ứng rất khác nhau của mười một môn đồ, của Chúa Giê-xu và Giu-đa. Mười một môn đồ đã phẫn nộ vì sự lãng phí này. Tất cả số tiền ấy đã có thể được dùng để mua đồ ăn và quần áo cho người nghèo, xem ra là một điều hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, giúp đỡ những người nghèo trong hòan cảnh khó khăn của họ là điều nên làm, nhưng có một ưu tiên còn lớn hơn cả những người nghèo vào lúc này. Tất cả Các-vua Giu-đa đều được xức dầu trước khi đăng quang, và đây sẽ là sự xức dầu cho Ngài, không phải bởi một tiên tri mà bởi một người phụ nữ. Việc này còn có ý nghĩa hơn thế nữa vì nó còn là một sự chuẩn bị mang tính tượng trưng cho việc chôn xác Ngài. Ma-ri biết rằng Vua của mình phải chết, cô đã hiểu được Phúc Âm. Đó là lý do vì sao bất cứ nơi nào Phúc âm được giảng ra (đây là một điểm hay nữa về sách Mác), hành động thờ phượng bất vị kỷ của Ma-ri được nhắc đến. Thực chất của việc thờ phượng Chúa Cứu Thế là tôn cao Ngài bằng tình yêu tuyệt đối, sự kính trọng, tận hiến và sẵn sàng dâng cho Ngài điều quý báu nhất.
V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
* Sự dâng hiến từ trái tim.
a. Mục đích: Tạo động cơ cho các em học bài học này.
b. Chuẩn bị: Kinh Thánh, giấy bìa cứng, bút chì màu.
c. Thực hiện: Chia các em làm 2 nhóm, mỗi nhóm phụ trách một phân đoạn Kinh Thánh của bài nầy. Sau đó, mỗi nhóm sẽ vẽ ra vật mà những người phụ nữ đã dâng cho Chúa. Tiếp đó cho các em thảo luận: Khi dâng hiến (tặng quà) cho Chúa (cho người khác), phải có thái độ như thế nào?
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào đề.
Các em thân mến! Các em có thích nhận quà không? Các em cảm thấy như thế nào khi được nhận quà?
Người được nhận quà dĩ nhiên là vui rồi, còn người tặng quà cũng cảm thấy rất vui khi được tặng quà cho người mình thương yêu, như vậy món quà mới có ý nghĩa. Bài học Kinh Thánh hôm nay, các em sẽ thấy có hai người tặng qùa cho Chúa với tinh thần như vậy.
2. Bài học.
a. Sự dâng hiến của bà goá nghèo.
Một ngày nọ, Chúa Giê-xu ở trong đền thờ Giê-ru-sa-lem và quan sát những người dâng hiến. Chúa Giê-xu thấy có rất nhiều người giàu, ăn mặc sang trọng bỏ tiền vào thùng dâng hiến. Có lẽ trong số họ, có người dâng rất nhiều, nhưng Chúa Giê-xu biết rõ tấm lòng họ. Mặc dầu họ dâng số tiền lớn, nhưng đối với họ chỉ là số tiền dư, không đáng gì cả, và họ muốn người khác biết mình dâng nhiều để được mọi người khen ngợi.
Cuối cùng, có một người phụ nữ goá chồng, ăn quần áo cũ kỹ, thẹn thùng đến gần thùng dâng. Người đàn bà goá này dâng gì? (Cho các em chia sẻ phần sinh hoạt đầu giờ và dán hình các em đã vẽ lên bảng).
Người đàn bà rón rén bỏ hai đồng tiền vào thùng. Có lẽ những người giàu có nhìn thấy thì nghĩ rằng, bà goá này không nên dâng vì quá nghèo. Nhưng Chúa Giê-xu có cái nhìn khác họ. Đọc Lu-ca 21:3 xem Chúa Giê-xu đánh giá như thế nào về sự dâng hiến của người phụ nữ nầy?
Các em có ngạc nhiên trước lời nhận xét của Chúa không? Tại sao Chúa Giê-xu lại nói bà goá nầy dâng nhiều hơn những người khác? Đọc Lu-ca 21:4 xem lời giải thích của Chúa như thế nào?
Mặc dù bà goá này chỉ dâng hai đồng tiền, nhưng đó lại là tất cả số tiền bà có được, và bà đã dâng bằng tấm lòng biết ơn, kính yêu Đức Chúa Trời. Con người nhìn thấy bên ngoài, nhưng Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng. Ngài đánh giá rất cao về tinh thần dâng hiến của bà goá này, không phải dâng phần nhỏ nhất mà dâng phần tốt nhất cho Ngài, thậm chí là tất cả cho Ngài.
b. Sự dâng hiến của Ma-ri.
Bây giờ, chúng ta xem về sự dâng hiến của một phụ nữ khác. Một hôm, Chúa Giê-xu đến làng Bê-tha-ni và vào nhà một người tên là Si-môn. Lúc đó, người Giu-đa đang chuẩn bị dự Lễ Vượt qua, nhưng các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo lại đang mưu tính một việc khác. Đọc Mác 14:1 xem họ mưu tính việc gì? (Cho các em chia sẻ phần sinh hoạt đầu giờ và dán hình các em đã vẽ lên bảng).
Chúa Giê-xu biết Ngài sắp phải chịu đóng đinh trên thập tự giá, nên những giờ mà Ngài gặp gỡ người thân, bạn bè là những giờ phút rất qúy giá. Trong bữa ăn tối tại nhà Si-môn, có một người phụ nữ tên là Ma-ri đến dâng cho Chúa một món quà. Ma-ri đã dâng gì cho Chúa? (Cho các em chia sẻ phần sinh hoạt đầu giờ và dán hình các em đã vẽ lên bảng).
Ma-ri mở bình dầu thơm và xức trên đầu Chúa Giê-xu, mùi thơm lan toả khắp phòng. Nếu các em cũng có mặt ở đó, các em sẽ nghĩ như thế nào về hành động của Ma-ri? (Cho các em chia sẻ suy nghĩ của mình).
Có một số người không bằng lòng với việc làm của Ma-ri. Họ trách: “Tại sao xài phí như vậy?!” Người khác tiếp: “Phải đó! Chai dầu thơm này có thể bán được hơn 300 đơniê, rồi dùng số tiền đó mà giúp đỡ những người nghèo thì ý nghĩa hơn!”
Chúng ta sẽ tìm hiểu về giá trị của chai dầu thơm đó. Dầu thơm đó là dầu cam tùng được nhập từ Ấn độ. Thời đó, dầu thơm qúy thường đựng trong bình bằng ngọc để thể hiện giá trị của nó. Một bình dầu cam tùng trị giá khoảng 300 đơ-ni-ê (đơ-ni-ê là đơn vị tiền tệ ngày xưa), tương đương với một năm tiền công lao động của một người bình thường thời đó. Vì vậy, một số người cho rằng xài như vậy là lãng phí.
Các em suy nghĩ xem Ma-ri cảm thấy thế nào khi bị một số người chỉ trích? (Cho các em trả lời). Có lẽ Ma-ri đợi xem phản ứng của Chúa Giê-xu như thế nào. Đọc Mác 14:6 xem Chúa Giê-xu đã nói gì? (Mời một em nam đọc câu Kinh Thánh này).
Chúa Giê-xu tiếp tục giải thích: “Vì các ngươi luôn có kẻ khó khăn ở cùng mình, khi nào muốn làm phước cho họ cũng được, nhưng các ngươi chẳng có Ta ở luôn với đâu!” Chúa Giê-xu khen ngợi việc làm của Ma-ri, vì bà đã dâng hiến với lòng tôn kính, yêu mến và biết ơn Chúa. Chúa Giê-xu đã ban thưởng xứng đáng cho lòng dâng hiến của Ma-ri. Đọc Mác 14:9 xem Chúa Giê-xu đã khen thưởng như thế nào? (Cho các em đọc câu Kinh Thánh). Vì vậy mà ngày nay, hành động cao đẹp của Ma-ri vẫn được khen ngợi và là tấm gương về lòng dâng hiến cho mọi người trong mọi thời đại noi theo.
3. Ứng dụng.
Các em thân mến, sự dâng hiến của bà góa và Ma-ri giống và khác nhau ở chỗ nào? (Cho các em chia trả lời).
Qua bài học nầy, các em thấy quan điểm của Chúa Giê-xu về sự dâng hiến như thế nào? (Chúa Giê-xu không nhìn vào của dâng mà nhìn lòng tấm lòng của người dâng. Tấm lòng quan trọng hơn của lễ, nên các em không cần e ngại khi mình chỉ có số tiền dâng ít quá. Nếu ít nhưng tấm lòng em yêu mến Chúa và dâng với thái độ trân trọng thì các em vẫn được Chúa khen ngợi). Hướng dẫn các em mở bài tập và hướng dẫn hoàn thành phần bài tập “Ký giả nhí”. Sau đó hỏi các em: “Động cơ nào thúc đẩy họ dâng điều tốt nhất cho Chúa?” (Lòng yêu kính Chúa).
Cho các em đọc câu gốc, sau đó hướng dẫn các em thảo luận: “Tùy theo lòng mình đã định” nghĩa là gì? (Theo ý muốn của mình). “Không phải phàn nàn” có nghĩa gì? (Không do dự tính toán, hay cảm thấy không vui). Chúng ta phải có thái độ như thế nào khi dâng hiến mới đẹp lòng Chúa? (Dâng cách vui lòng, tự nguyện). Em cảm thấy thái độ dâng hiến của em trong những ngày qua như thế nào?
Giáo viên chia sẻ: “Không những các em vui mừng khi nhận quà từ người khác, nhưng các em cũng cần phải biết tặng quà cho người khác nữa. Cho các em theo hướng dẫn hoàn thành phần bài tập “Món quà của em” và khích lệ các em thực hiện theo kế hoạch mà các em đã chọn.
BÀI 12. TÌNH YÊU CỦA NGƯỜI CHA
I. KINH THÁNH: Lu-ca 15:11-32.
II. CÂU GỐC: “Ngươi không phải là tôi mọi nữa, bèn là con; và nếu ngươi là con, thì cũng là kẻ kế tự bởi ơn của Đức Chúa Trời” (Ga-la-ti 4:7).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em
– Biết: Chúa Giê-xu kể ví dụ nầy để bày tỏ tình yêu thương và sự tha thứ của Ngài đối với những người có tội ăn năn.
– Cảm nhận: Đức Chúa Trời chờ đợi và sẵn sàng tha thứ cho bất cứ ai quay trở lại với Ngài.
– Hành động: Đối với những em chưa tin Chúa: Trở về với Chúa để nhận được tình yêu và sự tha thứ của Ngài. Đối với những em đã tin Chúa: Cảm tạ tình yêu của Chúa và sống đẹp lòng Ngài.
IV.PHẦN GIÁO VIÊN SUY GẪM.
Câu chuyện nầy chắc hẳn đã quen thuộc, nhưng mỗi lần có dịp đọc lại nó, chúng ta lại thấy rung động về tình yêu của người cha Nhân vật chính trong câu chuyện. Ông ta đã minh họa một cách rõ nét đặc tính của Đức Chúa Trời. Tình yêu vô điều kiện của Ngài sẵn sàng tha thứ cho tội nhân biết ăn năn quay trở lại với Ngài. Trước khi người con hoang đàng trở về, người cha đã luôn mong chờ con. Trước khi người con có thể thốt ra những lời ăn năn xưng tội như đã dự định, thì người cha đã chào đón anh trở lại gia đình, đối xử với anh một cách trang trọng, lấy quần áo mới nhất mặc cho anh, mang giày vào chân, lấy nhẫn đeo vào tay, còn tổ chức tiệc mừng nữa. Cách tiếp đón của người cha cho thấy lòng ăn năn chân chính không chỉ nhận được sự tha thứ, mà còn phục hồi địa vị một cách trọn vẹn nữa.
Trái ngược với sự vui mừng và lòng bao dung rộng lượng của người cha, người con cả tức giận và cay đắng vì không hiểu tình yêu của cha. Người anh cả đại diện cho người Pha-ri-si và những người giống như họ. Câu chuyện ngụ ngôn nầy như là một lời kêu gọi họ phải thay đổi cách suy nghĩ đối với những người thấp kém và tội lỗi.
Khi một người có tội ăn năn quay trở về với Đức Chúa Trời, các thiên sứ trên trời vui mừng nhảy nhót. Chúng ta cũng phải hết lòng vui mừng tiếp đón những người biết ăn năn, và đem đến cho họ sự nâng đỡ và khích lệ mà họ cần, để tăng trưởng trong Chúa Cứu thế.
V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
Giáo viên tìm các tranh ảnh về nạn đói từ báo, tạp chí cũ cho các em xem (để các em hiểu rõ bối cảnh trong câu chuyện). Sau đó cho các em thảo luận: Những nguyên nhân nào có thể dẫn đến nạn đói? Nạn đói ảnh hưởng đến xã hội như thế nào?…
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào đề.
Cho các em diễn kịch ngắn trong sách học viên bài tập 12 phần 1. Qua vở kịch nầy, giúp các em hiểu được tâm trạng và cảm nghĩ của người con cả trong ví dụ của Chúa Giê-xu. Phân vai cho các em tập trước. Sau khi diễn xong, cho các em thảo luận vở kịch đó với những câu hỏi sau.
– Nếu em là Đạt, khi em chưa làm xong công việc mà được đi xem bóng đá, em cảm thấy thế nào? Có công bằng không? Tại sao?
– Nếu em là Cường, em cảm thấy thế nào? Tại sao? Em có nói với ba là đã phân chia công việc, và Đạt chưa làm xong phần việc của mình không? Em có thấy bất công không, khi xem bóng đá về còn phải giúp Đạt làm tiếp phần việc còn lại? Tại sao? Em có cảm thấy ba yêu thương Đạt hơn mình không? (Cho các em nói lên suy nghĩ của mình).
Chúa Giê-xu có kể một câu chuyện mà có một nhân vật trong câu chuyện cũng hiểu lầm tình yêu thương của cha đối với mình như Cường vậy! Các em theo dõi nhé!
2. Bài học.
Các em biết không, trong thời Chúa Giê-xu, người Pha-ri-si hết sức kiêu ngạo, cho rằng mình tốt vì vâng giữ luật pháp Môi-se. Họ coi thường những người thâu thuế và những người bị coi khinh trong xã hội. Các em đọc Lu-ca 15:1-2 xem những người Pha-ri-si tức giận việc gì? (Họ cho rằng Chúa Giê-xu không nên ở và ăn cơm chung với những người thâu thuế và người có tội, vì những người đó không xứng đáng được như vậy. Vào thời đó, ăn cơm chung là biểu hiện tình bạn tốt đẹp).
Chúa Giê-xu biết ý nghĩ của những người Pha-ri-si và các thầy thông giáo, nên Ngài kể một ví dụ. (Nếu câu chuyện nầy quen thuộc thì có thể cho các em tham gia vào bài học bằng cách đóng kịch).
Một người cha có hai con trai. Người anh cần cù làm việc suốt ngày, còn người em thì thích chơi bời lêu lỏng. Một ngày nọ, người em quyết định ra đi sống xa nhà, để được tự do và mở rộng tầm mắt. Anh ta nói với cha: “Thưa cha, xin chia gia tài cho con!”
Vào thời đó, khi cha chết thì con trai trưởng nam được thừa hưởng 2/3 tài sản, con trai út chỉ được 1/3. Khi nghe con trai út xin được phần tài sản của mình, người cha không vui, nhưng vẫn chia cho con. Mấy ngày sau, người em lấy tài sản của mình và ra đi.
Các em biết người con út đi đâu không? (Đi đến một nơi xa lạ). Anh ta làm gì ở đó? (Ăn chơi hoang đàng, tiêu xài phung phí). Khi đó, bạn bè của anh đối xử với anh thế nào? (Tốt, thân mật).
Đúng lúc ấy, trong xứ anh cư ngụ xảy ra hạn hán. Thế là nạn đói xuất hiện và đe dọa mọi người. “Nạn đói” là gì? (Là lúc thiếu thức ăn kéo dài. Cho các em xem hình). Người em hết tiền, bị bạn bè bỏ rơi, khốn khổ vì đói, đành nhận lời đi chăn heo cho một nhà nọ. Đây là công việc mà không ai muốn làm, vì theo luật pháp Môi-se, con heo được xem là con vật dơ bẩn (Lêvi ký 11:7). Vậy mà khi chăn heo, anh ta đói đến nỗi muốn ăn vỏ đậu của heo, nhưng chủ cũng không cho ăn.
Vừa đói, vừa buồn tủi, nhục nhã, vừa hối hận, người em khóc, nhận ra mình rời bỏ nhà cha là một hành động sai lầm. Các em nghĩ anh ta phải làm thế nào đây? (Anh quyết định quay về, xin cha coi như tôi tớ trong nhà). Quyết định của người em cho thấy điều gì? (Anh ta đã ăn năn tội lỗi). Anh không đòi được làm con út như ngày nào, mà chỉ mong được làm nô lệ của cha.
Nghĩ thế, người em quyết định đứng dậy trở về. Khi về gần đến nhà, anh lo lắng không biết thái độ của cha sẽ như thế nào khi thấy mình trở về. Nhất là khi tiền bạc đã tiêu xài hết, liệu cha có tha thứ cho anh không, hay sẽ mắng: “Mày không phải là con tao nữa. Mày bỏ nhà ra đi, sao bây giờ còn quay lại xin ăn?” Nghĩ tới đó, anh ta càng thêm bối rối, lo sợ.
Trong khi đó, người cha lúc nào cũng mong đợi một ngày nào đó, con trai sẽ nghĩ lại mà trở về nhà. Một hôm, ông thấy xa xa có một người đang đi về phía nhà mình. Có phải con ta không? Sao dáng vẻ tiều tụy thảm thương đến thế nầy! Ôi! Đúng là con trai của ta rồi! Các em biết ông làm gì không? (Người cha chạy ra, ôm chầm lấy con mà hôn).
Người em hết sức ngạc nhiên khi thấy cha chạy ra đón mình, rồi còn dang rộng tay ôm chầm lấy và hôn nữa. Người con út nói những lời đã chuẩn bị trước: “Thưa cha, con thật có tội với trời và với cha, không đáng gọi là con của cha nữa!” Người cha ngắt lời con vì quá vui mừng, liền bảo đầy tớ: “Mau lên! Hãy lấy áo tốt nhất mặc cho cậu út, đeo nhẫn vào tay, mang giày vào chân. Hãy làm thịt bò mập để chúng ta ăn mừng vì con trai ta đã về!”
Khi nghe cha nói như vậy, nếu em là người em út, em sẽ cảm thấy như thế nào? (Cho các em nói ra cảm nghĩ của mình). Cái áo đẹp chỉ dành cho khách quí, nhưng anh lại được mặc, được đeo chiếc nhẫn quí của cha, mang giày tốt vào chân. Người em chỉ dám nghĩ rằng, cha đối xử với mình như đứa ở trong nhà là qúy lắm rồi, nhưng anh không ngờ cha không những tha thứ, mà còn xem anh là con yêu dấu nữa.
Các em thân mến, anh út trở về nhà và được cha tha thứ. Mọi chuyện có vẻ tốt đẹp, nhưng Chúa Giê-xu đã nói, trong nhà có hai anh em. Khi em út trở về thì người anh đang làm việc ở ngoài đồng. Đến chiều người anh trở về nhà, nghe tiếng cười, tiếng đàn hát thì ngạc nhiên hỏi một đầy tớ: “Có chuyện gì vậy? Sao lại làm tiệc ăn mừng?” Đầy tớ vui vẻ trả lời: “Cậu út đã về rồi! Ông chủ sai làm thịt bò mập để ăn mừng”.
Đó có phải là tin vui không? Người anh nghe tin đó cảm thấy thế nào? (Cho các em đọc Lu-ca 15:28-30, ghi lên bảng chữ “nổi giận”, “không muốn vào nhà”, “con của cha kia”).
Theo các em, tại sao anh cả nổi giận? (Cho các em trả lời. Có thể là vì ích kỷ, ganh tỵ, tủi thân, không hiểu tình yêu của cha…) Người anh nổi giận, không vào nhà, làm vậy có nên không? Tại sao?
Người cha biết tâm trạng của con cả liền bước ra khuyên nhủ, rằng cha yêu thương cả hai con, nhưng người anh thưa: “Bao nhiêu năm con làm việc cực nhọc chưa hề trái lệnh cha. Vậy mà cha chẳng cho một con dê để đãi bạn, nhưng nay đứa con của cha kia đã tiêu sạch tiền của cha rồi trở về, thì cha lại làm tiệc mừng nó!”
Theo em, cảm nghĩ của người anh như vậy có đúng không? Nếu em là người anh, em có suy nghĩ như vậy không? (Cho các em trả lời). Có thật người anh lúc nào cũng vâng lời cha không? Trong lời nói của anh ta, có điều gì chứng tỏ sự bất mãn với cha và tức giận với em trai mình? (Trách cha và gọi em là “đứa con cha kia”). Thật ra người anh tức giận điều gì? (Người em được tiếp đón khi trở về).
Người cha ngạc nhiên khi thấy con cả nổi giận. Ông nhẹ nhàng nói: “Con ơi! Con luôn luôn ở bên cạnh cha. Tất cả tài sản của cha là của con, còn em con tưởng đã chết mà nay được sống, tưởng đã lạc mất mà nay trở về”.
Các em thân mến, Chúa Giê-xu kể câu chuyện nầy có ý nghĩa gì? Mỗi nhân vật trong câu chuyện đều đại diện cho một hạng người.
a. Người cha: Theo các em, người cha trong câu chuyện chỉ về ai? (Đức Chúa Trời). Người cha làm những gì khiến các em nghĩ đến Chúa?
b. Người anh: Người anh giống những người Pha-ri-si và các thầy thông giáo ở điểm nào? (Giúp các em hiểu, người anh nổi giận vì cha dọn tiệc mừng em, cũng giống như các thầy thông giáo phản đối bạn bè của Chúa Giê-xu là tội nhân và người thâu thuế. Giáo viên có thể đặt một số câu hỏi như: Ai không vui vì Chúa Giê-xu ăn chung, ở cùng với các tội nhân? Ai không vui vì người cha dọn tiệc mừng con út trở về?)
c. Người em: Người em đại diện cho ai? (Đến đây, có lẽ các em đã hiểu người em đại diện cho tất cả những người lầm lạc, đi theo ý riêng…) Các em có giống người con trai út nầy không?
3. Ứng dụng.
Bài học quan trọng nhất mà Chúa Giê-xu muốn các em học qua câu chuyện nầy là, tình yêu của Đức Chúa Trời đối với các em là rất lớn. Dù các em phạm sai lầm, xấu xa, Đức Chúa Trời vẫn yêu thương, và sẵn sàng tha thứ khi các em ăn năn tội. Các em thử suy nghĩ xem, khi con cái không vâng lời, ba mẹ có giận không? Nhưng giận có phải là không còn yêu thương con nữa không? Chúa Giê-xu muốn dạy rằng: Đức Chúa Trời vẫn yêu thương các em ngay cả lúc các em phạm lỗi. Ngài ghét tội lỗi các em đã phạm, nhưng Ngài yêu thương các em, và thực lòng mong muốn các em xưng tội và từ bỏ nó. Ngài không những tha thứ mà còn ban cho các em địa vị làm con. Kinh Thánh cho các em biết điều đó (cho các em đọc câu gốc).
(Hướng dẫn các em kể ra tình yêu thương của Đức Chúa Trời đối với các em trong những ngày qua, sau đó cho các em viết lời tạ ơn Chúa vào bài tập trong sách học viên).
BÀI 13. BÀI ÔN
Bạn thân mến!
Tuần nầy, bạn không cần phải dạy thêm điều gì mới nữa, mà dành thời gian ôn lại những gì mà các em đã học trong 3 tháng vừa qua. Chủ đề chính mà bạn cần nhấn mạnh trong chủ đề nầy chính là tình yêu của Đức Chúa Trời đối với các em qua Chúa Giê-xu, làm sao cho các em hiểu được tình yêu của Chúa đối với các em là rất lớn, để các em có những hành động cụ thể đáp ứng tình yêu của Ngài.
Bạn có thể ôn lại mười hai bài học bằng những cách sau:
1. Chia tổ cho các em bắt thăm đóng kịch.
2. Kể chuyện tiếp sức.
3. Đố Kinh Thánh bằng trí nhớ.
Bằng cách nào tùy theo khả năng của các em trong lớp, hoặc phối hợp cả ba cũng được, miễn sao trong giờ ôn tập, các em vừa được vui chơi, vừa nhớ lại những gì đã học, đừng để quá căng thẳng trong giờ nầy. Nên chia làm hai tổ để thi đua.
Sau khi ôn xong, bạn cho các em làm BÀI KHẢO SÁT trong sách học viên. Khi chấm bài, bạn cần chú ý học lực và khả năng của từng em. Có em làm bài nhanh và đúng, cũng có em làm chậm và sai sót. Bạn cần giúp đỡ các em yếu kém, và khen ngợi tất cả các em đã cố gắng làm bài. Hy vọng rằng, các em nhỏ mà bạn đang chăm sóc, có thể thấy tình yêu của Chúa qua đời sống của bạn.
* Đáp án bài khảo sát trong sách học viên.
1.a, 2.b, 3.d, 4.b, 5.d, 6._, 7.d, 8.b, 9.d, 10.c, 11.c, 12.d, 13._, 14.d, 15._, 16._, 17.c, 18.a, 19.d, 20.d.
BÀI 13. BÀI KHẢO SÁT
Em thân mến! Em đã rất xuất sắc khi học xong 12 bài học Kinh Thánh của qúy này. Bây giờ là lúc em xem lại mình nhớ bao nhiêu nhé! Hãy đọc kỹ yêu cầu của mỗi câu và ghi ra đáp án sau khi em đã suy nghĩ cẩn thận rồi nhé! Xin Chúa giúp đỡ em. Chúc em làm bài tốt!
1. Trong suy nghĩ của dân Giu-đa, họ mong chờ Đấng Mê-si-a đến để làm gì?
a. Giải cứu họ ra khỏi sự cai trị của người La-mã.
b. Giải cứu họ ra khỏi tội lỗi.
c. Chịu chết chuộc tội cho họ.
d. Tất cả đều sai.
2. Hô-sa-na có nghĩa là gì?
a. Chào đón.
b. Xin cứu giúp.
c. Ca ngợi.
d. Vua của tôi.
3. Thái độ bình tĩnh của Chúa Giê-xu trước quân lính La-mã trong buổi tối tại vườn Ghê-sê-ma-nê cho thấy điều gì?
a. Chúa Giê-xu là con người can đảm.
b. Chúa Giê-xu có quyền năng.
c. Chúa Giê-xu có thiên sứ bảo vệ.
d. Chúa Giê-xu biết trước chương trình của Đức Chúa Trời.
4. Bảng định tội Chúa Giê-xu được gắn phía trên đầu cây thập tự, ghi bằng các thứ tiếng:
a. La-tinh, Gờ-réc, Hê-bơ-rơ.
b. Hê-bơ-rơ, La-tinh, Hy-lạp.
c. Gờréc, Hê-bơ-rơ, Hy-lạp.
5. Các thầy tế lễ và người Pha-ri-si đã yêu cầu Phi-lát làm gì, để ngăn chặn bạn bè và người thân của Chúa ăn cắp xác Ngài rồi rao tin Ngài sống lại?
a. Niêm phong mộ Chúa.
b. Dời xác Chúa đến một ngôi mộ khác.
c. Cho lính canh gác nghiêm ngặt.
d. Câu a và c đúng.
6. Ghi ra những bằng chứng mà em biết để chứng tỏ Chúa Giê-xu đã thật sự sống lại.
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
7. Chúa Giê-xu phục sinh chứng tỏ điều gì?
a. Ngài là Con Đức Chúa Trời.
b. Ngài là Đấng chiến thắng sự chết.
c. Ngài là Đức Chúa Trời quyền năng.
d. Tất cả đều đúng.
8. Điều kiện để một người được bước vào Nước Trời là gì?
a. Đi nhà thờ thường xuyên.
b. Tái sanh.
c. Tham gia ban hát.
d. Con cái tín đồ.
9. Qua việc Chúa Giê-xu trò chuyện với người đàn bà Sa-ma-ri, cho thấy Ngài khác với những người Giu-đa ở chỗ nào?
a. Ngài yêu thương tất cả mọi người.
b. Ngài đến gần những người bị coi khinh để cứu họ.
c. Ngài không phân biệt chủng tộc.
d. Cả ba đều đúng.
10. Người đàn bà Sa-ma-ri đã có sự biến đổi lớn nào khi tiếp xúc với Chúa Giê-xu?
a. Nhận biết Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a.
b. Làm chứng về Chúa cho người khác.
c. Cả hai đều đúng.
d. Cả hai đều sai.
11. Chúa Giê-xu làm công việc thấp nhất là rửa chân đã dạy các môn đồ (cả em nữa) bài học gì?
a. Coi người khác như tôn trọng hơn mình.
b. Khiêm nhường.
c. Phục vụ bằng tình yêu thương.
d. Quan tâm đến người khác.
12. Chúa Giê-xu dạy thái độ cầu nguyện nào sau đây không đẹp lòng Chúa?
a. Lặp đi lặp lại lời vô ích.
b. Cầu nguyện lớn tiếng cốt để người khác nghe.
c. Thì thầm trong phòng riêng.
d. Câu c sai.
13. Chúa Giê-xu phán: “Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi” khiến em nhận biết như thế nào về Chúa?
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
14. Trong ví dụ mà Chúa Giê-xu kể về người gieo giống, hình ảnh hạt giống rơi vào đất tốt tượng trưng cho ai?
a. Người nghe nhưng không hiểu lời Chúa.
b. Người tạm thời tin Chúa.
c. Người có niềm tin bị lụi tàn bởi cuộc sống bận rộn.
d. Người nghe và làm theo lời Chúa.
15. Nêu ra sự phục vụ của Ma-thê và Ma-ri đối với Chúa Giê-xu.
a. Ma-thê: …………………………………………………………………………………………..
b. Ma-ri: …………………………………………………………………………………………..
16. Qua việc Chúa Giê-xu đánh giá cao hành động của Ma-ri, em nhận thấy Chúa muốn em ưu tiên việc gì trước hết?
……………………………………………………………………………………………………………………
17. Vì sao Chúa Giê-xu khen bà goá nghèo dâng nhiều hơn tất cả những người giàu có khác?
a. Chúa thương người nghèo.
b. Bà dâng với thái độ rụt rè.
c. Bà đã dâng tất cả với lòng kính yêu Chúa.
d. Cả ba đều đúng.
18. Chúa Giê-xu nói hành động nào của Ma-ri sẽ người mọi người nhắc đến?
a. Xức dầu thơm cho Chúa.
b. Đón tiếp Chúa chu đáo.
c. Ngồi dưới chân Chúa.
d. Đi theo Chúa.
19. Hình ảnh người cha trong câu chuyện Chúa Giê-xu kể, cho em thấy Đức Chúa Trời là Đấng như thế nào?
a. Yêu thương, tha thứ.
b. Sẵn sàng tiếp nhận người có tội ăn năn.
c. Thưởng phạt công minh.
d. Câu a và b đúng.
20. Sau khi tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa, em được hưởng những quyền lợi nào?
a. Được tái sanh.
b. Được địa vị làm con.
c. Được Chúa yêu thương và chăm sóc.
d. Tất cả đều đúng.
Hãy viết vài lời tạ ơn Chúa Giê-xu sau khi em học những bài học trong quý nầy.
………………………….
…………………………. BẢN ĐỒ NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG CHÚA GIÊ-XU CHỊU THƯƠNG KHÓ