Chuyên mục: PHỤ NỮ

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 05.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 05.04.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 05.04.2015 (Lễ Phục Sinh).

1. Đề tài: TỪ CHẾT ĐẾN PHỤC SINH.

2. Kinh Thánh: Rô-ma 6:3-11; Giăng 12:24; 1Côr 15:19-20.

3. Câu gốc: “…Đấng Christ đã từ kẻ chết sống lại, Ngài  là trái đầu

mùa của những kẻ ngủ” (1Côr 15:20).

4. Đố Kinh Thánh: Đố theo chủ đề.

5. Thể loại: Chia sẻ.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

TỪ CHẾT ĐẾN PHỤC SINH.

Theo niên lịch Cơ Đốc Giáo, 40 ngày trước lễ Phục Sinh là lễ Tro.

Lễ Tro là ngày đầu tiên của Mùa Thống Hối.Mùa Thống Hối sẽ

chấm dứt vào ngày thứ bảy trước lễ Phục Sinh. Trong thời gian 40

ngày này các tôi con Chúa thường kiêng ăn cầu nguyện, tự xét mình,

ăn năn, xưng tội và cầu xin Đức Thánh Linh ban năng lực để sống

đẹp lòng Chúa…

Tuần lễ cuối cùng của Mùa Thống Hối là Tuần Thương Khó cũng

gọi là Tuần Thánh. Tuần này bắt đầu với lễ Lá, nhắc ngày Chúa được

nghênh rước vào thành Giê-ru-sa-lem cách khải hoàn, rồi tiếp tục với

thứ năm, ngày Chúa thiết lập lễ Tiệc Thánhvà thứ sáu, Chúa chịu

đóng đinh trên thập tự giá để đến Chúa nhật, Chúa sống lại từ cõi

chết. Đó cũng là ngày vui nhất của Cơ Đốc Giáo, ngày lễ Phục Sinh.

I. CÓ CHẾT RỒI MỚI CÓ PHỤC SINH.

Một lẽ thật quan trọng chúng ta có thể khámphá được trong mùa

lễ nầy là Chúa phải chịu đau đớn, khốn khổ  và cuối cùng phải chết,

rồi Ngài mới có thể phục sinh vinh hiển được.

Trong phương diện thuộc linh cũng vậy. Chúng ta phải chết về

bản ngã, con người cũ (tư dục xác thịt, ý riêng), rồi mới phục sinh

75

được (đời sống mới, được biến đổi bởi Đức thánh Linh). Nhờ đức tin

chúng ta đã chết và sống lại qua lễ báp tem. Tại lễ báp tem, chúng

ta bước vào mầu nhiệm cùng chết và sống lại với Chúa (Rô 6:3-11).

Muốn có một đời sống đắc thắng tràn đầy sức sống thiên thượng

bước tiên quyết là phải chết đi con người cũ hoặc bản tánh xác thịt

mình. Không có ngã tắt nào để bước vào ngưỡng cửa quyền năng

phục sinh ngoại trừ phải chết. Ngày nào chúng ta còn chưa lấy đức

tin để cho con người cũ chết đi thì ngày đó chúng ta cũng chưa thể

sống với sức sống phục sinh được.

Trong cuộc sống theo Chúa, đôi khi Chúa cũng cho chúng ta phải

trải qua những đau đớn, thất vọng hoặc thất  bại rồi mới có thể tìm

thấy sung sướng, vui mừng và thành công. Có  những cuộc hôn nhân

phải đến chỗ đổ vỡ rồi mới tìm thấy lại hạnh phúc thật. Có những

Hội Thánh phải đóng cửa rồi mới kinh nghiệmđược sự phấn hưng.

Có những tôi tớ Chúa phải nghỉ chức vụ mộtthời gian rồi mới có thể

có một chức vụ kết quả.

Chúng ta đừng vội thất vọng hoặc lên án khithấy công việc nhà

Chúa dường như đang đổ vỡ. Vì từ những hài cốt khô Đức Chúa Trời

cũng có thể dựng lên một đạo binh rất lớn và dũng mãnh (Ê-xê 37).

Bây giờ người ta sẽ không thể nói rằng nhờtay mình mà công việc

Chúa mới được như thế nầy, như thế kia; bèn là nhờ quyền năng của

Thánh Linh Đức Chúa Trời hành động qua mình (Xa 4:6).

Chúa chúng ta đã dạy, “nếu hột giống lúa mì kia, chẳng chết sau

khi gieo xuống đất, thì cứ ở một mình; nhưng nếu chết đi, thì kết

quả được nhiều”(Giăng 12:24). Chết là cần thiết cho phục sinh.

Phải có chết rồi mới có thể phục sinh được.

II. CÓ CHÚA PHỤC SINH, CÓ ĐỜI SỐNG ĐẮC THẮNG.

Đây là lẽ thật thứ hai. Thật rõ ràng là bối cảnh xã hội, chính trị tại

Pa-lét-tin không có gì thay đổi trước và sau  khi Chúa phục sinh. Người

La-mã vẫn cai trị dân Do-thái, giới lãnh đạotôn giáo vẫn cộng tác với

ngoại bang để củng cố chức vị và quyền hành. Những ai bất đồng ý

76

kiến hay có tư tưởng chống đối đều bị “chụp mũ” là chống chính quyền

và bị bắt giam ngay tức khắc. Hàng ngàn người đã bị xử đóng đinh.

Các môn đồ của Chúa Giê-xu phần nhiều là những người miền

quê. Bản tính sợ người quyền thế vốn đã cósẵn trong dòng máu của

những người quen bị trị. Lâu nay họ hãnh diệnvì thầy của mình thật

là tài năng, làm những dấu kỳ phép lạ phi  thường, nhưng từ khi

chính mắt họ thấy Chúa bị bắt, chịu tử hình trên thập tự giá, bao

nhiêu niềm hãnh diện và mộng đẹp đều bị tanvỡ. Họ sợ bị liên lụy,

sợ nên trốn tránh. Nhắc lại tình cảnh đó, thánh Giăng rất thành thật

viết: “Buổi chiều nội ngày đó, là ngày thứ nhất trong tuần lễ, những

cửa nơi các môn đồ ở đều đương đóng lại, vìsợ dân Giu-đa”

(Giăng 20:19). Sợ, là bản tánh cố hữu của chúng ta.

Nhưng từ khi họ gặp được Chúa phục sinh, sự sợ hãi đã tan biến.

Họ bắt đầu kinh nghiệm một đời sống đắc thắng. Ngày trước họ sợ

bị bắt bỏ tù, nhưng bây giờ bắt bớ và tù đày dường như không có

nghĩa lý gì nữa. Ngày trước, nếu những nhà lãnh đạo trong dân quở

trách, có lẽ họ đã im hơi lặng tiếng mà nghe, bất kể là đúng hay

sai, nhưng bây giờ thì họ đã không ngần ngạihỏi lại rằng:  “Chính

các ông hãy suy xét, trước mặt Đức Chúa Trời có nên vâng lời các

ông hơn là vâng lời Đức Chúa Trời chăng? Vì, về phần chúng tôi,

không có thể chẳng nói về những điều mình đã thấy và nghe”

(Công 4:19-20).

Họ đã kinh nghiệm được thế nào là  “biết lẽ thật và lẽ thật sẽ

buông tha”(Giăng 8:32). Chúa Giê-xu phục sinh chính là lẽ thật đó.

“Đấng Christ đã buông tha chúng ta cho được tự do” (Ga-la-ti 5:1a).

Kinh nghiệm Chúa phục sinh đã cho họ đời sống đắc thắng. Nhà

cầm quyền, roi vọt, tù đày, bị sỉ nhục công  khai, hoặc bị treo trên

thập tự giá vốn là những gì họ hay sợ trước khi gặp Chúa phục sinh.

Giờ đây những thứ đó không còn có nghĩa gì nữa. Quả thật, cuộc đời

họ đã hoàn toàn thay đổi kể từ khi gặp Chúa phục sinh. Họ đã kinh

nghiệm một đời sống đắc thắng giữa một xã hội đầy bất công và áp

77

bức. Họ đã thật sự kinh nghiệm sự tự do dùsống giữa một môi

trường không chút tự do. Khó khăn hoặc chếtchóc đối với đa số

chúng ta dường như là tận điểm. Đứng trước sự khó khăn và sự chết,

chúng ta thường buồn bã và than vãn và đôi  khi cũng thắc mắc về

tình thương của Đức Chúa Trời, nhưng tạ ơn Chúa vì trước mắt Ngài,

khó khăn hoặc chết chóc chưa phải là tận cùng. Đó chỉ là sự cần

thiết để Ngài bày tỏ những việc diệu kỳ hơn qua quyền năng phục

sinh. Đức tin nơi Chúa phục sinh có thể giúp  chúng ta xem thường

mọi khó khăn trở ngại và được một đời sống đắc thắng. Ha-lê-lu-gia!

Tạ ơn Chúa, vì chúng ta đang được sự tự do và có thể sống một

cuộc đời đắc thắng. Hãy vững tin nơi Chúa phục sinh. Amen.

Mục sư Đặng Ngọc Báu (có sửa).

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Đổ Nước Sôi Vào Ly Thủy Tinh Không Vỡ.

Trước khi đổ nước sôi vào một ly thuỷ tinh,  đừng quên đặt cái ly

ấy trên một miếng vải thấm nước lạnh hoặc  bỏ vào ly một cái

muỗng kim loại.

 

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 29.03.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 29.03.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 29.03.2015.

1. Đề tài: NA-HUM – NGƯỜI RAO BÁO SỰ ĐOÁN XÉT CÔNG BÌNH

CỦA CHÚA.

2. Kinh Thánh:Na-hum 1-2.

3. Câu gốc:  “Đức Giê-hô-va chậm giận và có quyền lớn;  nhưng

Ngài chẳng cầm kẻ mắc tội là vô tội”(Na-hum 1:3).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 121 – 123.

5. Thể loại: Thảo luận.

69

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn thảo luận trước.

– Đề tài 1:  Đức Chúa Trời không cho Ni-ni-ve cơ hội thứ hai để

ăn năn.

– Đề tài 2: Đức Chúa Trời đoán phạt Ni-ni-ve vì khinh lờnơn tha

thứ của Chúa.

I. GIỚI THIỆU.

Tên Na-hum có nghĩa “sự an ủi”. Ông được ĐứcChúa Trời kêu gọi

làm tiên tri vào khoảng năm 630-612 T.C. để đem sự an ủi cho dân

Giu-đa sau khi vương quốc Y-sơ-ra-ên sụp đổ (722 T.C).

Trong lúc đế quốc A-si-ry hùng mạnh đang đe dọa Giu-đa, tiên tri

Na-hum đã thấy trước sự sụp đổ của đế quốcnày. Với sứ điệp của

Chúa, Na-hum đã rao sự đoán phạt Ni-ni-ve, đồng thời cũng đem cho

dân Chúa tin lành của sự giải cứu. Qua dự ngôn của Na-hum đã bày

tỏ cho chúng ta biết gì về quyền tể trị tối  thượng của Đức Chúa Trời

và sự đoán xét công bình của Ngài?

II. DẪN GIẢI.

1. Sự Cảnh Cáo Nghịch Cùng Ni-ni-ve.

Như tiên tri Áp-đia được Đức Chúa Trời gọi với sứ mạng là rao sự

đoán phạt trên Ê-đôm thì tiên tri Na-hum cũng được Chúa kêu gọi

với sứ mạng là rao sự đoán phạt trên Ni-ni-ve, vì Ni-ni-ve bị đặt dưới

bản án là kẻ mưu sự dữ nghịch cùng Đức Giê-hô-va (1:11). Trước

mặt Đức Chúa Trời, những kẻ tự cao, kẻ gianác theo đường lối thế

gian, xúc phạm đến luật công nghĩa của Chúa là kẻ dấy nghịch cùng

Ngài (Gia 4:4). Nên trong lời rao án phạt, Na-hum bày tỏ cho Ni-ni-ve biết:

(1) Đức Chúa Trời là Đấng Yêu thương cũng là Đấng Công nghĩa:

Giê-hô-va là Đức Chúa Trời ghen và báo thù; Đức Giê-hô-va báo thù

và đầy sự thạnh nộ. Đức Giê-hô-va báo thùkẻ cừu địch mình. Đức

Giê-hô-va chậm giận và có quyền lớn; nhưng chẳng cầm kẻ mắc tội

là vô tội (1:2-3). Chữ “ghen” và “báo thù” không có nghĩa chỉ về

70

những hành động theo lý tính của con người xác thịt. Nhưng ở đây là

sự diễn tả một khía cạnh sôi động trong bảntính yêu thương và

công nghĩa của Đức Chúa Trời. Với bản tính yêu thương, Đức Chúa

Trời chậm nóng giận, nhưng Ngài cũng “ghen” đối với kẻ xây bỏ

Chúa để theo thế gian; như người chồng ghen tuông vì sự ngoại tình

của vợ mình (Gia 4:4-5). Với bản tính công nghĩa, Đức Chúa Trời

chẳng cầm kẻ có tội là vô tội, nhưng Ngài cũng “báo thù” kẻ ác theo

luật công lý nhân quả (được xử theo những gì mình đã làm cách

công bằng).

(2) Quyền năng của Đức Chúa Trời rất lớn. Sức mạnh Ngài như

cơn gió lốc và bão tố. Lời quở trách của Ngài khiến các sông khô

cạn, hoa màu khô héo, các núi run rẩy. Vì vậy, trong sự đoán xét

của Chúa, Na-hum đố thách kẻ ác mưu nghịch Ngài rằng:  “Ai đứng

được trước sự thạnh nộ Ngài? Ai đương nổi sự nóng giận Ngài? Sự

tức giận của Ngài đổ ra như lửa, những vầngđá vỡ ra bởi Ngài….

Các ngươi sẽ lập mưu gì nghịch cùng Đức Giê-hô-va? Ngài sẽ diệt

hết cả…”(1:6-9).

Lời cảnh cáo trên là một hung tin cho dân Ni-ni-ve, nhưng cũng

là một tin lành cho dân Chúa. Vì trong sự công nghĩa, Đức Chúa Trời

dùng quyền năng đoán phạt kẻ ác, nhưng trongtình yêu thương

Chúa, quyền năng ấy được dùng để giải cứu dân sự Ngài. Trong 1:15

là bức ảnh thật đẹp diễn tả hình ảnh của người đem tin vui về sự

giải cứu của Chúa cho tuyển dân “Nầy, trên các núi có chân của kẻ

đem tin lành và rao sự bình an!”.

Tin lành mà Na-hum rao báo cho Y-sơ-ra-ên là tin về:

(1) Sự giải cứu của Chúa:  “Nhưng bấy giờ ta sẽ bẻ gãy ách nó

khỏi ngươi, và bứt đứt dây ngươi”(1:13).

(2) Sự an ủi của Chúa:  “Dầu ta đã làm khổ ngươi, song ta sẽ

chẳng làm khổ ngươi nữa” (1:12).

(3) Sự ban cho bình an của Chúa: “Vì kẻ gian ác về sau chẳng đi

qua giữa ngươi nữa, nó sẽ bị diệt sạch”(c.15).

71

(4) Sự công nghĩa của Chúa:  “Vì Đức Giê-hô-va khôi phục sự

vinh hiển của Gia-cốp như sự vinh hiển của Y-sơ-ra-ên, bởi những

kẻ bóc lột đã bóc lột chúng nó và đã pháhại những nhành nho

chúng nó”(2:2).

Bốn đặc điểm trên cho chúng ta thấy trong bài ca mà thiên sứ

loan báo Chúa Giê-xu là Tin Lành, là sự vui mừng lớn cho muôn dân

(Lu 2:11). Ngài là Đấng mà Đức Chúa Trời đãlàm nên sự cứu rỗi,

bình an, công nghĩa cho chúng ta (1Côr 1:30). Ngày xưa, Na-hum

rao cho Y-sơ-ra-ên về tin lành của Chúa. Ngàynay, chúng ta là người

nhận được tin lành của Chúa, nên sự đem ơn cứu rỗi của Chúa cho

người đang đau khổ trong tội lỗi, đó là sứ mạng của mỗi Cơ Đốc

nhân chúng ta. Như trong lời khuyến khích của  sứ đồ Phao-lô:

“Những bàn chân kẻ rao truyền Tin lành là tốt đẹp biết bao!” (Rô

10:15).

2. Sự Đoán Phạt Ni-ni-ve.

Ni-ni-ve là thủ đô của A-si-ry. Là một nước chạy dài phía đông bờ

sông Ty-rơ, trải dài với vùng đồng bằng rộng lớn. Vòng tường thành

Ni-ni-ve dài chừng 13km. Dân số Ni-ni-ve có khoảng 175.000 –

300.000 người. Thành Ni-ni-ve được xây dựng rất kiên cố. Mặt tiền

(trước) với ba lớp chiến lũy và mặt hậu (sau) với hai lớp chiến lũy

phòng thủ. Dù vững chắc thế, nhưng tiên tri Na-hum đã nói trước về

sự sụp đổ của Ni-ni-ve, bởi vì tội lỗi của dân thành này quá lớn đến

mức phải bị hủy diệt!

Trong lời nghịch cùng Ni-ni-ve, cho thấy dân này vô cùng bại

hoại với sự bất nghĩa, bất chính, làm đổ huyết, dâm đãng và tà thuật

là điều rất là gớm ghiếc trước mặt Đức Chúa Trời:  “Khốn thay cho

thành đổ máu! Nó đầy dẫy những sự dối trávà cường bạo, cướp

bóc không thôi… nó bán các nước bởi sự dâm đãng, và bán các họ

hàng bởi sự tà thuật”(3:1-4). Bởi cớ đó, Đức Chúa Trời phán:  “Ta

sẽ ném sự ô uế gớm ghiếc của ngươi trên ngươi, làm cho ngươi

nên khinh hèn, làm trò cho mọi người xem”(3:6). Trước Na-hum

72

150 năm, Giô-na vâng mạng Đức Chúa Trời cảnh cáo tội lỗi của vua

và dân thành Ni-ni-ve, họ bày tỏ lòng ăn năn nên Đức Chúa Trời

dừng cơn đoán phạt. Nhưng sau đó họ trở lại  đường cũ, vẫn tội nào

tật nấy, làm điều cực ác, nghịch cùng Đức Chúa Trời, cho nên không

còn cơ hội thứ hai cho họ nữa.

Theo 3:8-19, Na-hum dự ngôn Ni-ni-ve sẽ bị hoangvu và dân sự

sẽ tản lạc như các nước hùng mạnh khác! Điều này đã xảy đến cho

Ni-ni-ve. Theo sử liệu (dấu vết, tài liệu lịch sử) mà Gadd tìm thấy ở

viện bảo tàng Anh Quốc, ghi rằng: Ni-ni-ve đãbị sụp đổ bởi sự

chinh phục của Cyaxares, vua Ba Tư sau ba tháng  bao vây và đế

quốc A-si-ry cáo chung (có dấu hiệu suy tàn)  khoảng năm 612 T.C.

không lâu sau lời dự ngôn của tiên tri Na-hum.

Sự sụp đổ của Ni-ni-ve cho chúng ta học đượcnhững điều sau:

(1) Đức Chúa Trời là Đấng Yêu Thương, nhưng cũng là Đấng

Công Nghĩa: Trong sự yêu thương, Ngài tha thứ  tội nhân, nhưng

trong sự công nghĩa, Ngài không dung chứa tộilỗi.

(2) Đừng coi thường sự đoán phạt của Chúa: Lời Ngài phán, Ngài

chắc sẽ làm cho ứng nghiệm chẳng sai.

(3) Đừng khinh lờn ân điển của Chúa: Đức Chúa Trời không bao

giờ đoán phạt ai mà không cho họ có cơ hội  ăn năn. Nhưng nếu

người coi thường ơn tha thứ của Chúa chắc sẽkhông còn có cơ hội

cho họ nữa. Như lời cảnh cáo của Kinh Thánh  rằng:  “Hay là ngươi

khinh dể sự dư dật của lòng nhân từ, nhịn nhục, khoan dung Ngài,

mà không nhận biết lòng nhân từ của Đức Chúa Trời đem ngươi

đến sự ăn năn sao? Bởi lòng ngươi cứng cỏi,không ăn năn, thì tự

chấp chứa cho mình sự giận về ngày thạnh nộ, khi sẽ hiện ra sự

phán xét công bình của Đức Chúa Trời”(Rô 2:4-5).

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. a. Na-hum cảnh cáo dân Ni-ni-ve thế nào? (1:1-2).

73

b. Qua lời cảnh cáo của Na-hum cho chúng ta học biết gì về

bản tính quyền năng của Đức Chúa Trời?

c. Na-hum đem lại cho dân Chúa sự an ủi nào? (1:12-2:2).

d. Sứ mạng của Na-hum có ý nghĩa gì cho Cơ Đốc nhân chúng

ta hôm nay?

2. a. Tình trạng đạo đức của dân Ni-ni-ve thếnào? (2:1; 3:1-5).

b. Xin tìm hiểu tại sao trước kia Đức Chúa Trời sai Giô-na rao

giảng cho dân Ni-ni-ve, còn bây giờ Ngài không tha thứ cho dân

nầy? (1:3). Điều nầy cho chúng ta học biết lẽ thật nào về ân điển và

sự đoán phạt của Đức Chúa Trời? (Rô 2:1-3;  2Phi 3:9-10; Hêb 6:4-6).

c. Theo dự ngôn của Na-hum, Ni-ni-ve chịu sự đoán phạt thế

nào? Lời tiên tri này có ứng nghiệm không?

3. Ghi nhận những lẽ thật quan trọng được bày tỏ trong sách Na-hum.

4. Nhìn lại chính mình xin cho biết:

a. Bạn đang sống trong sự tin kính Chúa hay khinh lờn ân điển

cứu rỗi của Ngài?

b. Bạn dùng lời Chúa cảnh cáo kẻ ác biết sự đoán xét công

bình của Chúa thế nào và giúp người bị ức hiếp được niềm hy vọng

trong sự giải cứu của Chúa thế nào?

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Lau Chùi Đồ Thủy Tinh.

Hãy pha vào nước lau chùi một ít giấm. Đồ thủy tinh sẽ sáng

bóng. Muốn chùi kỹ, trước khi rửa bằng nướclã pha giấm, bạn đổ

nước vào bình thủy tinh rồi cho vào vài miếng khoai tây sống hoặc

vỏ khoai tây. Ngâm trong vài giờ, vớt khoai tây và đổ nước ra.

 

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 22.03.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 22.03.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 22.03.2015.

1. Đề tài: SINH NHẬT QUÝ I.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 66.

3. Câu gốc:  “Hỡi hết thảy người kính sợ Đức Chúa Trời,  hãy đến

nghe, thì tôi sẽ thuật điều Ngài đã làm cho  linh hồn tôi”(Thi

66:16).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 118-120.

5. Thể loại: Ca ngợi – Cảm tạ.

* CHỈ DẪN: Sinh nhật (Ca ngợi & Cảm tạ).

1. Thông báo danh sách những người có ngày sinh trong quý I

(tháng 1,2,3) trước một tuần lễ; bổ sung những tên còn thiếu.

67

2. Thư ký trao danh sách cho thủ quỹ mua quà. Quà tặng sinh nhật

nên mua nhiều hơn số cần, phòng khi có khách, thân hữu… đến dự và

cũng có ngày sinh trong quý đó.

3. Những người không nhớ ngày sinh, có thể chọn ngày cưới, ngày

tin nhận Chúa, ngày chịu báp tem… để làm sinhnhật.

4. Chuẩn bị một chiếc bánh sinh nhật (nếu cóthể), kích thước

chiếc bánh tùy theo số người tham dự.

5. Mời những “người sinh nhật” lên phía trên,số người còn lại hát

chúc mừng. Tất cả “người sinh nhật” cùng cầm dao cắt bánh.

Mời người cầu nguyện đặc biệt cho họ.

6. Ban hướng dẫn tặng quà cho những “người sinh nhật”.

7. Mời một số “người sinh nhật” làm chứng, ca ngợi Chúa, chia sẻ

những kinh nghiệm thuộc linh… Khi làm chứng nên trình bày thành

thật, đừng thổi phồng.

8. Chơi trò chơi, đố vui và ăn bánh sinh nhật…

* TRÒ CHƠI DÀNH CHO NGƯỜI CÓ SINH NHẬT.

THẮP NẾN SINH NHẬT.

– Chuẩn bị: Dùng giấy bìa cứng làm một số cây nến, ghi lời yêu

cầu vui lên giấy, cuộn lại nhét vào cây nến, dùng băng keo dán cây

nến lên bảng (số nến tương đương với số “người sinh nhật”). Nếu

dùng nến thật thì cũng gắn lời yêu cầu vàorồi bạn đốt nến và sắp lên

bàn sao cho đẹp mắt.

Lời yêu cầu:  “Chúc bạn SN vui vẻ! Mời bạn uống một lượt  5 ly

nước”, “Mừng SN bạn! Bạn mời người hát tặngbạn một bài”…

– Cách chơi: Mời từng “người sinh nhật” lên và chọn một cây nến,

tìm xem cây nến có chứa điều gì bí ẩn, đọc lớn điều đó và thực hiện.

* TRÒ CHƠI TẬP THỂ.

TÌM CHIÊN LẠC.

68

– Cách chơi: Chọn 3 người vào trong vòng tròn(bịt mắt), một người

làm người chăn, một người làm chiên và mộtngười làm sói. Nghe

lệnh còi, người chăn đi tìm chiên, chạm vào được chiên là thắng cuộc,

đụng phải sói là bị loại.

* Lưu ý: Chiên (be be), sói (gừ gừ…ư ư ư) cả  hai phải đi bằng

“bốn chân”, thỉnh thoảng kêu lên cho người chăn nhận biết.

HỨNG BANH.

– Cách chơi: NHD đứng giữa vòng tròn cho đếm  số thứ tự 1,2,3…

Yêu cầu mỗi người nhớ số của mình. NHD cầm  một trái banh (hoặc

chiếc khăn cột lại). Tung trái banh hoặc khăn lên đồng thời gọi một

số. Đúng số mình được gọi phải chạy ra hứngbanh (có thể gọi một

lượt hai ba số), ai không hứng được sẽ bị loại. Người hứng được banh

thay NHD tiếp tục điều hành cuộc chơi.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

THANG.

Bắt thang để leo, bạn đừng sợ thang trượt vàphải nhờ giữ chân

thang. Từ nay bạn chỉ cần đóng vào chân thangmột miếng cao su

ruột xe đạp, chân thang sẽ không bao giờ trượt nữa. Nếu thang sắt,

thang nhôm thì bạn buột miếng cao su xung quanhchân thang.

 

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 15.03.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 15.03.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 15.03.2015.

1. Đề tài: MI-CHÊ – NGƯỜI RAO BÁO VUA HÒA BÌNH SẮP ĐẾN.

2. Kinh Thánh:Mi-chê 4:1-5; 7:7-20.

3. Câu gốc:  “Ấy chính Ngài sẽ làm sự bình an của chúng ta”(Mi-chê 5:4a).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 115 – 117.

5. Thể loại: Thuyết trình.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

I. GIỚI THIỆU.

Tên Mi-chê có nghĩa “ai giống như Giê-hô-va”.Mi-chê là người

sống đồng thời với tiên tri Ê-sai, quê ở Mô-rê-sết, một làng nhỏ

cách Giê-ru-sa-lem chừng hai mươi dặm về phía  Nam. Ông được

Chúa kêu gọi làm tiên tri khoảng năm 740-690T.C. trải qua các triều

vua: Giô-tham, A-cha, Ê-xê-chia, vua Giu-đa.

Trong thời Mi-chê, thế lực của A-sy-ri đang đedọa Y-sơ-ra-ên.

Mi-chê đem Lời Chúa cảnh cáo tội lỗi của Y-sơ-ra-ên, đặc biệt nhấn

mạnh về sự công bằng xã hội. Các sứ điệp của Mi-chê gồm có hai

phần quan trọng: (1) Dự ngôn về sự sụp đổ của vương quốc Y-sơ-ra-ên và sự lưu đày của dân Giu-đa. (2) Dự ngôn về nước hầu đến của

Đấng Mê-si. Nhưng điểm nổi bật trong sứ điệpcủa Mi-chê là rao

báo hai lần hiện đến của Đấng Mê-si, bày tỏ Ngài là Cứu Chúa, là

Vua của muôn vua và kêu gọi sự ăn năn. Sứ điệp này có ý nghĩa gì

đối với Cơ Đốc nhân hôm nay?

II. DẪN GIẢI.

1. Sự Bại Hoại Của Y-sơ-ra-ên Và Lời Cảnh Cáo Của Mi-chê.

Trong thời Mi-chê, tình trạng đạo đức trong dân Y-sơ-ra-ên vô

cùng bại hoại, nhất là trong giới lãnh đạo  dân sự (chính quyền) và

62

tôn giáo (giáo quyền). Sự bại hoại được bày tỏ trong những điểm

sau:

(1) Tham của: Tham lam đến độ cướp bóc trắng  trợn của dân

lành:  “Chúng nó tham đất ruộng và cướp đi, tham nhà cửa và lấy

đi. Chúng nó ức hiếp người ta và nhà họ, tức là người và sản

nghiệp họ nữa”(2:2). Chẳng những cướp bóc mà đuổi đi để chiếm

đoạt:  “Các ngươi đuổi những đàn bà của dân ta khỏi nhà vui vẻ

chúng nó; và cất sự vinh hiển ta khỏi con trẻ nó đời đời”(2:9). Họ

đã xúc phạm điều răn thứ mười của Chúa:  “Ngươi chớ tham nhà kẻ

lân cận ngươi, cũng đừng tham vợ người, hoặctôi trai tớ gái, bò,

lừa, hay là vật chi thuộc về kẻ lân cận ngươi”(Xuất 20:17).

(2) Bóc lột dân chúng đến tận xương:  “Vả, các ngươi ghét điều

lành, ưa điều dữ; lột da của những kẻ nầy và róc thịt trên xương

chúng nó. Các ngươi ăn thịt của dân ta, lột lấy da và bẻ gãy xương,

xé ra từng mảnh như sắm cho nồi, như là thịt ở trong chảo”(3:2-3).

(3) Tham nhũng:  “Các quan trưởng xét đoán vì của hối lộ, các

thầy tế lễ dạy dỗ vì tiền công, còn các kẻ tiên tri nói tiên tri vì bạc”

(3:11). Vì Đức Chúa Trời đã quở trách họ:  “Hỡi các trưởng lão của

nhà Gia-cốp, và các ngươi là kẻ cai trị nhà  Y-sơ-ra-ên, hãy nghe

điều nầy, các ngươi gớm sự chánh trực, và làm bại hoại sự bằng

phẳng. Các ngươi lấy huyết xây thành Si-ôn, và lấy sự gian ác xây

thành Giê-ru-sa-lem”(3:9-10).

(4) Cường bạo và gian dối: “Vì những kẻ giàu của thành này đầy

sự cường bạo, dân cư nó dùng sự nói dối, và trong miệng chúng

nó có lưỡi hay phỉnh phờ”(6:12).

Những điểm ghi nhận trên cho chúng ta thấy một xã hội vô cùng

bất công, bất nghĩa, một xã hội xây dựng trên xương máu của dân

lành, nhân dân là nạn nhân của kẻ cường bạo. Một xã hội mà kẻ cai

trị lạm quyền hành để ức hiếp dân chúng, giày đạp sự công bình và

chánh trực của Chúa! Cho nên Mi-chê rao sự đoán phạt sẽ đến. Họ

sẽ bị Đức Chúa Trời đánh phạt, sẽ bị sỉ nhục và hoang vu: “Vậy nên

63

ta đánh ngươi, làm cho ngươi bị thương nặng, vàkhiến ngươi hoang

vu vì cớ tội lỗi ngươi”(6:13). Lời cảnh cáo này chúng ta học biết

rằng người xúc phạm đến sự công nghĩa của Chúa, chắc sẽ gặt lấy

hậu quả đau đớn cho mình. Điều này cảnh tỉnh  chúng ta mỗi ngày

hãy tiến đến nếp sống đạo như Chúa đòi hỏi: “Hỡi người! Ngài đã tỏ

cho ngươi điều gì là thiện; cái điều mà Đức Giê-hô-va đòi ngươi, há

chẳng phải là làm sự công bình, ưa sự nhân  từ và bước đi cách

khiêm nhường với Đức Chúa Trời ngươi sao?” (6:8).

2. Dự Ngôn Về Đấng Mê-si.

Trong các dự ngôn về Đấng Mê-si, Mi-chê loanbáo về hai sự

hiện đến của Ngài (4,5):

(a) Lần hiện đến thứ nhất.Trong 5:1-2, Mi-chê nói đến nơi Ngài

giáng sinh: Bết-lê-hem (Mat 2:1-6); danh hiệu của Ngài: Đấng cai trị

Y-sơ-ra-ên (Giăng 10:11); thần tánh Ngài: Đấng vốn có từ trước đời

đời (Giăng 1:1); nhân tánh Ngài: Được sinh rabởi người nữ thuộc

dòng vua Đa-vít (Mat 1:18-23). Các lời tiên trinày đã được ứng

nghiệm trọn vẹn trong sự giáng sinh của Đức  Chúa Giê-xu Christ

cách đây trên hai ngàn năm.

(b) Lần hiện đến thứ hai:Sự đến lần thứ nhất của Đấng Mê-si để

làm nên sự cứu rỗi. Nhưng sự đến lần thứ hai của Ngài để làm Vua,

đem lại sự bình an cho dân Y-sơ-ra-ên và khắpđất:  “Ngài sẽ đứng

vững, và sẽ cậy sức mạnh của Đức Giê-hô-va với oai vọng của

danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình mà chăn bầy của mình; và

chúng nó sẽ ở yên, vì nay Ngài sẽ làm lớn  cho đến các đầu cùng

đất. Ấy chính Ngài sẽ làm sự bình an của chúng ta” (5:3-4).

Trong nước Đấng Mê-si và sự cai trị của Ngàicó hai đặc điểm:

(1) Hòa bình:  “Ngài sẽ làm ra sự phán xét giữa nhiều dân… và

họ sẽ lấy gươm rèn lưỡi cày, lấy giáo rèn lưỡi liềm; nước nầy chẳng

giá gươm lên nghịch cùng nước khác, và cũng  không tập sự chiến

tranh nữa”(4:3).

64

(2) Công nghĩa:  “Ngài sẽ dạy chúng ta về đường lối Ngài, và

chúng ta sẽ đi trong các nẻo Ngài. Vì luật pháp sẽ ra từ Si-ôn, lời

Đức Giê-hô-va ra từ Giê-ru-sa-lem”(4:2).

Hai đặc điểm trên đã mô tả trọn vẹn nước hoà bình lý tưởng nhất

của thế giới loài người đang khát khao và mong đợi.

3. Niềm Tin Và Sứ Mạng.

Mặc dầu biết rõ dân Y-sơ-ra-ên sẽ bị Chúa đánh phạt và bị sỉ

nhục giữa các nước, nhưng qua các dự ngôn về sự hiện đến của

Đấng Mê-si, Mi-chê hiểu được chương trình cứurỗi của Đức Chúa

Trời cho Y-sơ-ra-ên cũng như sự đoán xét công bình của Ngài trên

các nước thế gian. Mi-chê lòng đầy lạc quan với niềm tin vững chắc

nơi Đức Chúa Trời, vì nhận biết:

(1) Ngài là Đấng Cứu Rỗi:  “Nhưng ta, ta sẽ nhìn xem Đức Giê-hô-va, chờ đợi Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi ta; Đức Chúa Trời ta

sẽ nghe ta. Hỡi kẻ thù ta chớ vui mừng vì cớta. Ta dầu bị ngã, sẽ

lại dậy; dầu ngồi trong nơi tối tăm, Đức Giê-hô-va sẽ làm sự sáng

cho ta”(7:7-8).

(2) Ngài là Đấng yêu thương:  “Ai là Đức Chúa Trời giống như

Ngài, tha thứ sự gian ác, và bỏ qua sự phạmpháp của dân sót của

sản nghiệp Ngài? Ngài không cưu giận đời đời, vì Ngài lấy sự nhân

từ làm vui thích. Ngài sẽ còn thương xót chúng tôi, dập sự gian ác

chúng tôi dưới chân Ngài, và ném hết thảy  tội lỗi chúng nó xuống

đáy biển. Ngài sẽ làm ra sự chân thật cho Gia-cốp, và sự nhân từ

cho Áp-ra-ham, là điều Ngài đã thề hứa cùngtổ phụ chúng tôi từ

những ngày xưa” (7:18-20).

Với niềm tin này, Mi-chê đã đem đến cho dân  Chúa sự an ủi và

hy vọng về sự giải cứu của Ngài trong lúc bị sửa phạt. Ông kêu gọi

họ hãy tìm cầu Chúa để được ơn tha thứ của Ngài.

Qua niềm tin của Mi-chê chúng ta ghi nhận 3 điều:

– Đức Chúa Trời phải là đối tượng của niềmtin chúng ta.

65

– Có đức tin, nhưng cũng cần có lòng bền đỗchờ đợi Chúa trả lời.

– Người có niềm tin trọn vẹn nơi Chúa chắc không thiếu sự vui

mừng và hy vọng trong sự cứu rỗi của Ngài.

Tóm lại, Mi-chê loan báo ba sứ điệp quan trọng: Sự đoán phạt Y-sơ-ra-ên là chắc chắn, nước của vua Hòa bìnhsắp đến và kêu gọi

dân sự lòng trông đợi sự giải cứu của Chúa. Sứ mạng của Mi-chê đã

đem sự cảnh cáo dân Chúa, nhưng cũng đem lạiniềm hy vọng cứu

rỗi cho dân Ngài. Chúng ta đang ở trong thời  đại tội lỗi càng gia

tăng, đầy dẫy gian ác và bất công chẳng khác chi trong thời Mi-chê

và mọi người đang sống trong đau khổ, tuyệt vọng. Ngoài Đấng

Christ, không ai có thể đem cho loài người hoà bình thực sự và công

bằng xã hội. Cho nên sự đem ơn cứu rỗi của Chúa Giê-xu cho người

trong tội lỗi không có hy vọng và rao báo sự trở lại của Vua Hòa

bình là sứ mạng của mỗi Cơ Đốc nhân chúng ta hôm nay (Công 1:8-11; 2Tim 4:1-5).

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Xin đọc 2:1-2; 3:1-12; 6:9-12, tìm hiểu tình trạng đạo đức của

Y-sơ-ra-ên trong thời Mi-chê.

2. Mi-chê cảnh cáo gì khi dân sự ở trong sự bại hoại? (6:9-16).

3. Trong lời rao báo về sự đoán phạt của Chúa, Mi-chê đã có dự

ngôn gì về sự hiện diện của Đấng Mê-si? (4:1-3; 5:1-8).

4. a. Qua sự bày tỏ các sứ điệp, Mi-chê nhận biết Đức Chúa Trời

là ai? Ông có lòng tin cậy nơi Ngài thế nào? (7:7-8,18-20).

b. Với lòng tin quyết của Mi-chê, ông đã đemđên cho dân

Chúa niềm an ủi và hy vọng gì? (7:14-19).

5. Ghi nhận những điểm quan trọng trong sứ điệp Mi-chê. Sứ

mạng của Mi-chê khuyến khích Cơ đốc nhân hômnay trong sứ

mạng nào? (Công Vụ 1:8; 2Ti-mô-thê 4:1-5).

6. Nhìn lại chính mình, xin cho biết:

66

a. Bạn có nói cho người khác biết về Chúa,  để họ tin nhận

Ngài không?

b. Bạn có đang trông mong sự trở lại của Chúa Giê-xu không?

c. Với người trong tội lỗi, bạn sẽ rao báo tin tức gì?

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Tẩy Các Vết Bẩn Trong Nhà Bếp.

Các vết bẩn trong nhà bếp là sự kết hợp của sức nóng, dầu mỡ,

khói và bụi. Nếu không biết cách rất khó tẩy sạch. Xin mách bạn

cách sau đây:

+ Lau bằng nước xà phòng gạch men.

+ Nhúng bông hoặc giẻ mềm vào cồn 90 độ chùi các mặt kim

loại có sơn của tủ lạnh, tủ đựng thức ăn, lò nấu, lò nướng, lò vi ba.

+ Ngâm vào giấm những dụng cụ nhà bếp khácbị vết cháy khét

như dao, vĩ nướng…

 

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 08.03.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 08.03.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 08.03.2015.

1. Đề tài: CHÚA NHẬT PHỤ NỮ TIN LÀNH.

2. Kinh Thánh: 1Giăng 3:11-18.

3. Câu gốc: “Hỡi các con cái bé mọn, chớ yêu mến bằng lời nói và

lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật”(1Giăng 3:18).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 112-114.

5. Thể loại: Thi nấu ăn.

* CHỈ DẪN: Thi Nấu Ăn.

58

1. Mục Đích:Tạo điều kiện cho nam thanh niên có cơ hội giúp

đỡ các bạn nữ trong ngày Phụ nữ Tin lành qua các sinh hoạt cộng

đồng, thêm khả năng tổ chức, thông công vuivẻ trong Chúa.

2. Ban Hướng Dẫn Chuẩn Bị.

a. Mời người trong ban chấp sự Hội Thánh làmgiám khảo.

b. Thông báo thể lệ thi cho các bạn nam trongcác nhóm. Yêu

cầu họ chuẩn bị các vật dụng nấu ăn (bếp củi, nồi, dao, thớt…) và

vật dụng ăn uống (tô, chén, dĩa, đũa…) cho nhóm của mình.

c. Chuẩn bị nhiều phần thức ăn bằng nhau (gạo, thịt, cá, rau

cải, bột ngọt, dầu…), thức ăn tương ứng với số nhóm của ban phụ

nữ.

3. Thi Nấu Ăn.

a. Một người chia sẻ ngắn (10 phút) về ý nghĩa của phân đoạn

Kinh Thánh làm nền và câu gốc.

b. Trưởng ban thông báo thể lệ cuộc thi.

– Các nhóm tập trung hàng dọc trước ban hướng dẫn và sẽ

được phân phát thức ăn giống nhau.

– Sau hiệu lệnh, các nhóm sẽ nấu ăn trong vòng 30 phút (cơm

và 2-3 món ăn) và dọn ra trên dĩa hoặc tô.

– Ban giám khảo chấm điểm:

_Tổ chức qui củ: 10 điểm.

_Sạch sẽ và ngăn nắp: 10 điểm.

_Tinh thần làm việc hăng say, vui vẻ và đoànkết: 10 điểm.

_Thức ăn ngon, mỗi món (cả cơm): 10 điểm.

_Bày biện thức ăn đẹp: 10 điểm.

c. Phát thưởng và thông công.

– Tuyên bố điểm và phát thưởng.

– Dọn và ăn chung với nhau.

59

4. Chỉ Dẫn Nấu Ăn.

Sau đó, những người nấu ăn ngon sẽ lần lượtchỉ dẫn các bạn

khác cách nấu ăn, để nam thanh niên trở thành những người biết

giúp đỡ, chia sẻ việc gia đình.

* MÓN ĂN THAM KHẢO.

KHỔ QUA TRỘN DẦU GIẤM.

– Vật liệu:500gr khổ qua, 50gr dầu ăn, 100gr tôm tươi, 100gr

thịt heo, muối, tiêu, bột ngọt, giấm, ngò.

– Cách làm:Khổ qua bào dọc trái, bỏ ruột, chần nước sôi 10 phút

vắt ráo. Tôm lột vỏ, bỏ đầu và chỉ đen trên lưng. Thịt xắt mỏng. Cho

tôm thịt vào chảo với một chút dầu xào chín, nêm tiêu, bột ngọt.

Dầu, giấm, muối, tiêu, bột ngọt quậy đều, rưới lên khổ qua đã trộn

tôm thịt xào, nêm vừa ăn dọn ra đĩa. Rải ngò lên.

THỊT HEO KHO TÀU.

1. Nguyên liệu:Thịt heo đùi hoặc ba rọi: 400gr; dừa tươi: 1 trái;

chanh: ¼ trái; phèn chua, nước mắm, bột ngọt,hành, tỏi, ớt: một ít.

Có thể kho chung với hột vịt, gà.

Ăn kèm dưa chua, dưa leo, chuối chát hoặc rau luộc, rau sống…

2. Chuẩn bị.

– Thịt thái 2×2 cm ướp ít phèn chua để độ 5 phút; rửa lại nước

lạnh để ráo nước.

– Đun sôi soong nước lạnh, cho thịt vào trụng  cho săn, rửa lại

nước lạnh, để ráo nước.

– Hành, tỏi, ớt bỏ hột quết nhuyễn.

3. Thực hiện.

–  Thịt ướp hành, tỏi, ớt, một ít nước chanh, trộn đều để thấm 10

phút.

60

– Đun sôi soong nước dừa, cho thịt vào; lửa riu riu đến khi thịt

chín mềm, nước mắm vào, đun lửa riu riu thêm 20 phút.

– Hột vịt luộc bóc vỏ. Nếu hột vịt luộc bỏ  vỏ nên kho trước với

nước mắm + một ít màu gạch tôm cho thấm. Sauđó mới cho trứng

vào soong thịt kho thêm 10-15 phút.

CANH RAU, CỦ NẤU VỚI TÔM.

1. Nguyên liệu.

– Tôm, hoặc tép bạc: 150gr.

– Đường, muối, bột ngọt, hành lá, ngò rí, tiêu xay, tỏi hay hành

phi, một ít gừng thái nhỏ.

– Một trong các loại rau cải để nấu canh là:Bầu, bí, mướp, các

loại cải, măng tươi, bông bí, bông hẹ, bông cải, trái su, củ cải đỏ và

trắng, rau dền, bù ngót…

2. Chuẩn bị.

– Tôm: lột vỏ chừa đuôi, đập dập (không nát con tôm). Nếu tép:

quết nhuyễn, cho muối, hành, tiêu, bột ngọt vào cùng.

– Hành lá và ngò rí thái nhỏ.

– Các loại cải sơ chế sạch, bù ngót rửa sạch sau đó phải nhồi,

bóp hoặc xắt nhỏ.

3. Thực hiện.

– Đun sôi soong nước, cho tôm hoặc tép vào, hớt bọt, cho các gia

vị và rau cải vào, hành, ngò, tiêu. Nêm nếmvừa ăn.

– Nước chấm: Nước mắm chanh ớt hoặc nước tương.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Tẩy Vết Ố Trên Thiết Bị Vệ Sinh.

Nếu nhỡ chưa kịp mua bột tẩy bàn cầu, bạn hãy rắc ít muối lên

vết vàng và lấy giấm đun nóng tưới lên và chà kỹ.

 

 

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 01.03.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 01.03.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 01.03.2015.

1. Đề tài: GIÔ-NA – NGƯỜI BÀY TỎ ÂN ĐIỂN CHÚA ĐỐI VỚI TỘI

NHÂN.

2. Kinh Thánh: Giô-na 1-4; 2Phi-e-rơ 3:9-10.

3. Câu gốc: “Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn

cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn

năn”(2Phi 3:9b).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 109 – 111.

5. Thể loại:Phỏng vấn.

* CHỈ DẪN: Phỏng vấn.

1. Chọn một người đóng vai Giô-na, một ngườilàm phóng viên.

2. Dựa trên tài liệu tham khảo và phần Kinh  Thánh làm nền để

soạn ra nhiều câu hỏi và câu trả lời cho các diễn viên học thuộc. Các

câu hỏi và trả lời đều ngắn gọn nhưng đầy  đủ ý nghĩa, đồng thời

phải gây hứng thú cho người nghe để họ dễ nhớ nội dung của buổi

học Kinh Thánh.

3. Trong phần đúc kết, NHD sẽ tóm tắt nội dung bài học và đưa

ra lời khuyên ban viên áp dụng sự dạy dỗ của lời Chúa vào đời sống

mỗi ngày. Sau đó, tất cả đứng lên và mời “Giô-na” thay mặt các bạn

cầu nguyện.

* GỢI Ý PHỎNG VẤN.

48

(Sau khi người hướng dẫn giới thiệu thể loạichương trình thờ

phượng, phóng viên từ dưới đi lên và Giô-natừ ngoài đi vào).

– Phóng viên: Dạ xin kính chào cụ Giô-na!

– Giô-na: Chào các cháu.

– PV:  Chúng cháu rất vui vì được cụ đến thăm hôm  nay. Thay

cho tất cả các chị em trong Hội Thánh, cháu xin có lời chào mừng

và hoan nghênh cụ. Nhân buổi gặp gỡ nầy, cụ có thể giúp chúng

cháu tìm hiểu về cuộc đời và sứ mạng truyền giáo hải ngoại, được

không thưa cụ?

– Giô-na: Vâng, ta sẵn sàng, các cháu cứ hỏi!

– PV:  Trước tiên, xin cụ cho chúng cháu biết về quê hương và

thời điểm bước vào chức vụ tiên tri của cụ?

– Giô-na: Ta là con trai của A-mi-ta, quê ở Gát-hê-phe, thuộc đất

Sa-bu-lôn, cách Na-xa-rét vài dặm về phía bắc. Thời điểm ta bắt đầu

chức vụ tiên tri từ năm 780-750 T.C. dưới triều vua Giê-rô-bô-am 2.

– PV:  Vào thời điểm đó, Ni-ni-ve (A-sy-ri) là kẻ thù số một của

Y-sơ-ra-ên thế mà tại sao Đức Chúa Trời lạisai cụ đến Ni-ni-ve để

rao sự ăn năn cho họ?

– Giô-na: Chính vì vậy nên ta đã làm theo ý riêng, không vâng lời

Đức Chúa Trời, không đi Ni-ni-ve mà đi Ta-rê-si đó các cháu.

– PV:  Đức Chúa Trời có bằng lòng để cho cụ làm theo ý riêng

không, thưa cụ?

– Giô-na: Không đâu các cháu, Ngài can thiệpvà cản trở đường ta

đi đến nỗi ta không thể nào trốn tránh đi Ni-ni-ve được mà phải

hoàn toàn đầu phục ý muốn Ngài.

– PV: Cụ có thể trình bày rõ hơn cho chúng cháu biết với!

– Giô-na: Khi tàu đang vượt đại dương để đến  Ta-rê-si. Ta đang

ngủ, nhưng khi bị đánh thức cảnh tượng và sựhoảng loạn của các

thủ thủy làm cho ta thật hoảng sợ, vì nó thật khủng khiếp. Gió rất

49

mạnh, lùa những đám mây đen nghịt bao phủ cảbầu trời. Sấm sét

cùng với tiếng gầm thét của biển cả ập đến như vũ bão, mưa tuôn

xối xả, từng đợt sóng cao liên tục ập lên boong tàu, làm con thuyền

chao đảo giữa đại dương mênh mông. Bão ngày  càng lớn làm con

tàu dường như càng yếu ớt và nhỏ bé hơn. Những đợt sóng lớn như

bàn tay khổng lồ muốn nhận chìm con tàu nhỏ  bé, còn những cơn

xoáy như muốn hả toác miệng rộng lớn để nuốt chửng con tàu yếu

ớt. Tánh mạng mọi người bị đe dọa! Ta biết Đức Chúa Trời dùng cơn

bão ngăn cản ta, nên đã tự thú tội và chấp nhận làm người bị quăng

xuống biển để những bạn đồng hành không vì mình bị họa lây.

– PV: Cụ thật là can đảm, sẵn sàng hy sinh tính mạng để người

khác được an toàn. Trong giây phút ấy cụ nghĩ gì?

– Giô-na: Ta nghĩ thà chịu chết dưới biển cònhơn là đi đến Ni-ni-ve để rao sự ăn năn cho dân thành gian ác, tội lỗi ấy. Nếu họ nghe

và ăn năn thì Chúa sẽ thương xót không hủy diệt họ. Vì theo sự biết

trước của ta, Ni-ni-ve (A-sy-ri) sẽ xâm lược Y-sơ-ra-ên trong nay mai.

– PV: Cháu thật khâm phục tinh thần ái quốc (yêu nước) của cụ.

Vậy thì sau khi bị quăng xuống biển, việc gì xảy đến cho cụ?

– Giô-na: Đức Chúa Trời là Đấng luôn gìn giữ, chăm sóc con cái

Ngài. Ngài sắm sẵn con cá lớn nuốt ta. Ở trong bụng cá ta cầu xin

Ngài giải cứu và được nhậm lời. Sau ba ngàyba đêm ở trong bụng

cá, Đức Chúa Trời bèn khiến con cá nhả ta ở một nơi khô cạn.

– PV:  Kỳ diệu thật vì cụ còn sống sau ba ngày đêmở trong

bụng cá. Vậy cụ đi đâu sau đó?

– Giô-na: Ta không còn dám chống lại ý muốnvà kế hoạch của

Chúa, thuận phục ý Chúa đến Ni-ni-ve rao giảng cho dân thành như

Lời Ngài đã phán dặn.

– PV: Sau khi cụ rao giảng thì việc gì đã xảy ra thưa cụ?

50

– Giô-na: Đúng như điều ta dự đoán, từ vua đến dân, cả thành

đều ăn năn. Vì sự ăn ăn của họ Đức Chúa Trời tha thứ không đoán

phạt Ni-ni-ve như lời ta đã rao ra.

– PV: Là người đi rao sự ăn năn, lẽ ra cụ vui mừng về thành quả

đạt được, nhưng hình như cháu thấy cụ chẳng vui khi nhìn thấy kết

quả của công việc mình làm?

– Giô-na: Như các cháu biết, ta đi Ni-ni-ve vì  lòng kính sợ, thuận

phục ý Chúa chớ không phải vì yêu thương dân Ni-ni-ve. Chính vì

vậy, dầu rao sự ăn năn nhưng ta lại mong họ bị Chúa trừng phạt để

không còn cơ hội xâm chiếm Y-sơ-ra-ên, nên khi thấy Chúa không

trừng phạt Ni-ni-ve, ta giận dữ và đòi chết.

– PV: Sau đó, Chúa đã làm gì để dạy dỗ cụ?

– Giô-na: Lúc ấy, ta làm một cái chòi ngồi đợi việc xảy ra cho Ni-ni-ve. Chúa sắm sẵn một dây dưa phủ bóng mát cho ta. Nhưng hôm

sau, Chúa lại sắm sẵn con sâu cắn dây dưa làm nó héo đi. Bị nắng

nóng, ta lại tiếp tục phàn nàn và lúc này  Chúa dạy ta một bài học

vô cùng giá trị mà ta không thể nào quên.

– PV: Đó là bài học gì, cụ có thể kể cho chúng cháu nghe được

không ạ.

– Giô-na: Bây giờ nhắc lại ta thấy tự hổ thẹn với chính mình: Với

lời cầu chết vì lòng yêu nước, với cơn giậnvì cớ con sâu nhỏ cắn héo

dây dưa không che bóng mát cho mình, Chúa chỉ cho ta biết ta thật

ích kỷ và hẹp hòi!

– PV: Cụ có thể cho chúng cháu hiểu rõ hơn về sựích kỷ và hẹp

hòi không?

– Giô-na: Ta luyến tiếc dây dưa nhưng không thương tiếc hàng

vạn linh hồn ở Ni-ni-ve đang hư mất, còn Đức  Chúa Trời thì yêu

thương họ. Lòng ái quốc của ta là đáng trọng nhưng ta phải đặt lòng

ái quốc theo đường lối Chúa và vâng phục ýchỉ Ngài thì mới trở nên

hữu ích.

51

– PV:  Là tiên tri của Đức Chúa Trời nhưng hình như  lúc ấy cụ

chưa hiểu được ý muốn Chúa và chưa thuận phục Chúa trọn vẹn?

– Giô-na: Đúng vậy, vì lúc ấy ta không thấy được chương trình cứu

rỗi của Đức Chúa Trời cho cả thế giới và tình yêu thương của Ngài

đối với mọi người, cùng sự ấn định thì giờ đoán xét của Ngài cho cả

thế gian. Cách nghĩ và cách làm của ta khôngthể cứu vãn quốc gia

Y-sơ-ra-ên khỏi tay A-sy-ri được.

– PV: Cám ơn cụ đã cho chúng cháu biết về sứ mạng rao sự ăn

năn cho Ni-ni-ve. Qua sứ mạng nầy chúng cháu  nhận biết rằng

người hầu việc Chúa phải dẹp bỏ những ích kỷ cá nhân, phải đi

theo đường lối Chúa và thuận phục ý chỉ Ngài.

– NHD: Thưa các chị em! Chúng ta vừa nghe cụ Giô-na trình bày

về cuộc đời làm tiên tri và sứ mạng rao sựăn năn cho dân thành

Ni-ni-ve. Xin Chúa giúp mỗi chị em chúng ta nhận biết điều nầy:

“Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn cho một

người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn”(2Phi-e

3:9).

Mời chị em đứng lên và mời cụ Giô-na cầu nguyện cho ban phụ

nữ chúng tôi.

I. GIỚI THIỆU.

Tên Giô-na có nghĩa là “chim bồ câu”. Ông là con trai của A-mi-ta, quê ở Gát-hê-phe, thuộc đất Sa-bu-lôn, cách Na-xa-rét vài dặm

về phía Bắc. Giô-na bắt đầu chức vụ tiên tri từ năm 780-750 T.C.

dưới triều vua Giê-rô-bô-am 2.

Trong thời Giô-na, Ni-ni-ve là thủ đô của A-sy-ri, một nước hùng

mạnh đang đe dọa vương quốc Y-sơ-ra-ên. Dân thành Ni-ni-ve thờ

thần Nê-bô và làm điều gian ác đến nỗi sắp bị hủy diệt. Lúc ấy

nhằm thời trị vì của vua Assurdan 2 (771-754 T.C). Đức Chúa Trời

sai Giô-na đem Lời Ngài đến cảnh cáo tội lỗi dân thành Ni-ni-ve.

52

Nhưng Giô-na đáp tàu đi Ta-rê-si đặng lánh mặt Đức Giê-hô-va.

Trên đường vượt biển, có cơn bão lớn nổi lên đe dọa tánh mạng mọi

người trong tàu. Biết rõ nguyên nhân của bão tố và để những bạn

đồng hành không vì mình bị họa lây, Giô-na tự thú tội và chấp nhận

làm người bị quăng xuống biển. Bấy giờ, ĐứcChúa Trời sắm sẵn con

cá lớn nuốt Giô-na. Ở trong bụng cá ba ngàyba đêm, Giô-na cầu

nguyện xin Đức Chúa Trời giải cứu và được Ngài nhậm lời. Theo lịnh

truyền của Chúa, con cá bèn nhả Giô-na ở một nơi khô cạn. Từ đó

Giô-na đến Ni-ni-ve rao giảng cho dân thành như lời Chúa đã phán.

Câu chuyện Giô-na là một ký sự có tính chất lịch sử nhưng hàm

chứa những đặc thù về ý nghĩa thuộc linh vàluân lý và siêu nhiên

mà ít thấy có ở các sách tiểu tiên tri khác. Sứ mạng của Giô-na là

đem lời Chúa cho dân thành Ni-ni-ve. Đây là một thách thức cho Cơ

đốc nhân chúng ta trong vấn đề: Làm thế nàocó thể rao giảng ơn

tha thứ của Đức Chúa Trời cho kẻ thù nghịch mình?

II. DẪN GIẢI.

A. ÂN ĐIỂN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI.

Qua sách Giô-na, chúng ta có thể nhìn thấy một bức ảnh thật linh

động và sáng chói về ân điển của Đức ChúaTrời trong thời đại luật

pháp, được bày tỏ qua những việc làm kỳ diệu của Ngài như đối với

Giô-na, người đầy tớ trốn tránh sứ mạng vàđối với dân thành Ni-ni-ve bại hoại trong tội lỗi.

1. Đối Với Giô-na.

(1) Ngài dùng bão tố ngăn trở, tỉnh thức Giô-na khi ông chạy trốn

Ngài qua Ta-rê-si thay vì đi Ni-ni-ve (1:3-7).

(2) Ngài sắm sẵn con cá lớn nuốt Giô-na trong bụng để Giô-na

được an toàn tính mạng khi bị quăng xuống biển sâu.

(3) Ngài nghe và đáp lời cầu nguyện của Giô-na khi Giô-na ở

trong bụng cá (2:3-11).

53

(4) Ngài ban cho Giô-na cơ hội thứ hai khi Giô-na mất cơ hội thứ

nhất đi rao giảng cho dân thành Ni-ni-ve (3:1).

(5) Ngài sắm sẵn dây dưa làm bóng mát che Giô-na, cũng như

con sâu để tỉnh thức Giô-na khi ông ngã lòngcầu chết (4:2-23,6).

2. Đối Với Dân Thành Ni-ni-ve.

(1) Ngài sai Giô-na đến giảng khi họ sắp bị đoán phạt (1:1).

(2) Ngài cho họ cơ hội để ăn năn (3:4).

(3) Ngài đổi ý tai vạ khi thấy họ xây bỏ điều ác (3:10).

Sự ghi nhận trên cho chúng ta nhận thấy trongsự công nghĩa,

Đức Chúa Trời dùng quyền năng lớn hủy diệtkẻ ác. Nhưng trong sự

yêu thương và ân điển, Ngài dùng quyền năngcả thể để giải cứu tội

nhân. Cũng như trong sự sửa dạy, hướng dẫn dân sự, Ngài đã dùng

những sự vật trong cõi thiên nhiên như: sức  mạnh của cơn bão, sự

khổng lồ của con cá, sự mỏng manh của dây dưa để cảnh cáo, dạy

dỗ, bắt phục người đầy tớ sa ngã trở lại trong sứ mạng Chúa gọi.

Thật quyền năng Chúa lớn biết bao! Mỗi tạo  vật đều được Chúa sử

dụng cho mục đích của Ngài. Khác với sự đoán phạt, trong ân điển

của Chúa không có sự định tội, nhưng có sự  kêu gọi ăn năn; không

có sự tiêu diệt, nhưng có sự ban ơn cứu sống; không có cùng đường,

nhưng có lối thoát; không có sự xô ngã, nhưng có sự nâng lên.

Diệu kỳ thay ân điển Chúa!

3. Bài học cho Giô-na.

a. Trong bụng cá, Giô-na học biết:

(1) Đức Chúa Trời là Đấng vô sở bất tại, Ngài có ở khắp nơi, Giô-na không thể nào trốn khỏi Chúa và trong lòng biển sâu Chúa cũng ở

cùng Giô-na. Vì thế Giô-na tin rằng lời cầu  nguyện của ông chắc

được Ngài nghe (2:3).

(2) Đức Chúa Trời là Đấng ban ân điển, dầu  trong hoạn nạn lớn

“Ngài đã quăng tôi trong vực sâu, nơi đáy biển”(2:4). Dầu Giô-na

tưởng như mình đã bị ném khỏi trước mặt Chúa, nhưng trong ân điển

54

Chúa, Giô-na vẫn còn có hy vọng nhìn lên đền thánh Chúa và tìm ơn

giải cứu của Ngài: “Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi, nhưng Ngài đã

đem mạng sống tôi lên khỏi hầm hố!”(2:7).

b. Trong sự luyến tiếc dây dưa, Giô-na học biết lòng thương xót

lớn lao của Đức Chúa Trời đối với linh hồn  đang hư mất trong tội lỗi,

không chỉ dành cho dân Chúa mà cho cả dân ngoại nữa.

Qua bài học của Giô-na, chúng ta ghi nhận những điểm sau đây:

(1) Ân điển của Đức Chúa Trời cho mọi người: Ngài ban ân điển

cho Giô-na cũng như cho dân thành Ni-ni-ve.  “Đức Chúa Trời yêu

thương thế gian”(Giăng 3:16).

(2) Sự cứu rỗi đến từ Đức Chúa Trời và nhờ ân điển bởi đức tin

mà nhận được.

(3) Trong ân điển, Đức Chúa Trời ban cho con người cơ hội ăn

năn để được cứu (2Phi 3:9-10).

(4) Ngày xưa, Đức Chúa Trời sai Giô-na đi giảng cho dân Ni-ni-ve.

Ngày nay, trong thời đại ân điển với sự cứurỗi đã được làm trọn

trong Chúa Giê-xu và Đức Chúa Trời có chươngtrình cứu rỗi cho cả

thế gian (Công Vụ 1:8). Cho nên, sự rao giảngTin Lành cho mọi

người là sứ mạng Chúa gọi mỗi Cơ đốc nhân chúng ta (Mác 16:15).

4. Ý Nghĩa Thuộc Linh Của Sách Giô-na.

Câu chuyện Giô-na trong bụng cá là điều khótin theo lý trí con

người. Nhưng với quyền năng của Chúa, sự kiện Giô-na sống trong

bụng cá ba ngày ba đêm là điều không có gì  khó cho Ngài. Đây là

một sự thật đã được Đức Chúa Giê-xu nhắc lại để nói trước về sự

chết và sự sống lại của Ngài (Lu 11:29-32; Mat 12:39-41). Một khía

cạnh khác, sự đau đớn của Giô-na chỉ về hoạn nạn mà Y-sơ-ra-ên

phải trải qua. Họ sẽ bị ném ra giữa các dânngoại, bị kẻ thù hà

hiếp, rồi sau đó họ kêu cầu Chúa và được giải cứu. Cuối cùng Y-sơ-ra-ên sẽ đem Tin lành cho các dân ngoại như trong dự ngôn của

55

tiên tri Đa-ni-ên (Đa 12:1). Như thế chúng ta có thể nói Giô-na là vị

giáo sĩ đầu tiên của Y-sơ-ra-ên cho dân ngoại.

B. ĐỜI SỐNG VÀ SỨ MẠNG.

Thách thức lớn nhất trong đời sống chức vụ  của Giô-na là giảng

cho dân Ni-ni-ve. Không phải vì họ là dân ngoại, nhưng là kẻ thù

của Y-sơ-ra-ên. Là một tiên tri, Giô-na biếtrõ dân Y-sơ-ra-ên sẽ sa

vào tay A-sy-ri và bị lưu đày xa xứ. Giô-na cũng biết Đức Chúa Trời

nhân từ, giàu ơn tha thứ (4:1-2). Cho nên đốivới Giô-na, nếu vâng

mạng Chúa giảng cho dân Ni-ni-ve, thì họ sẽ được cứu và dân Y-sơ-ra-ên chắc sẽ bị hủy diệt dưới tay A-sy-ri! Đó là lý do tại sao Giô-na

trốn Chúa, thà bị quăng xuống lòng biển, giận Chúa khi thấy dân Ni-ni-ve ăn năn, và cầu chết (1:1-2; 11:12; 4:1-3).

Qua những thái độ Giô-na trước sứ mạng Chúa, chúng ta thấy

Giô-na là người nóng tính, dễ giận, ích kỷ, cầu chết trước điều không

như ý! Một điểm đặc biệt trong vị tiên tri này là tinh thần ái quốc

rất cao, đến nỗi Giô-na thà trái mạng lệnh  Chúa, thà chịu ném

xuống biển còn hơn là đem lời Chúa cho dân Ni-ni-ve! Trên khía

cạnh quốc gia dân tộc, “sự hy sinh” của Giô-na xem như là một

hành động anh hùng đáng khen, nhưng đây khôngphải là cách cứu

vãn quốc gia Y-sơ-ra-ên khỏi tay A-sy-ri. Giô-na không thấy được

chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho cả thế giới và tình yêu

thương bao la của Ngài đối với mọi người, cùng sự ấn định thì giờ

đoán xét của Ngài cho cả thế gian. Trên bìnhdiện rộng lớn này, với

lời cầu chết của Giô-na vì ái quốc; với cơngiận của Giô-na vì cớ con

sâu nhỏ cắn héo dây dưa không còn bóng mátcho mình, trong khi

hàng vạn linh hồn ở Ni-ni-ve đang hư mất, tỏ ra rằng Giô-na thật ích

kỷ và hẹp hòi! Lòng ái quốc là điều đáng  trọng, nhưng người hầu

việc Chúa cần học tập đặt lòng ái quốc của mình theo đường lối của

Chúa và vâng phục ý chỉ của Ngài.

56

Tóm lại, qua đời sống và sứ mạng của Giô-na chúng ta học được

điều quan trọng này: Muốn vâng theo ý Chúa, chúng ta cần phải dẹp

bỏ những ích kỷ riêng tư.

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Qua những sự kiện sau đây xin tìm hiểu ân điển của Đức Chúa

Trời đối với tội nhân:

a. Với Giô-na: Đức Chúa Trời đã đáp ứng thế nào khi:

(1) Giô-na trốn tránh Ngài (1:3-7).

(2) Giô-na bị quăng xuống biển (2:1).

(3) Giô-na ở trong bụng cá (2:3-11).

(4) Giô-na mất cơ hội thứ nhất (3:1).

(5) Giô-na cầu chết (4:6).

b. Với dân thành Ni-ni-ve: Đức Chúa Trời đã  hành động thế

nào? (1:1; 3:4; 3:10).

2. Trải qua hoạn nạn và bất hạnh, Giô-na học biết Đức Chúa Trời

như thế nào và ông được dạy dỗ điều gì? (2:1-11,4,1-2,9-11).

3. Câu chuyện Giô-na ở trong bụng cá và được giải cứu để đi rao

giảng cho dân Ni-ni-ve có ý nghĩa gì về phươngdiện thuộc linh và

tiên tri? (2:1-3; Lu 11:29-32; Mat 12:39-41; Đa 12:1-3).

4. a. Xin tìm hiểu bốn lý do sau đây:

(1) Tại sao Giô-na trốn khỏi mặt Chúa? (1:3).

(2) Tại sao Giô-na muốn bị ném xuống biển? (1:11-12).

(3) Tại sao Giô-na giận? (4:1).

(4) Tại sao Giô-na cầu chết? (4:2-3).

b. Qua những lý do trên, xin nhận xét:

(1) Cá tính của Giô-na.

(2) Trở ngại nào khiến Giô-na không thực hành được mạng

lịnh của Chúa? Điều này cho chúng ta sự dạy dỗ nào?

57

5. Với sứ mạng Chúa gọi Giô-na, chúng ta học biết gì về ân điển

và chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời và sứ mạng của Ngài cho

chúng ta hôm nay? (Mác 16:15; Giăng 3:16-21,36;2 Phi 3:9-10).

6. Ghi nhận những điểm quan trọng qua đời sống và sứ mạng

của Giô-na.

7. Nhìn lại chính mình, xin cho biết:

a. Bạn đang trốn tránh hay vâng phục sứ mạngChúa gọi?

b. Có điều trở ngại nào trong bạn khiến bạnkhông thể đem ơn

cứu rỗi cho người khác?

c. Bạn có thái độ nào khi thấy người có tội ăn năn tin nhận

Chúa?

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Tẩy Vết Máu.

Trước hết, không được dùng nước nóng vì sẽ  làm cho máu đông

lại, khó tẩy sạch. Dùng nước lạnh xả lên máu. Sau đó, dùng nước

tiểu hoặc nước đu đủ (dùng 3-5 lá đun lấy nước) để tẩy vết máu.

Hiện nay, có một số bột giặt có chứa  enzimcó khả năng tẩy vết

máu. Nếu đồ len bị vết máu thì ngâm trong nước ấm có chứa một

viênaspirine, sau đó dùng quạt hong khô.

 

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 22.02.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 22.02.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 22.02.2015.

1. Đề tài:  ÁP-ĐIA – NGƯỜI RAO SỰ ĐOÁN PHẠT TRÊN KẺ NGƯỢC

ĐÃI DÂN CHÚA.

2. Kinh Thánh: Áp-đia 1:1-21; Sáng 25:23-26:36-43; Phục 2:2-7.

3. Câu gốc:  “Vì Đức Giê-hô-va chuộng sự công bình, khôngtừ bỏ

người thánh của Ngài; họ được Ngài gìn giữ  đời đời. Còn dòng

dõi kẻ dữ sẽ bị diệt đi”(Thi 37:28).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 106-108.

5. Thể loại: Chia sẻ.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

I. GIỚI THIỆU.

Tên Áp-đia có nghĩa là “đầy tớ của Chúa”. Thời gian Áp-đia bước

vào chức vụ tiên tri chẳng được biết rõ, có thể là trước Giê-rê-mi vào

khoảng năm 850-840 T.C. Sách Áp-đia được viếttrong văn thể của

bài ai ca với chủ đề duy nhất là rao sự đoán phạt Ê-đôm và dự ngôn

về phước hạnh tương lai của dân Y-sơ-ra-ên. Mặc dầu với sứ mạng

ngắn ngủi, nhưng qua sứ điệp của Áp-đia đã làm sáng tỏ vấn đề:

Thế nào kẻ bị ức hiếp tìm được sự an ủi vàkẻ ác nhìn biết sự công

nghĩa của Đức Chúa Trời?

II. DẪN GIẢI.

1. Dân Ê-đôm Và Dân Y-sơ-ra-ên.

Theo Sáng Thế Ký 25:23-26 và 36:6-9, thì tổ phụ của dân Ê-đôm

là Ê-sau, anh em sinh đôi với Gia-cốp. Mặc dầu Ê-sau khinh quyền

trưởng nam, mất sự chúc phước của Y-sác, chamình, nhưng dòng

41

dõi ông đã trở thành một dân giàu mạnh. Trong thời Áp-đia, thành

phố Sê-la sau này có tên là Pe-tra là thủ đô của Ê-đôm. Vết hoang

tàn được các nhà khảo cổ tìm thấy vào năm  1812. Những lớp gạch

đỏ nhô lên chứng tỏ sự hưng thịnh và văn minh một thời của quốc

gia này. Qua sự ghi nhận của Kinh Thánh và những sự kiện trên cho

chúng ta biết chi tiết về xứ Ê-đôm.

Về phương diện địa lý, xứ Ê-đôm chạy dài theo dãy núi Sê-i-rơ,

từ vịnh A-qa-ba đến biển Chết. Vùng đất này  phì nhiêu với các thứ

thổ sản như lúa mì, nho, trái vả, ô-li-ve, lựu. Dân Ê-đôm xây thành

kiên cố để sống an toàn khỏi kẻ thù đánh phá. Nhờ có núi cao bao

bọc làm tường thành, họ có thể chống lại kẻ xâm lược cách dễ

dàng. Thêm vào đó dân Ê-đôm chiếm được ưu  thế kiểm soát con

đường thương mại từ A-qa-ba đến Ai Cập, nên họ được sung túc về

mặt kinh tế và nền văn minh của họ cũng được phát triển cao hơn

các nước trong vùng sa mạc (Giê 49:7; Gióp 4:1).

Dầu có mối liên hệ bà con anh em với dân Y-sơ-ra-ên, hơn nữa

cũng là nước láng giềng gần gũi, nhưng dân  Ê-đôm không có chút

lòng thương xót Y-sơ-ra-ên trong ngày hoạn nạn, là ngày Chúa phó

Y-sơ-ra-ên vào tay vua Nê-bu-cát-nết-sa vào năm 586 T.C. Ác tâm

của dân Ê-đôm đã bày tỏ trong hai hành động:

(1) Hùa theo kẻ thù(c.10-13): Mối thù của Ê-sau về sự cướp

phước của Gia-cốp trong quá khứ mặc dầu đã  được giải hòa (Sáng

33) nhưng nó vẫn còn nằm trong tiềm thức củaÊ-sau và lưu lại

trong dòng dõi của ông. Vì thế, dầu sống bên cạnh Y-sơ-ra-ên, người

em có cùng huyết thống, nhưng trong lòng dân Ê-đôm vẫn ấp ủ mối

hận thù! Tuy không chính thức tiếp tay với kẻ thù của Giu-đa nhưng

thái độ vui mừng của họ trong ngày Giu-đa gặp nạn tỏ lòng họ cũng

đã kết hiệp cùng kẻ nghịch với anh em mình.

(2) Tàn nhẫn với kẻ lâm nạn(c.14): Dân Ê-đôm chẳng những vui

mừng khoanh tay, ngoảnh mặt làm ngơ khi thấy kẻ thù tràn vào phá

hủy Giê-ru-sa-lem, họ còn ra tay săn bắt những người Giu-đa chạy

42

ẩn mình trong xứ để nộp cho quân nghịch. Nhưngtrong mọi sự, Đức

Chúa Trời trên cao nhìn thấy và Ngài không quên việc làm tàn bạo

của Ê-đôm.

2. Sự Đoán Xét Của Đức Chúa Trời.

Trong lời rao về sự đoán phạt, Áp-đia cảnh cáo dân Ê-đôm

những điều này:

(1) Chớ tự cao: Nhờ vị trí địa lý an toàn, kinh tế giàu mạnh và

văn minh cao, dân Ê-đôm lên mình kiêu ngạo. Nhưng Lời Đức Chúa

Trời phán:  “Ta đã khiến ngươi làm nhỏ giữa các nước. Ngươi bị

khinh dể lắm. Hỡi ngươi là kẻ ở trong khe vầng đá, trong nơi cao,

ngươi nói trong lòng mình rằng: Ai sẽ có thể  xô ta xuống đất? Sự

kiêu ngạo của lòng ngươi đã lừa dối ngươi. Dầu ngươi lên cao như

chim ưng, dầu ngươi lót ổ giữa các ngôi sao,  ta cũng sẽ xô ngươi

xuống khỏi đó”(c.3-4).

(2) Chớ cậy liên minh:  “Mọi kẻ đồng minh cùng ngươi đã đuổi

ngươi… Những kẻ hòa thuận cùng ngươi, thì phỉnh ngươi”(c.7).

(3) Chớ cậy sự khôn ngoan:  “Trong ngày đó, ta há chẳng diệt

những kẻ khôn khỏi xứ Ê-đôm… sao?”(c.8).

(4) Chớ cậy binh lực:  “Hỡi Thê-man, những lính chiến của ngươi

sẽ thất kinh…”(c.9).

(5) Gieo gì gặt nấy:  “Những việc làm của ngươi sẽ đổ lại trên

đầu ngươi!” Ê-đôm đã cướp bóc, lục soát con buôn trong ngày kiểm

soát đường giao thương thể nào, thì cũng sẽ bị cướp bóc lục soát

trong ngày Chúa đoán xét thể ấy!

Lời cảnh cáo trên cho chúng ta nhận thấy:

(1) Nơi trú ẩn của loài người là vô ích: Dầu núp mình trong vầng

đá, hay trên núi cao, Ê-đôm không thể tránhkhỏi cơn thạnh nộ của

Chúa. Chỉ có người đặt lòng tin cậy nơi Đức Giê-hô-va được an toàn

trong ngày đoán xét. Vì Ngài là vầng đá củacác thời đại, nơi ẩn náu

an toàn của chúng ta (Ê-sai 26:3-4).

43

(2) Sự khôn ngoan của loài người không thể giải cứu họ trong

ngày đoán xét của Chúa. Nhưng người có ChúaGiê-xu, Đấng Đức

Chúa Trời làm nên sự khôn ngoan cho chúng tađược cứu khỏi cơn

thạnh nộ của Ngài (1Côr 1:30; Giăng 5:24).

Theo dự ngôn của tiên tri Áp-đia, lời đoán xét Ê-đôm trong 1:1-14 đã được xảy ra. Qua các dữ kiện lịch sử ghi nhận vào khoảng thế

kỷ thứ năm, dân Ê-đôm đã bị dân Ả-rập ápbức đuổi ra khỏi xứ và

định cư ở phần đất phía Nam Palestine, trở thành một nước nhỏ bé

và nghèo nàn như điều Áp-đia đã nói (c.1,5-8). Tuy nhiên, Ê-đôm

vẫn còn bị đặt dưới sự đoán xét trong ngày sau cùng, khi Chúa đoán

xét các nước thế gian (1:15-21). Điều này các nước thế gian nên

biết, Đức Chúa Trời phó dân Y-sơ-ra-ên trongtay các nước; nhưng

Ngài cũng sẽ đoán xét họ tùy theo cách họ  đối xử với dân Chúa

cách nhân đạo hay tàn nhẫn lúc hoạn nạn. Trong ngày đoán xét lớn,

Ê-đôm bị đoán phạt còn Y-sơ-ra-ên sẽ được phước như sau:

(1) Cường thạnh: Trong câu 17  “sẽ còn lại những người… nhà

Gia-cốp”, chỉ về dân sót của vương quốc miền nam sau  khi bị lưu

đày trở về xứ. Họ nhận lại phần đất của tổ phụ mình xưa kia để lại

làm sản nghiệp.  “Nhà Giô-sép”, chỉ về vương quốc miền bắc đã bị

vua A-si-ri là Sargon đánh phá và bắt lưu đàyvào năm 722 T.C.

Theo dự ngôn của Ê-xê-chi-ên 37:16-22; Ô-sê1:11, thì vương quốc

Y-sơ-ra-ên miền bắc trong tương lai sẽ liên hiệp với vương quốc Giu-đa miền nam và sẽ thống nhất quốc gia trở thành một lực lượng

hùng mạnh giống như  “ngọn lửa”đốt cháy và Ê-đôm  “sẽ là đống

rơm”cho ngọn lửa ấy!

(2) Biên giới quốc gia mở rộng (c.19). Lịch sử cho thấy trong khi

dân Y-sơ-ra-ên bị lưu đày, dân Ê-đôm đã chiếm đóng các tỉnh ở

phần đất phía nam của Giu-đa, Negel là vùng đất phía Nam của

Hếp-rôn hướng về đồng vắng Pha-ran. Sau khi hồi hương, dân Y-sơ-ra-ên sẽ chiếm lại phần đất phía nam ấy và  làm chủ quyền núi Ê-sau. Miền đồng bằng của dân Phi-li-tin và cảvùng đất Ép-ra-im

44

cùng với Sa-ma-ri (là vùng hiện nay đang có sự tranh chấp chủ

quyền với Jordanie). Nhưng chiến thắng này cólần xảy ra vào

khoảng thế kỷ thứ hai T.C. khi dân Do Thái dưới quyền lãnh đạo của

Maccabees. Tuy nhiên sự ứng nghiệm đầy trọn của lời tiên tri vẫn

còn trong tương lai. Khi đó các con cháu Y-sơ-ra-ên bị lưu đày từ thời

vua Sargon sẽ hồi hương và nhận lại phần đấtSê-rép-ta, là thành ở

giữa Ty-rơ và Giê-ru-sa-lem. Áp-đia chấm dứt lời tiên tri với viễn ảnh

của thế giới trong ngày đoán xét sau cùng: Si-ôn, tức Giê-ru-sa-lem

được giải cứu và được phước, Ê-đôm bị đoánphạt và nước thuộc về

Đức Chúa Trời. Dự ngôn này ám chỉ về sự trở lại của Đấng Christ,

Ngài sẽ giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi cơn đại nạn do những kẻ thù vây

quanh uy hiếp, Ngài đoán xét các nước thế gian và làm Vua trên đất.

Trong sự đoán xét Ê-đôm, chúng ta học biết:

– Đức Chúa Trời là Đấng Công nghĩa.

– Quyền đoán xét các nước thế gian thuộc vềNgài.

– Sự đoán xét của Chúa là đáng sợ và côngbình.

Ê-đôm bị đoán phạt, vì cớ:

(1) Sự kiêu ngạo của Ê-đôm xúc phạm đến bốn điều răn đầu là

điều Chúa đòi hỏi con người phải kính phục Ngài. Kinh Thánh ghi

chép Đức Chúa Trời đã đánh phạt vua Nê-bu-cát-nết-sa, cất mạng

sống của vua Hê-rốt, bởi vì các vua này chẳng nhường sự vinh hiển

cho Đức Chúa Trời (Đa 4:30-31; Công Vụ 12:23).

(2) Sự tàn bạo của Ê-đôm đã xúc phạm đến  sáu điều răn sau là

điều Chúa đòi hỏi con người phải yêu thương  nhau (Mat 22:36-39).

Cách đối xử bất nhân của Ê-đôm khiến Chúaphải thi hành luật công

nghĩa của Ngài trên nguyên tắc nhân quả:  “Việc làm của ngươi sẽ

đổ lại trên đầu ngươi!”(Áp-đia 1:15).

Như thế trong sự đoán xét của Chúa, Ngài căn cứ trên hai điểm:

  1. Thái độ chúng ta đối với Chúa.
  2. Cách cư xử của chúng ta đối với nhau.

45

3. Bài Học Cho Đời Sống.

Qua sự đoán phạt Ê-đôm chúng ta học được những sự dạy dỗ

sau:

(1) Chớ kiêu ngạo, hãy có lòng khiêm nhu trước mặt Chúa.

(2) Chớ ganh ghét, phải kính trọng người Chúachọn (Mal 1:3).

(3) Chớ báo thù, hãy yêu thương tha thứ: Mặcdầu Kinh Thánh

chép Đức Chúa Trời “yêu Gia-cốp và ghét Ê-sau”. Đó là sự lựa chọn

theo quyền tuyệt đối của Ngài (vì xuyên qua không gian và thời gian

Đức Chúa Trời thấy tấm lòng khát khao, yêu  mến, thuận phục Chúa

của Gia-cốp và Ngài đã chọn lựa ông), tuy nhiên theo lẽ công bình,

Đức Chúa Trời vẫn ban phước cho Ê-sau như Gia-cốp. Ngài ban đất

cho Ê-sau khiến Ê-sau trở thành một nước giàu mạnh như ban cho

Gia-cốp. Trong Phục Truyền 2:4-7, trên đường về đất hứa Ca-na-an,

Đức Chúa Trời đã căn dặn dân Y-sơ-ra-ên không được xâm lấn địa

phận của dân Ê-đôm, mà phải cư xử cách phải lẽ với người anh của

mình. Cho nên sự đoán phạt Ê-đôm là bài học nhắc nhở chúng ta

về cách đối xử với nhau trong tình anh em, nhưlời dạy của Chúa

Giê-xu:  “Phước cho những kẻ hay thương xót, vì sẽ được thương

xót!”(Mat 5:7), và lời khuyên của Phao-lô:  “Hãy ở với nhau cách

nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời

đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy”(Êph 4:32).

Tóm lại, sứ điệp rao sự đoán xét trên Ê-đôm khuyến khích Cơ

Đốc nhân chúng ta bền lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời và thêm lên

trong sự làm điều lành nhất là đối xử nhântừ với nhau vì biết rằng

Đức Chúa Trời làm sự công bình và binh vực người thánh của Ngài.

Cũng nhắc nhở chúng ta về tấm lòng và tháiđộ đối với Đức Chúa

Trời cao cả, Đấng phán như vầy:  “Người khôn chớ khoe sự khôn

mình; người mạnh chớ khoe sự mạnh mình; ngườigiàu chớ khoe sự

giàu mình. Nhưng kẻ nào khoe hãy khoe về trí khôn mình biết ta là

Đức Giê-hô-va, là Đấng làm ra sự thương xót, chánh trực, và công

46

bình trên đất; vì ta ưa thích những sự ấy, Đức Giê-hô-va phán vậy”

(Giê 9:23-24).

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Xin đọc Áp-đia 1:1-9; Sáng Thế Ký 36:6-9 tìm hiểu vài nét đại

cương về địa lý xứ Ê-đôm, dân tộc, nền vănminh và đạo đức của

dân Ê-đôm.

2. a. Giữa Ê-đôm và Y-sơ-ra-ên có mối liên  hệ bà con nào?

(Sáng 25:23-26; 36:6).

b. Dân Ê-đôm đối đãi với dân Y-sơ-ra-ên thế nào trong ngày

hoạn nạn? (Áp 1:10-14).

3. a. Áp-đia cảnh cáo dân Ê-đôm những điều  nào? (1:3-4; 7; 8;

9; 15).

b. Trong sự đoán xét của Đức Chúa Trời dân Ê-đôm và dân Y-sơ-ra-ên sẽ như thế nào? (1:2-9,15-21).

c. Sự đoán phạt Ê-đôm có phải là điều công bình không? Xin

giải thích lý do.

4. Trong sự đoán phạt Ê-đôm cho chúng ta bàihọc gì về:

a. Cách đối xử với người trong tình anh em?

b. Cách đối xử với người được Chúa chọn?

c. Tấm lòng và thái độ chúng ta trước mặt Chúa?

5. Sứ điệp của Áp-đia có ý nghĩa gì cho chúng ta hôm nay? (Thi

37:1-3,28; 1:6).

6. Ghi nhận những điểm quan trọng qua sứ điệpcủa Áp-đia.

7. Nhìn lại chính mình, xin cho biết:

a. Bạn có lòng khiêm nhường trước mặt Chúa  hay đang cậy

vào sự khôn ngoan của chính mình?

b. Việc bạn đang làm sẽ gặt hái điều gì, nhận sự đoán phạt

hay phước hạnh của Chúa?

c. Với người anh em trong hoạn nạn, bạn có thái độ nào?

47

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Tẩy Vết Mực.

Nếu là mực thường thì cắt một miếng chanh tươi thoa vào chỗ

dính mực, sau đó giặt lại bằng xà bông và xả nước sạch. Vết mực

sẽ hết. Nếu là mực bút bi thì tẩy mực bằngcồn 90 độ.

 

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 15.02.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 15.02.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 15.02.2015.

1. Đề tài: CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 67.

3. Câu gốc:  “Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho chúng tôi, và các

đầu cùng đất đều sẽ kính sợ Ngài”(Thi 67:7).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 103-105.

5. Thể loại: Kịch 5’.

* CHỈ DẪN: Kịch.

35

1. Mời vài người trong ban chấp sự của Hội Thánh nhóm chung

với ban phụ nữ và làm giám khảo.

2. Cách thực hiện chương trình.

* Cách 1:Từ nhiều tuần trước, mỗi nhóm của ban phụ nữ họp lại

để soạn và tập một vở kịch ngắn với đề tài về “Truyền giáo”. Tùy

theo số nhóm mà định thời gian của vở kịch, nhưng không được quá

5 phút.

* Cách 2:  Trước giờ nhóm, ban hướng dẫn chia ban phụ nữ ra

làm 3 nhóm và cho ngồi riêng ra từng nhóm. Đến tiết mục kịch 5

phút, ban hướng dẫn giao cho mỗi nhóm một câu chuyện ngắn với

đề tài về “Truyền giáo”. Trong 20 phút, các  nhóm phải biến câu

chuyện thành vở kịch, phân vai và tập kịch.

– Các nhóm lần lượt diễn kịch.

– Cách chấm điểm.

+ Thời gian: Đúng giờ (5’) 10 điểm. Mỗi phút  dư bị trừ một

điểm.

+ Tinh thần: Tất cả nhóm viên đều tham gia vào vở kịch: 10

điểm. Thiếu một người trừ 1 điểm.

+ Diễn xuất: 10 điểm.

+ Nội dung: 10 điểm (nếu là vở kịch tự chọn).

– Phát thưởng.

* NHỮNG CÂU CHUYỆN THAM KHẢO.

TIẾP NHẬN LỜI MỜI.

Viên đốc công của một xưởng máy ở miền Bắc nước Anh thường

nghe giảng Tin Lành, nhưng anh bối rối vì sợ mình không thể đến

cùng Chúa Cứu Thế. Ngày kia ông chủ gởi tới cho anh một tấm thiếp

viết rằng: “Mời anh tới nhà riêng của tôi ngay sau giờ làm việc”. Anh

tới nhà ông chủ. Ông chủ bước ra, nói giọng xẵng xớm:

– “Anh John, anh muốn gì mà lại đến quấy rối tôi giờ này?”

36

Anh hơi ngạc nhiên, nói:

– “Thưa ông, tôi có nhận được tấm thiếp củaông bảo tôi tới găp

ông sau giờ làm việc mà!”

Ông chủ hỏi:

– “Anh chỉ nhận được tấm thiếp của tôi mà anh đến liền sao?”

Anh đáp:

– “Thưa ông, đúng vậy. Tôi không hiểu ý ông, nhưng tôi tưởng

ông kêu tôi thì tôi có quyền đến!”

Ông chủ nói:

– “Vậy mời anh vào nhà, cùng ngồi xuống. Ông mở Kinh Thánh,

đọc câu này:  “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng

Ta, Ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ”(Mat 11:28). Rồi chủ nói:

– “Tôi chỉ là một ông chủ trong xưởng máy mà viết thiếp gọi anh,

anh tới ngay. Còn đây, Chúa Cứu Thế là Chủ  Tể của nhân loại, đã

kêu mời anh như thế, sao lâu quá mà anh chưa chịu đến với Ngài?”

Anh đốc công đáng thương này hiểu ý ông chủ, liền nhận lời mời

của Chúa Cứu Thế mà tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa của đời mình.

HIỂU BIẾT SỰ YÊU THƯƠNG CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI.

Một bà kia không hề biết sự yêu thương của mọi người, vì bà là

một người nghèo khổ bị bỏ quên, bị bạc đãi,bị xử bất công lâu ngày

đến nỗi bà thù nghịch với tất cả mọi người.

Một lần kia có một mục sư đến gặp bà để nói về tình yêu thương

của Đức Chúa Trời, song bà chẳng hiểu tình yêu là gì cả. Bà ngước

mắt lên nhìn Mục sư và nói:

– “Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối

với tôi, tôi cũng không hiểu yêu thương là gì cả”.

Mục sư trở về nói cùng tín đồ trong Hội Thánh rằng có một người

chưa hề biết tình yêu thương của Chúa là gì, vậy mọi người hãy giúp

cho bà ấy biết được tình yêu của Chúa bằng cách mỗi người lần lượt

37

đến thăm bà, tỏ cho bà biết có người yêu thương, thăm viếng, an ủi

và giúp đỡ bà. Mấy tháng trôi qua, rốt lại, một ngày kia, khi Mục sư

tới thăm bà tại ngôi nhà tồi tàn, bà ngước mắt lên nhìn Mục sư và

nói rằng:

– “Thưa Mục sư, tôi hiểu biết sự yêu thương là gì rồi, và bây giờ

tôi có thể tiếp nhận sự yêu thương của ĐứcChúa Trời’.

Bà liền quỳ gối xuống cầu nguyện tiếp nhậnChúa Cứu Thế Giê-xu

làm Chúa của cuộc đời bà và bước đi trong tình yêu thương của Ngài.

NHƯ LÀM CHO CHÚA.

Một giáo sĩ ở Ấn Độ kể chuyện về một sĩ quan đã dừng lại nhà

một em bé Ấn Độ nghèo nàn, bảo em đánh giầy cho mình. Cậu bé

bắt tay vào việc đó với tất cả sự say mê và lòng nhiệt thành đến nỗi

làm cho vị sĩ quan ngạc nhiên. Thay vì làm qua loa bên ngoài cậu bé

hết sức đánh đôi giày cho thật bóng láng mới thôi. Vị sĩ quan hỏi:

– “Tại sao em dùng quá nhiều thì giờ để đánhbóng đôi giày của

tôi như thế?”

Cậu bé trả lời:

– “Thưa ông, tuần trước đây Chúa Giê-xu đã ngự vào lòng em và

bây giờ em thuộc về Ngài. Từ đó cứ mỗi lần đánh giày cho ai, thì

em cứ nghĩ rằng đó là đôi giày của Chúa vàem làm hết sức mình.

Em muốn Ngài hài lòng”.

* Dù làm bất cứ điều gì, xin Chúa cho chúng  ta “không những

hầu việc trước mắt họ, như mình tìm cách cho  đẹp lòng người ta,

nhưng vì kính sợ Chúa, hãy lấy lòng thật thàmà hầu việc. Hễ làm

việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải

làm cho người ta”(Côl 3:22-23).

LÀM CHỨNG VỀ CHÚA BẰNG NẾP SỐNG CỦA MÌNH.

Một người kia thích nhậu nhẹt, say sưa tối ngày. Một hôm tại

quán rượu, anh ta khoe với các bạn rượu rằng:

38

– “Nếu bây giờ tao dẫn tụi mầy về nhà lúc  nửa đêm, rồi bảo vợ

tao thức dậy nấu ăn, thì vợ tao sẽ vui vẻ đãi tụi mầy một bữa ăn

ngon lành mà không dám phàn nàn chi cả”.

Một bợm rượu nghe vậy tưởng anh nầy nói khoác, bèn thách thức

anh ta dẫn về nhà thử xem có đúng như vậy hay không.

Dù nghe lời đòi hỏi vô lý của chồng, ngườivợ ấy vẫn vui vẻ thức

dậy nấu nướng đãi các bạn của chồng một bữa no nê. Sau khi ăn

xong, một người trong bọn hỏi chị rằng:

– “Tại sao chị lại vui vẻ làm theo lời đòi hỏi vô lý của anh ấy như

thế?”

Chị đáp: “Khi trước tôi cũng là một người lôi thôi, tội lỗi, nhưng từ

khi tôi tin nhận Chúa Giê-xu, Ngài đã thay đổi đời sống tôi. Tôi làm

chứng về Chúa và cố gắng giúp anh tin Chúa,nhưng anh không

được. Tôi biết chắc rồi đây chồng tôi sẽ xuống địa ngục, đau khổ đời

đời, nên tôi muốn giúp chồng tôi vui vẻ, hưởng thụ cuộc đời tạm bợ

trên thế gian, để khi qua đời, anh không còn  cơ hội hưởng thụ nữa.

Một điều quan trọng nữa là, tôi muốn lấy đời sống của mình qua sự

vâng lời, phục vụ, vui vẻ, nhịn nhục… để làm chứng cho anh ấy thấy

về Chúa Giê-xu của tôi, người đã thay đổi tôi và dạy tôi cách sống

như Ngài. Bởi đó, anh ấy muốn gì, tôi cũng sẵn sàng làm cho anh

ấy vui, chỉ trừ một điều là anh muốn tôi bỏChúa”.

Sau khi nghe những lời đó, người chồng cũng như nhiều bạn nhậu

của anh rất cảm động và lo sợ cho số phận của mình nên ăn năn

tin nhận Chúa. Từ đó anh bỏ tính ghiền rượu,trở nên một người

chồng tốt và tín đồ gương mẫu.

* Chắc chắn người chồng và những người bạn  tin nhận Chúa

không phải chỉ nhờ những lời nói sau cùng của người đàn bà nầy,

nhưng nhờ thấy sự nhịn nhục và hòa nhã của  người vợ tin kính

Chúa. Chị biết làm chứng về Chúa qua nếp sống của mình.

39

TẠI SAO KHÔNG CHỊU ĐẾN VỚI CHÚA?

Một người tin Chúa và một anh thợ hớt tóc vô thần cùng đến một

khu nghèo khổ ở ngoài thành phố. Anh thợ hớt tóc bài bác đạo nói:

“Những gì tôi với ông thấy hôm nay chứng minh rằng làm gì có

Thượng Đế nhân từ, bác ái như ông vẫn thường nói. Nếu Thượng Đế

có thật, thì làm sao có cảnh nghèo khổ bệnhtật như thế nầy. Ông

ấy chắc cũng phải có quyền năng ngăn cản những người nghiện ma

túy hay rượu và những thứ tật xấu làm hư hỏng cả con người chứ!”

Người tin Chúa im lặng không cãi cho đến khi  gặp một người

quần áo rách rưới, tóc xoã xuống tận nửa lưng và trên mặt còn cả

một cụm râu, mới ôn tồn nói: – “Nếu anh làmột thợ hớt tóc giỏi, thì

anh không thể nào để cho một người đầu tóc  như thế đi lang thang

mà không hớt tóc, cũng chẳng chịu cạo râu nữa”.

Anh thợ hớt tóc nổi giận nói: – “Tại sao anhđổ lỗi cho tôi? Tôi

làm sao cấm cản anh ấy được? Anh ta có bao giờ chịu đến tiệm hớt

tóc của tôi đâu? Nếu anh ta chịu đến để tôihớt tóc, cạo râu, thì chỉ

cần nửa giờ sau là anh ta ra người tươm tất ngay!”

Người tin Chúa lúc ấy mới dịu giọng bảo: – “Thế anh cũng không

nên đổ lỗi cho Thượng Đế là để cho người nầy tiếp tục sống cuộc đời

hư hỏng cho đến nỗi thân tàn ma dại như vậy.Vì Chúa lúc nào cũng

mời gọi họ đến với Ngài để được giải cứu.Lý do mà những người ấy

vẫn còn làm tôi mọi cho thói xấu và tội ác, là vì họ từ chối không

chịu đến với Chúa là Đấng đã yêu thương họ,chịu hy sinh chết thay

tội lỗi cho họ. Chúa không bất công đâu”.

Người thợ hớt tóc nghe đến đó thì tỉnh ngộ.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Tẩy Mủ Dừa.

Nhỏ nước trái chanh lên chỗ bẩn rồi vò vớinước  am-mo-ni-ac.

Sau đó xả lại nhiều lần với nước lạnh.

40

– Tẩy Vết Mủ Chuối.

Ngâm chỗ dơ vài phút vào một ít giấm. Sau đó vò kỹ. Khi hết vết

dơ, xả sạch bằng nước cho đến khi hết mùi giấm.

 

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 08.02.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 08.02.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 08.02.2015.

1. Đề tài:  A-MỐT – NGƯỜI KÊU GỌI DÂN SỰ ĐẾN ĐỜI SỐNG ĐẠO

ĐỨC THẬT.

2. Kinh Thánh:A-mốt 5:1-27; 7:10-17.

3. Câu gốc:  “Hãy tìm điều lành và đừng tìm điều dữ, hầucho các

ngươi được sống, thì Giê-hô-va Đức Chúa Trờivạn quân sẽ ở

cùng ngươi, như các ngươi nói vậy”(A-mốt 5:14).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 97-102.

5. Thể loại: Học Kinh Thánh nhóm.

* CHỈ DẪN: Học Kinh Thánh Nhóm.

28

1. Tài liệu: Ủy viên linh vụ dựa vào tài liệu để chọn phương pháp

học Kinh Thánh, soạn câu hỏi, viết sẵn ra giấy để trao cho các nhóm.

a. Phương pháp học Kinh Thánh phải tùy theo phần Kinh Thánh

làm nền và khả năng của ban viên.

b. Nếu bạn không có phương pháp học Kinh Thánh, bạn có thể

soạn 2-3 cụm câu hỏi cho giờ học Kinh Thánh  nhóm. Mỗi

cụm câu hỏi gồm có:

– Câu hỏi quan sát (nêu việc xảy ra).

– Câu hỏi giải thích (tìm sự dạy dỗ của LờiChúa).

– Câu hỏi áp dụng (ứng dụng sự dạy dỗ vàođời sống).

Dưới đây là một số câu hỏi đề nghị, bạn có thể sử dụng trong giờ

học Kinh Thánh nhóm hoặc dùng để tham khảo.

(1.1)Xin liệt kê một số tội dân Y-sơ-ra-ên đã phạm (5:4-27).

(1.2)Những tội nầy phản ánh đời sống đạo đức của họ thế

nào?

(1.3)Điều gì dễ khiến bạn phạm tội cùng Chúa? Đời sống bạn

lúc ấy như thế nào?

(2.1)A-mốt kêu gọi dân sự làm gì để thay đổi nếp sống tội lỗi?

(5:4,6,8,14,15).

(2.2)A-mốt thách thức dân sự điều gì và nhằm mục đích gì?

(2.3)Sự kêu gọi của A-mốt thách thức bạn trong sứ mạng gì?

(3.1)  Trong khi rao truyền sứ điệp, A-mốt gặp khó khăn gì?

(7:10-17).

(3.2)Tại sao A-mốt gặp sự bắt bớ như thế?

(3.3)Qua A-mốt, bạn tìm thấy những đức tính cần thiết nào cho

người hầu việc Chúa?

I. GIỚI THIỆU.

29

Từ vùng đồi núi Thê-cô-a hiu quạnh, cách Giê-ru-sa-lem độ 18km,

đã xuất hiện một nhà tiên tri rất nhiệt thành, đó là A-mốt. Vốn là

người chăn chiên tầm thường, A-mốt được ĐứcChúa Trời kêu gọi vào

chức vụ vào khoảng năm 765-750 T.C, để mang sứ điệp của Chúa

cho cả nhà Y-sơ-ra-ên, đặc biệt cho vương quốc miền bắc Y-sơ-ra-ên.

A-mốt sống trong thời kỳ trị vì của vua Giê-rô-bô-am II, là thời kỳ

quốc gia Y-sơ-ra-ên đạt đến nền kinh tế phồnthịnh. Cả vua và dân

buông mình trong nếp sống xa hoa, đạo đức vô  cùng sa sút, bại

hoại. A-mốt mạnh dạn đem lời Chúa cảnh cáo  tội ác dân sự trước

những áp lực đe đọa của cấp lãnh đạo tôn giáo, cũng như nhà vua.

Qua các sứ điệp, A-mốt có ba dự ngôn quan trọng:

a. Sự đoán xét các dân ngoại (1-2).

b. Sự đoán xét nhà Y-sơ-ra-ên (3-8).

c. Sự phục hồi Y-sơ-ra-ên (9).

Tuy nhiên, điểm chính trong sứ điệp của A-mốtlà kêu gọi dân sự

khá sửa soạn gặp Đức Giê-hô-va. Điều này có nghĩa gì?

II. DẪN GIẢI.

A. ĐỜI SỐNG SA SÚT CỦA Y-SƠ-RA-ÊN (5:4-17).

Trong sự sa sút đạo đức, dân Y-sơ-ra-ên đã rơi vào ba tội

trọng:

1. Bội nghịch với Đức Chúa Trời (làm những điều sai trái).

2. Bất nghĩa đối với nhau (bội bạc, không trung thành).

3. Bất chính đối với nhau (không minh bạch, đứng đắn).

Họ đã trái phạm luật pháp Chúa, được bày tỏ như sau:

a. Luật pháp dạy:  “Ngươi phải kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời

ngươi, phục sự Ngài”(Phục 6:13), nhưng dân sự lìa bỏ Đức Chúa

Trời và thờ lạy hình tượng, A-mốt 5:5:  “Chớ tìm kiếm Bê-tên!”(Bê-tên là nơi thờ bò vàng, 1Vua 12:28-30).

30

b. Luật pháp dạy:  “…chớ hà hiếp người… hãy thương yêu người

như mình… chớ phạm sự bất nghĩa trong việc xét đoán, hoặc sự đo,

sự cân hay là sự lường”  (Lê-vi 19:33-35). Nhưng dân sự đã làm

điều bất nhân, bất chính:  “Các ngươi hiếp đáp kẻ nghèo và đòi họ

nộp thuế lúa mì… các ngươi là kẻ hiếp đáp người công bình, nhận

lấy của hối lộ, ở nơi cửa thành làm cong lẽ thẳng của những kẻ

nghèo”(5:11-12).

Sự so sánh trên cho chúng ta dân Y-sơ-ra-ên đã sai lệch đường

lối của Đức Chúa Trời là đường lối dẫn họđến đời sống được Đức

Chúa Trời ban phước, nhưng họ lại bị đặt dưới sự đoán phạt của

Ngài.

B. LỜI KÊU GỌI ĐẾN ĐỜI SỐNG ĐẠO ĐỨC THẬT.

Trong khi dân chúng càng lún sâu trong con đường ác, A-mốt

cảnh tỉnh họ sửa soạn gặp mặt Đức Chúa Trời (4:12). Một sự nhắc

nhở vô cùng nghiêm trọng để mỗi người có thể xét lại tư cách và

việc làm của mình thế nào khi ứng hầu trướcĐấng thánh. Cho nên

trong sự chuẩn bị này, A-mốt kêu gọi dân sựđến một cuộc sống đạo

đức chân thật theo tiêu chuẩn của Đức Chúa  Trời, mà họ đã đánh

mất. Trên tiêu chuẩn này gồm có hai điểm chính:

1. Tìm Kiếm Đức Chúa Trời:  “Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va, thì

các ngươi sẽ sống”(c.6). Đây là nguyên tắc căn bản trong nếp

sống đạo của con dân Chúa. Lâu nay dân sự đi đốt hương cho thần

tượng hư không ở Bê-tên và Ghinh-ganh, lìa bỏ Đức Chúa Trời, là

nguồn của sự sống! Cho nên sự tìm kiếm Đức Chúa Trời là điều quan

trọng hàng đầu của con người trên đất, để chúng ta được sống mà

không bị hủy diệt (Công Vụ 17:28; A-mốt 5:8).

Sự tìm kiếm Chúa bao hàm hai ý nghĩa:

a. Học biết ý chỉ của Đức Chúa Trời.

b. Trở lại cùng Đức Chúa Trời, kết mối tương giao với Ngài, tôn

Ngài là Vua của đời sống chúng ta.

31

Qua hai ý nghĩa trên, chúng ta nhận thấy rằng, người thực sự tìm

kiếm Chúa là người hết lòng tôn kính Chúa và vâng theo lời Ngài

phán dạy. Vì vậy sự vâng giữ luật pháp Chúa là lẽ sống của con dân

Chúa (Phục 8:1).

2. Sống Theo Đường Lối Của Đức Chúa Trời:A-mốt khuyến

khích dân sự hướng đến nếp sống đạo trong bađiều quan trọng này:

a. Yêu thương (5:11): Trong Lê-vi Ký 19:9-10,33-34, dạy dân Y-sơ-ra-ên phải có lòng thương xót anh em nghèokhổ giữa họ và đối

đãi nhân từ với khách ngoại bang, vì cớ Ngài là Đấng hay thương

xót.

b. Chánh trực: Vì cớ Đức Chúa Trời là Đấng  thánh khiết công

nghĩa, Ngài đòi hỏi dân sự phải có đời sống ngay thẳng, công bằng.

c. Chân thật: Vì cớ Đức Chúa Trời là Đấng chân thật, đòi hỏi con

dân Chúa có sự chân thật trong đời sống, không làm người giả hình

như dân Y-sơ-ra-ên, bên ngoài dâng của lễ, ca hát tôn vinh Chúa,

nhưng trong lòng bội nghịch Ngài (5:21-24). Trong sự nhận biết Đức

Chúa Trời, Đa-vít nói rằng:  “Nầy, Chúa muốn sự chân thật nơi bề

trong”(Thi 51:6), và từ sự chân thật bên trong được bày tỏ qua lời

nói và việc làm trong nếp sống đạo của con cái Chúa.

Trong sự kêu gọi đến đời sống đạo đức, A-mốt thách thức dân sự

ba điều: Hãy tìm kiếm Đức Chúa Trời, đừng tìm kiếm thần tượng; hãy

tìm điều lành, đừng tìm điều dữ, hãy ghét điều dữ và ưa điều lành;

hãy lập sự công bình (5:4,14,15). Sự thách thức này được kèm theo

với lời cảnh cáo về sự đoán phạt của Chúa. Nếu dân sự tiếp tục con

đường ác, chắc sẽ sa vào tay kẻ nghịch và bịlưu đày qua A-si-ry

(5:16-20,25-27). Trong sự cảnh cáo này A-mốt đặt trước mặt Y-sơ-ra-ên một sự lựa chọn sống chết: Hoặc trở  lại tìm kiếm Đức Giê-hô-va và vâng theo luật pháp Ngài để được sốngphước hạnh; hay tìm

kiếm thần tượng và làm điều ác để bị hủy diệt? Tuy nhiên, A-mốt

vẫn có lời khuyến khích dân sự:  “Thà hãy làm cho sự chánh trực

32

chảy xuống như nước, và sự công bình như sông lớn cuồn cuộn”

(5:24).

Tóm lại qua lời kêu gọi sửa soạn gặp Đức Chúa Trời, chúng ta ghi

nhận những điểm quan trọng sau đây:

– Sự gặp Chúa để khai trình mọi việc trong đời sống là điều mọi

người chúng ta phải chuẩn bị (2Côr 5:10).

– Chỉ có người sống đạo theo tiêu chuẩn côngnghĩa của Chúa,

mới có thể đứng nổi trước mặt Ngài.

– Theo tiêu chuẩn sống đạo, nếu người hết lòng tìm kiếm Chúa và

sống theo đường lối Chúa dạy là người giữ trọn điều răn Chúa (Xuất

20:1-17).

– Người sống theo tiêu chuẩn đạo đức của Chúa chắc sẽ phản

chiếu sự nhân từ, thánh khiết, công bình vàsự chân thật của Ngài.

– Người sống sai trật đường lối Chúa, chắc chuốc lấy cho mình sự

bất hạnh.

Nói chung, bất cứ xã hội nào trong nếp sốngkhông có lòng nhân

từ đối với kẻ nghèo khổ, bất công và tham  nhũng lan tràn thì chắc

sẽ bị Chúa đoán phạt, vì Ngài là Đấng công  nghĩa như  “ngọn lửa

thiêu đốt”(5:6).

Ngày nay chúng ta đang sống trong xã hội bại  hoại như trong

thời tiên tri A-mốt: hiếp đáp người nghèo, làm cong lẽ thẳng. Cho

nên lời kêu gọi người đến đời sống đạo đức chân thật, cảnh báo

người sửa soạn gặp Đấng công nghĩa cũng là sứ mạng của chúng ta

hôm nay.

3. Đời Sống Và Sứ Mạng.

Với sứ mạng Chúa gọi, A-mốt gặp nhiều thử thách, nhất là sự bắt

bớ từ nhà lãnh đạo đương thời, vì cớ A-mốt  rao sứ điệp của Chúa

nghịch cùng họ. Dầu vậy, A-mốt đã không bỏ  cuộc, vẫn giữ lòng

trung tín làm trọn trách nhiệm Chúa giao phó.Qua những lời đối đáp

của A-mốt với thầy tế lễ A-ma-xia, chúng ta  tìm thấy bốn đức tính

33

cao đẹp trong đời sống chức vụ của A-mốt nêu gương cho người hầu

việc Đức Chúa Trời:

a. Khiêm nhường: Mặc dầu là một tiên tri của Chúa, nhưng khi

đối chất với thầy tế lễ A-ma-xia, A-mốt nhận mình chỉ là kẻ chăn:

“Ta không phải là đấng tiên tri, cũng không  phải con đấng tiên tri,

nhưng ta là một kẻ chăn…”(7:14).

b. Vâng lời Chúa:

“Đức Giê-hô-va đã bắt lấy ta từ sau bầy…”(7:15), sự làm tiên tri

không phải là ý muốn của A-mốt, nhưng do sựkêu gọi của Chúa và

ông vâng lời.

c. Cương trực: A-mốt nhận lời Chúa thế nào thì rao lại thế ấy,

mặc dầu lời ấy chỉ tội các nhà lãnh đạo tôn giáo và dân sự.

d. Can đảm: A-mốt thẳng thắn quở trách kẻ đang nắm giữ quyền

hành, dầu ông bị vu oan, bị xua đuổi (7:10-11).Sự chịu khổ của A-mốt trong sứ mạng Chúa gọi không tránh khỏisự bắt bớ, nhưng

chắc chắn sẽ nhận được phần thưởng của Chúa.

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Xin đọc A-mốt 5:4-27 và ghi nhận những tộidân Y-sơ-ra-ên

đã phạm.

2. Xin đọc Phục Truyền 4:24; 8:1; Lê-vi Ký 19:35-36. So sánh

các tội phạm với điều luật pháp dạy, chúngta có nhận xét gì về đời

sống đạo đức của dân Y-sơ-ra-ên trong thời A-mốt?

3. Trong lời kêu gọi sửa soạn gặp Đức Chúa  Trời, A-mốt kêu gọi

dân sự đến đời sống trên tiêu chuẩn nào? (5:4,8,11,21-24). Và có lời

cảnh cáo gì? (5:16-20,25-27).

4. Sự kêu gọi của A-mốt thách thức Cơ Đốc nhân chúng ta trong

sứ mạng nào hôm nay? (Rô 3:23-25; Êph 4:20-32).

5. a. Trong khi rao truyền sứ điệp, A-mốt đã gặp sự bắt bớ nào?

Tại sao? (7:10-17).

34

b. Qua các lời đối đáp của A-mốt, chúng ta tìm thấy trong A-mốt có những đức tính nào cần thiết cho người hầu việc Chúa?

6. Xin ghi nhận những điểm quan trọng trong sứđiệp của A-mốt.

7. Nhìn lại chính mình, xin cho biết:

a. Nếp sống đạo của bạn hiện nay thế nào? Theo tiêu chuẩn

nào?

b. Bạn can đảm bày tỏ đời sống đạo đức chân thật của Chúa

và cảnh báo sự đoán xét của Ngài cho ngườithế gian như thế nào ?

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Tẩy Vết Ố Quần Áo.

Có thể tẩy vết ố vàng (do mồ hôi) hay mốc  đen trên quần áo,

khăn mặt bằng cách đem ngâm nước muối loãngtừ nửa tiếng đến

một tiếng đồng hồ. Sau đó đem xả sạch, dùngxà phòng giặt như

thường. Các vết ố sẽ biến mất.

Chú ý:Sau khi tẩy vết bẩn, vết ố trên quần áo, đôi khi xung

quanh chỗ tẩy còn thấy những vết mờ mờ hìnhtròn. Bạn đừng lo.

Hãy đun nước sôi và đem đặt chỗ ấy phía trên hơi nước đang bốc

lên. Vết mờ đó sẽ bay hết.

 

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 01.02.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 01.02.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 01.02.2015.

1. Đề tài: THIÊN ĐÀNG VÀ ĐỊA NGỤC.

2. Kinh Thánh:  Đa-ni-ên 12:2,3; Giăng 3:3; 5:27-29; Khải 20:4,5;

21:4,8; Mat 25:4.

3. Câu gốc: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban

Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà

được sự sống đời đời”(Giăng 3:16).

4. Đố Kinh Thánh: Không đố Kinh Thánh.

5. Thể loại: Truyền giảng.

* CHỈ DẪN: Truyền giảng.

1. Vì buổi truyền giảng dành cho người chưa biết Chúa, nên chúng

ta phải soạn chương trình như thế nào để thânhữu có thể tham gia

mọi tiết mục. Vì thế bạn phải:

a. Để các tiết mục thường lệ của sự thờ phượng qua tuần kế tiếp

như: Câu gốc, bài hát khẩu hiệu, hạt giống tốt (trả câu gốc cũ,

học câu gốc mới), đố Kinh Thánh, dâng tiền,đọc bài cầu

nguyện chung…

b. Chương trình phải giản dị, ngắn (tối đa là 75 phút), dễ hiểu và

linh động bằng cách thay đổi thể loại trình bày sứ điệp: Chia

sẻ, thuyết trình, giải đáp thắc mắc, thảo luận, kịch, xem phim

Tin lành, ca nhạc thánh, sinh hoạt…

2. Ban hướng dẫn chịu trách nhiệm buổi truyềngiảng để huy

động mọi ban viên tham gia: Cầu nguyện, mời thân hữu, tiếp tân…

25

3. Nên có giờ trà đàm: Ăn bánh, uống nước,thảo luận, làm chứng

để tạo tình thân và kêu gọi tin Chúa.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Vào đề: Sự nguy hiểm hơn hết trong tâm trí của nhân loại là họ

nghĩ không có thiên đàng và địa ngục, chết là hết. Có người cho

rằng thiên đàng và địa ngục là lý thuyết docác nhà tôn giáo đặt ra

chứ không phải có thật. Hoặc có người cho rằng đó là chuyện bịa

của các bà già, mà Ma quỷ dùng để ru ngườita ngủ, làm cho họ

không lo sợ về tội lỗi và sự trừng phạt trong tương lai, cho đến khi

mở mắt và thấy mình ở địa ngục thì việc đã rồi.

I. THIÊN ĐÀNG, ĐỊA NGỤC LÀ HAI NƠI THỰC HỮU.

1. Lẽ Công Bình Làm Chứng.

Nếu ta tin rằng có Đức Chúa Trời thì phải tin rằng có thiên đàng,

địa ngục và Đức Chúa Trời là Đấng chí công thưởng thiện, phạt ác.

Trong đời nầy, chưa có sự thưởng phạt phân minh và xứng đáng.

Lắm người suốt đời làm lành mà phải lầm than, khổ sở. Lắm kẻ làm

ác mà vẫn được thịnh vượng, sung túc. Nên phải có một tòa thượng

thẩm, mà tại đó chính Đức Chúa Trời thưởng  phạt một cách công

bình và xứng đáng. Vì Ngài là Đấng dò xét trong trí, thử nghiệm

trong lòng. Sự thưởng phạt đó là thiên đàngvà địa ngục vậy.

2. Đức Chúa Giê-xu Làm Chứng.

Ngài từ thiên đàng giáng thế cách đây hơn 2.000 năm tại thành

Bết-lê-hem xứ Giu-đê. Trong ba năm chức vụ,  Chúa đã dùng đủ lời

lẽ, thí dụ, và hơn hết là chính bản thân Ngài để chứng minh có

thiên đàng, địa ngục là thực hữu. Vì thế, trong khi khuyên ai nấy yêu

mến thiên đàng, thì đồng thời Ngài cũng cảnh cáo họ về địa ngục.

II. CẢNH TƯỢNG CỦA THIÊN ĐÀNG VÀ ĐỊA NGỤC  (Đa-ni-ên 12:2;

Giăng 5:27-28).

1. Cảnh Tượng Của Thiên Đàng.

26

Nghe qua, chắc ai nấy cũng đoán ngay là nơi vui vẻ phước hạnh

quá sức tưởng tượng (Khải 21:4; Đa-ni-ên 7:18). Qua báo chí, truyền

hình đưa tin, hoặc ai đi được qua các nước Châu Âu như Pháp, Anh,

Đức… Châu Mỹ… thì có thể thấy những phong cảnh đẹp đẽ lớn lao,

những kiến trúc vĩ đại, nền văn minh tân tiến vượt quá sự suy nghĩ

của mình, phương chi nếu ta được lên Thiên đàng!

2. Cảnh Tượng Của Địa Ngục (Khải 20:4).

a. Lửa đời đời.

b. Đám lửa thiêu nuốt.

c. Hồ lửa.

d. Lửa không hề tắt.

e. Hầm diệt vong.

g. Vực sâu.

h. Nơi khóc lóc ghiến răng..

Không bút mực nào tả xiết sự đau khổ ấy đâu.

III. NGƯỜI LÊN THIÊN ĐÀNG VÀ NGƯỜI XUỐNG ĐỊANGỤC.

1. Người Lên Thiên Đàng (Giăng 3:3).

Sự tái sanh khiến ta được biến hóa, tái tạolại  ảnh tượngđẹp đẽ

của Đức Chúa Trời mà Ngài đã tạo dựng trong con người: thánh

khiết, yêu thương, công bình…, làm cho ta trở nên con cái Đức Chúa

Trời, nhưng nếu muốn duy trì được  ảnh tượngcủa Chúa, chúng ta

phải để Chúa làm chủ, sống theo lời Ngài. Như vậy ta mới được ở

cùng Ngài tại thiên đàng phước hạnh! (Đa-ni 12:3; Mat 3:8).

2. Người Xuống Địa Ngục.

Chắc không ai muốn vào đó, song nếu người không tin nhận Chúa

Giê-xu, không được tái sanh thì chắc chắn sẽvào đó (Mat 25:41;

Khải 20:5, 21:8). Ôi! Thật là đáng thương cho  số phận của những

người đi vào nơi ấy. Đi vào địa ngục thật nguy hiểm biết dường bao!

27

Kết luận:  Bạn đã biết chắc chắn có thiên đàng, địa ngục, và

nghe qua cảnh tượng vui mừng của thiên đàng,  đau khổ của địa

ngục.

Bạn cũng biết, chỉ có người được tái sanh và trở nên con cái Đức

Chúa Trời mới vào thiên đàng, còn lại tất cả phải xuống địa ngục.

Vậy bạn có suy nghĩ gì? Làm gì để được tái sanh? Làm sao để

mình được vào thiên đàng? Câu trả lời cho bạn ở trong câu Kinh

Thánh Giăng 3:16:  “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi

đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư

mất mà được sự sống đời đời”.

Bạn phải tin Chúa Giê-xu ngay trong giây phútnầy để bạn khỏi

phải vào địa ngục mà được vào thiên đàng phước hạnh.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Nước Vào Tai.

Nước vào tai bên trái thì nghiêng tai đó xuống thấp, bịt tai bên

phải và giậm chân phải, nước sẽ từ từ ra khỏi tai. Nếu nước vào tai

bên phải thì làm ngược lại.