Chuyên mục: PHỤ NỮ

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 24.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 24.5.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 24.05.2015 (Lễ Ngũ Tuần).

1. Đề tài: NGƯỜI ĐẦY DẪY ĐỨC THÁNH LINH.

2. Kinh Thánh: Lu-ca 1:15; 41-45; 67-79; 2:25-32; Công Vụ 2:11; 10:45-46; 4:8-12; 31; 13:4-12; 1Côr 14:4; 27-28.

3. Câu gốc: “Hãy nhờ Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin. Hãy dùng sự bền đỗ trọn vẹn mà tỉnh thức về điều đó, và cầu nguyện cho hết thảy các thánh đồ” (Ê-phê-sô 6:18).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 136 – 138.

5. Thể loại: Thuyết trình.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn thuyết trình.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

NGƯỜI ĐẦY DẪY ĐỨC THÁNH LINH.

Không ai có thể phủ nhận rằng trong những năm gần đây Hội Thánh Ngũ Tuần là giáo phái Tin lành phát triển nhanh chóng nhất khắp thế giới. Chúng ta phải tạ ơn Chúa và cần học hỏi tinh thần truyền giáo của anh chị em Ngũ Tuần… Một trong những đặc điểm các con cái Chúa trong Hội Thánh Ngũ Tuần thường nghĩ là được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Đầy dẫy Đức Thánh Linh là một đề tài phải cần khá nhiều giấy mực để trình bày. Trong khuôn khổ của bài học này, chúng ta chỉ nghiên cứu về phương diện người đầy dẫy Đức Thánh Linh mà thôi. Chúng ta cùng tìm hiểu xem “Người đầy dẫy Đức Thánh Linh sẽ làm gì?”

1. Người Đầy Dẫy Đức Thánh Linh Biết Im Lặng Chờ Đợi (không làm gì một thời gian dài).

Kinh Thánh cho chúng ta biết Giăng Báp-tít đã được đầy dẫy Đức Thánh Linh từ khi còn trong lòng mẹ (Lu 1:15), nhưng ông không làm gì cho đến mấy chục năm sau. Cho nên, chưa chắc người được đầy dẫy Đức Thánh Linh là phải làm điều nầy điều kia cho Chúa liền. Người đầy dẫy Đức Thánh Linh biết chờ đợi đến thời điểm Chúa muốn mình làm.

2. Người Đầy Dẫy Đức Thánh Linh Sẽ Xác Quyết Ơn Phước Chúa Ban Cho Người Khác.

Khi Ma-ri mang thai Chúa đến thăm Ê-li-sa-bét, là mẹ của Giăng Báp-tít, thì Ê-li-sa-bét được đầy dẫy Đức Thánh Linh bèn xác quyết phước hạnh mà Chúa ban cho Ma-ri (Lu 1:41-45). Điều đáng buồn của chúng ta ngày nay là thay vì xác quyết ơn phước Chúa ban cho anh chị em mình, chúng ta hay vấp phải lầm lỗi là nói ra, hoặc làm giảm giá trị ơn phước Chúa ban cho người khác. Xác quyết những điều Chúa ban cho thật là cần thiết trong việc gây dựng thân thể của Đấng Christ.

3. Người Đầy Dẫy Đức Thánh Linh Sẽ Ca Ngợi Chúa.

Khi Xa-cha-ri được đầy dẫy Đức Thánh Linh ông bèn cất tiếng ca ngợi Đức Chúa Trời (Lu 1:67-79). Cụ Si-mê-ôn khi được Đức Thánh Linh cảm động thì cất tiếng ca ngợi Đức Chúa Trời (Lu 2:25-32). Trong ngày lễ Ngũ Tuần, khi các môn đồ được đầy dẫy Đức Thánh Linh họ bèn nói về sự cao trọng của Đức Chúa Trời (Công Vụ 2:11). Khi các tín đồ tại nhà Cọt-nây đầy dẫy Đức Thánh Linh họ bèn ngợi khen Đức Chúa Trời (Công Vụ 10:45-46). Sự ca ngợi Chúa ở đây không hẳn là phải hát không thôi, mà là biết cất tiếng lên nói lời tôn vinh Chúa về kinh nghiệm phước hạnh Chúa ban cho mình.

4. Người Đầy Dẫy Thánh Linh Sẽ Dạn Dĩ Rao Truyền Phúc Âm.

Khi Phi-e-rơ được đầy dẫy Đức Thánh Linh ông liền giảng đạo Chúa cho những quan quyền mà bình thường ông rất ngại giao tiếp với họ. Khi đầy dẫy Đức Thánh Linh ông chẳng sợ họ nữa, ngược lại ông rất dạn dĩ rao truyền về Chúa cho họ (Công Vụ 4:8-12). Ông nói rất thẳng và rất mạnh, không chút sợ hãi gì, đến độ những người nghe cũng phải lấy làm lạ. Khi Hội Thánh của Chúa đầy dẫy Đức Thánh Linh thì các con cái Chúa trong Hội Thánh cũng rao truyền đạo Đức Chúa Trời cách dạn dĩ (Công Vụ 4:31).

Dầu môi trường để truyền giảng dường như không thuận lợi, Hội Thánh được đầy dẫy Đức Thánh Linh vẫn sốt sắng và mạnh dạn rao truyền đạo Chúa. Vì thế, Hội Thánh có lòng nóng cháy và dạn dĩ lo việc truyền bá Phúc Âm là một trong những dấu hiệu củaHội Thánh đang được đầy dẫy Đức Thánh Linh.

5. Người Đầy Dẫy Đức Thánh Linh Sẽ Có Khả Năng Ngôn Ngữ Phi Thường.

Có hai thứ ngôn ngữ mà người đầy dẫy Đức Thánh Linh có thể kinh ngiệm được. Một là ngoại ngữ, hai là tiếng lạ, cả hai đều bởi Đức Thánh Linh ban cho cách đột xuất, chứ không phải tập nói tiếng lạ như mọi người lầm tưởng. Giả bộ nói tiếng lạ để cho người khác tưởng mình được đầy dẫy Đức Thánh Linh hầu loè thiên hạ, là khinh thường Đức Thánh Linh chứ không phải chuyện nhỏ. Không nói được tiếng lạ, hoặc không có khả năng tự nhiên nói ngoại ngữ không có nghĩa là không được đầy dẫy Đức Thánh Linh! Có vô số người đuợc đầy dẫy Đức Thánh Linh mà không hề có ơn nói ngoại ngữ hay nói tiếng lạ. Người có ơn nói ngoại ngữ sẽ dùng ơn đó mà truyền bá Phúc Âm cho những dân tộc khác. Người có ơn nói tiếng lạ sẽ dùng ơn đó mà gây dựng cho chính mình hay cho người khác, nếu có người thông hiểu và dịch lại (1Côr 14:4, 27-28).

6. Người Đầy Dẫy Thánh Linh Sẽ Bày Tỏ Quyền Năng Chúa.

Phao-lô khi rao giảng đạo Chúa ở thành Ba-phô trên đảo Chíp-rơ, thì bị một thuật sĩ tên là Ê-ly-ma phá rối. Người nầy tìm mọi cách ngăn trở không cho người ta tin nhận Chúa. Phao-lô đầy dẫy Đức Thánh Linh bèn quở trách tên thuật sĩ và phạt cho tên ấy bị mù, tức thì tên ấy không nhìn thấy ngay tại chỗ. Nhờ đó người ta biết quyền năng của Chúa và tin nhận Ngài (Công Vụ 13:4-12).

Hội thánh Chúa cần phải có những người đầy dẫy Đức Thánh Linh. Hôm nay là thời kỳ Đức Thánh Linh đang hành động. Ngọn gió Thánh Linh đang thổi vào hội thánh Ngài khắp mọi nơi để tìm kiếm những người thật sự khát khao Ngài. Người đầy dẫy Đức Thánh Linh có khi phải chờ đợi một thời gian dài trước khi làm gì cho Chúa. Người đầy dẫy Đức Thánh Linh sẽ xác quyết ơn Chúa ban cho, lòng đầy vui mừng luôn ca ngợi Chúa, sốt sắng rao truyền đạo Chúa. Đôi khi được Chúa cho có khả năng nói ngoại ngữ thông thạo để phục vụ Chúa, hoặc có khả năng nói tiếng lạ để gây dựng cho chính mình hoặc Hội Thánh. Thỉnh thoảng cũng được Ngài ban cho quyền năng để sửa phạt những người chống đối, ngăn trở người khác tin Chúa. Đó là những đặc điểm của người được đầy dẫy Đức Thánh Linh.

Mục sư Đặng Ngọc Báu (có sửa).

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

CÁCH CHỌN TRÁI CÂY (tt).

– Chuối già ngon là chuối trái không quá to. Chuối quả to là chuối già lùn không thơm. Nên lựa thứ da vàng có thâm kim. Đó là chuối già hương rất thơm.

– Xoài ngon là xoài cát, xoài thơm. Xoài ngon, vỏ căng vàng đều, khúc đầu chín vàng mà cứng. Trên chót đuôi có chiếc mắt nhỏ, là  xoài hạt mỏng.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 17.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 17.5.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 17.05.2015 (Lễ Thăng Thiên)

1. Đề tài: BÍ QUYẾT ĐƯỢC LÒNG TRONG SẠCH.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 51:1-19.

3. Câu gốc: “Đức Chúa Trời ôi! Hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch, và làm cho mới lại trong tôi một thần linh ngay thẳng”(Thi Thiên 51:10).

4. Đố Kinh Thánh: Không đố Kinh Thánh.

5. Thể loại: Truyền giảng.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Các nhà hiền triết đông tây kim cổ đều than rằng lòng người gian ác, sâu độc. Kinh Thánh quyết rằng lòng người là xấu xa, ô uế, dối trá vô cùng: “lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa, ai có thể biết được?” (Giê 17:9), nên được tấm lòng trong sạch là quý báu biết bao. Hơn nữa Kinh Thánh cho biết người có tấm lòng trong sạch là người được phước (Mat 5:8). Vì vậy tôi muốn mỗi thanh niên có tấm lòng ấy.

I. SẴN SÀNG XƯNG TỘI LỖI CỦA MÌNH (Thi 51:1-6).

Đa-vít là một vị vua rất sang trọng, song khi ông phạm tội với Đức Chúa Trời về việc lấy vợ của U-ri, thì ông đã hết lòng ăn năn mà xưng tội lỗi mình, không giấu chi hết, với một tấm lòng đau thương thống hối (c.3-4).

1. Xưng tội mà ông đã phạm.

2. Ông còn xưng cả nguyên tội của mình nữa (c.5).

Hạt giống tội lỗi đã có trong loài người từ khi còn là một bào thai và hạt giống ấy theo thời gian mà phát triển. Đa-vít đã nhận tất cả như vậy, ông không giấu tội, không đổ thừa cho ai khác. Muốn được phước của Chúa ta cũng phải học tập gương Đa-vít như vậy.

II. HẾT LÒNG XIN CHÚA THA THỨ (Thi 51:7-9).

“Lấy chùm kinh giới tẩy sạch tội lỗi”. Lê-vi Ký 14:1-8 cho biết:

– Hai con chim vẫn sống và tinh sạch: Chúa Giê-xu.

– Cây hương nam và chùm kinh giới: Nhân tánh và thần tánh của Chúa.

– Con chim bị cắt cổ và con chim được thả đi: Sự chết và sự sống lại của Chúa Giê-xu.

– Chim nầy nhúng vào huyết chim kia rồi thả đi: Chúa đem huyết Ngài vào nơi trên trời.

– Chậu sành: Thân thể Chúa.

– Nước chảy: Đức Thánh Linh (Hêb 9:14).

Chỉ Chúa có quyền rửa sạch gian ác của chúng ta. Làm sạch luôn luôn như nước chảy mãi mãi. Làm sạch hết mọi điều gian ác. Ôi! Đa-vít khẩn thiết cầu xin Chúa tha thứ cho mình cách trọn vẹn. Sau khi ông đã nhận biết tội lỗi, ông cũng hết lòng muốn từ bỏ và xin Chúa tha thứ. Ông khao khát một tấm lòng trong sạch là dường nào!

III. XIN CHÚA TÁI TẠO LÒNG MÌNH (Thi 51:10).

1. Dựng Nên Một Lòng Trong Sạch.

Dầu Chúa đã tha thứ và rửa sạch song vẫn có thể tái phạm như trước, bởi vì tấm lòng cũ có bản tánh tội, nên ông cầu xin Chúa tạo nên trong mình một lòng trong sạch. Đó có thể gọi là sự tái sanh, nhận bản tánh Đức Chúa Trời. Với tấm lòng ấy ta mới có thể sống thỏa lòng,  sung sướng phước hạnh được. Tấm lòng ấy mới thấy được Đức Chúa Trời (Giăng 3.3).

2. Làm Mới Lại Một Thần Linh Ngay Thẳng.

Đó là sự nên thánh cũng như Chúa đã dạy trong Êxê 36:26, Giê 31:33. Bây giờ Chúa ghi khắc luật pháp của Ngài vào lòng ta và luật pháp ấy trở thành một bản tính của ta vậy. Bây giờ, dầu ta không gắng công ra sức gì mà vẫn ăn ở một cách trong sạch.

IV. BAN CHO ĐẦY DẪY ĐỨC THÁNH LINH (Thi 51:11-12).

Đức Thánh Linh ngự trong lòng ta một cách đầy dẫy là phương pháp giải quyết mọi nan đề. Nếu một tấm lòng trong trắng thì tốt, song không ích gì nếu không viết chữ trên ấy. Cũng vậy, lòng trong sạch của chúng ta dâng cho Đức Chúa Trời để viết vào đó sự yêu thương, sự vui mừng, sự bình an… của Ngài.

Đức Chúa Trời sẽ dắt dẫn cho đường lối ta một cách vững chắc. Ngài bảo đảm cho ta một cuộc đời hạnh phước. Không có gì đáng sợ bằng không có Đức Chúa Trời, minh hoạ bằng câu chuyện về vua Sau-lơ, người không có Đức Chúa Trời.

* Lời kết:Các bạn thanh niên yêu dấu! Sau khi nghe về “Bí quyết giữ lòng trong sạch” các bạn nghĩ gì? Các bạn có ước muốn mình có tấm lòng trong sạch không? Còn chần chờ gì nữa, các bạn hãy mau mau đến với Chúa Giê-xu trong tinh thần:

– Sẵn sàng xưng tội lỗi mình.

– Hết lòng xin Chúa tha thứ.

– Xin Chúa tái tạo lòng mình.

Khi bạn làm theo những điều hướng dẫn trên, tức thì Đức Chúa Trời ban Đức Thánh Linh đầy dẫy trong lòng bạn và Ngài sẽ hướng dẫn đời sống bạn, giữ lòng bạn luôn được trong sạch!

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

CÁCH CHỌN TRÁI CÂY (tt)

– Sầu riêng ngon không nhất thiết là trái có mùi thơm, màu vỏ xanh hay vàng. Trái ngon là trái có gai nở tròn trịa bằng nhau, không có vết xước, thủng sâu, không bị nứt ra, lắc thử có cảm giác bên trong như lỏng, rung (ngọt, béo) vỗ nghe âm thanh trầm, lấy tay bóp 2 gai câu vào thấy không cứng (chín không sượng).

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 10.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 10.5.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 10.05.2015.

1. Đề tài: LỄ MẪU THÂN.

2. Kinh Thánh: Châm Ngôn 31:10-31.

3. Câu gốc: “Người nữ khôn ngoan xây cất nhà mình; song kẻ ngu dại lấy tay mình mà phá hủy nó đi” (Châm 14:1).

4. Đố Kinh Thánh: Thi 133 – 135.

5. Thể loại: Kịch 5’.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn kịch.

* CÂU CHUYỆN THAM KHẢO.

BẢO VỆ TRÊN TAY.

Mục sư Thomas Collins kể rằng: Một thiếu phụ nơi ông hầu việc Chúa, sống rất bi quan và cảm thấy dường như Chúa đã bỏ mình. Một hôm gặp thiếu phụ đang bế con, Mục sư Collins bảo rằng:

– Bà buông đứa bé rơi xuống sàn nhà đi!

Thiếu phụ nhìn Mục sư ngạc nhiên, không hiểu tại sao Mục sư lại nói như thế?

Mục sư bảo: Nếu có ai trả cho bà một số tiền lớn để buông đứa bé rơi xuống sàn nhà, bà có chịu  làm không?

Hơi tức giận, thiếu phụ nói: Dù cho tôi tiền nhiều như sao trên trời, tôi cũng không buông con tôi xuống.

Lúc ấy, Mục sư ôn tồn bảo: Bà nghĩ tình thương của bà đối với đứa trẻ nầy có lớn hơn tình thương của Chúa đối với con cái Ngài chăng?

Nghe vậy, thiếu phụ bừng tỉnh.

* Trong những lúc gặp thử thách, đôi khi chúng ta nghi ngờ về sự gìn giữ của Chúa, có khi tưởng rằng Chúa bỏ rơi mình. Nên nhớ rằng, chúng ta đang ở trong tay Chúa Giê-xu, được chính Ngài bảo bọc, không có nơi nào an toàn hơn trong đôi tay toàn năng ấy.

LÒNG NHÂN TỪ CẢM HÓA.

Một bà mẹ lo lắng nhiều vì đứa con trai không đi nhà thờ mà lại theo những bạn bè xấu và tỏ ra bất mãn mọi chuyện. Người mẹ đau khổ tìm mọi cách để đưa con về đường tốt, nhưng tất cả đều vô ích. Chúa nhật nọ, bà nảy ra một ý tưởng và gọi đứa con trai lại, và nói:

“Hãy đem gói đồ này đến cho gia đình đối diện nhà chúng ta. Nếu con làm dùm mẹ điều này, mẹ hứa sẽ không quấy rầy con nữa”.

Có lẽ không muốn nghe tiếng mẹ la rầy nữa, chàng thanh niên đã nhận lời mẹ yêu cầu. Anh ta đi đến địa chỉ như mẹ dặn, bước vào một căn nhà nghèo nàn và anh thấy một người đàn bà đau ốm với ba đứa con nhỏ đang khóc vì đói. Chàng thanh niên trao vội gói đồ và muốn rút lui ngay, nhưng người đàn bà đã gọi anh trở lại:

– “Anh ơi, anh không thể đi đuợc khi tôi chưa kịp cám ơn anh. Anh là người cứu độ mà Chúa gởi đến cho chúng tôi. Xin Ngài trả công cho anh”.

Chàng thanh niên ra về lòng đầy cảm động. Ngay hôm sau anh trở lại địa chỉ nầy với một gói đồ khác mà anh đã mua với chính tiền của anh và còn ở lại chơi với mấy đứa nhỏ. Chàng thanh niên đã thay đổi cuộc sống, vì lòng nhân hậu đã làm anh mỗi ngày thêm hạnh phúc.

MẸ LÀM CON THEO.

Người chồng bảo vợ: “Mình đừng đậu xe hơi dưới gốc cây lớn trước nhà, kẻo nhựa cây nhỏ xuống làm dơ xe!”

Nhưng người vợ cứ để xe như thế vì thấy tiện cho việc đi lại của mình. Người chồng nhắc đi nhắc lại mãi, cuối cùng người vợ tức mình nói: “Không ai sai khiến được tôi hết!”

Ít lâu sau, người vợ bảo cậu con trai nhỏ của mình: “Con cất xe đạp của con đi!”

Bà thật kinh ngạc khi thấy đứa con trai lặp lại chính lời của bà: “Không ai sai khiến được con hết!”

NÊN DÂNG TUỔI THANH XUÂN CHO CHÚA.

Một thiếu nữ người bản xứ được một bà giáo sĩ nhận làm con nuôi. Cô được bà rước về ở chung, bà yêu thương cô như con ruột. Bà cho cô đi học và dạy Kinh Thánh cho cô. Cô đã tìm gặp Chúa, tin nhận Ngài làm Cứu Chúa cho cuộc đời mình. Bà giáo sĩ rất vui thỏa, và thường khuyên cô nên sớm dâng mình cho Chúa để trở nên người phục vụ Chúa như bà. Nhưng cô ấy cứ hẹn nay, hẹn mai mãi.

Thình lình một ngày kia, cô lâm bệnh nặng, phải vào bệnh viện điều trị. Mỗi ngày bà giáo sĩ đến cầu nguyện và ủi cô, thăm viếng cô. Ngày đầu bà ôm đến một bó hoa thật tươi đẹp. Đây là những loại hoa cô rất yêu thích. Cô vui lắm, nhưng sau giờ thăm bà mang hoa ra về. Cô hơi buồn, nhưng nghĩ rằng vì quá lo cho cô nên bà quên tặng hoa. Hôm sau, cũng bó hoa trên tay, những cánh hoa bắt đầu héo, không còn tươi đẹp như trước. Cô tự an ủi: Thôi có héo đôi chút cũng không sao, Song lúc ra về, bà giáo sĩ cũng quên để lại. Cô hơi bực tức về cái quên kỳ cục của bà. Ngày thứ ba, bà giáo sĩ ôm bó hoa đã tàn úa, đầu hoa bị gục xuống không còn chút vẻ gì tươi đẹp nữa. Lần này,trước khi ra về, bà đến trước giường cô nói: “Mẹ tặng bó hoa nầy cho con, mong con vui như những bông hoa tươi thắm”.

Cô gái không cầm được bực tức, nói: “Ba ngày trước bó hoa còn tươi đẹp, mẹ không tặng con. Bây giờ hoa đã úa tàn rồi, mẹ mới tặng con. Mẹ làm con buồn lắm!”

Bà giáo sĩ nhìn cô gái âu yếm và nói: “Con ơi, đời con giống như bó hoa nầy. Khi con còn thanh xuân mạnh khỏe, mẹ khuyên con nên dâng đời mình cho Chúa để phục vụ Ngài, nhưng con cứ lần lữa mãi. Con định đến lúc héo tàn, bệnh hoạn rồi mới chịu dâng đời mình cho Chúa hay sao?”

NHỜ CHÚA CẤT SỰ TRẢ THÙ.

Một đứa bé thường hay đánh lại đứa nào đánh nó. Mẹ nó dạy: “Con hãy nhờ Chúa mà thắng tính ấy”.

Hôm sau bà hỏi nó: “Con ơi, hôm nay sao con có vẻ vui như thế?”

Nó đáp: “Thưa mẹ, hôm nay con chỉ đánh trả lại bạn đánh con một cái mà thôi!”

Bà khuyên: “Con hãy nhờ Chúa cất sự giận ra khỏi lòng và đặt sự nhu mì, nhịn nhục thay cho tính xấu xa đó, hầu giúp con đắc thắng luôn. Như thế mới đẹp ý Chúa và vui lòng mẹ”.

Cách vài ngày sau đứa bé về thưa với mẹ: “Mẹ ơi, hôm nay con đã thắng cơn giận, con không đánh trả bạn một cái nào hết”.

Mẹ nó hỏi: “Bề ngoài con nín chịu, nhưng trong lòng con muốn đánh lại bạn không?”

Nó thưa: “Mẹ ơi, trong lòng con thật muốn như vậy”.

Vài ngày sau nữa, nó chạy về thưa: “Mẹ ơi, nhờ Chúa con không đánh lại bạn mà trong lòng con cũng chẳng còn muốn đánh bạn chút nào cả”.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

CÁCH CHỌN TRÁI CÂY.

– Bưởi ngon là bưởi cầm lên thấy nặng đều, vỗ thấy âm thanh đều, màu sắc vỏ tươi.

– Dưa hấu ngon là có núm cuống nhỏ, vỏ có nhiều gân, trái tròn, nặng (trái nhẹ là dưa bọng ruột vì đã quá già). Vỏ dưa bóng, thẳng da, không nhám và sậm màu.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 03.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 03.5.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 03.05.2015.

1. Đề tài: CHIẾU SÁNG CHO NGƯỜI.

2. Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 5:14-16.

3. Câu gốc: “Sự sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời” (Mat 5:16).

4. Đố Kinh Thánh: Đố theo chủ đề.

5. Thể loại: Họp bạn – Đố Kinh Thánh.

* CHỈ DẪN: Họp bạn.

1. Tham dự: Mời một hay nhiều ban phụ nữ của các Hội Thánh tham dự họp bạn.

2. Chương trình: Nhiều tuần trước ngày họp bạn, mời đại diện các ban phụ nữ họp lại để cùng hoạch định chương trình và phân chia công tác:

– Thời gian, địa điểm, chủ đề, câu gốc, thể loại thực hiện…

– Phân chia trách nhiệm cho từng ban: Tập hát, làm chứng, đố Kinh Thánh, phần thưởng, sinh hoạt, hướng dẫn chương trình, ẩm thực… Mỗi ban chịu một số tiết mục, nên mời một người soạn và đố Kinh Thánh.

3. Tiết mục: Các tiết mục nên có trong ngày họp bạn là: Bài ca mới, ca ngợi và cảm tạ, đố vui, kịch, trò chơi lớn…

4. Bảng tên: Dự kiến số người tham dự và số người cho mỗi nhóm để chuẩn bị các màu giấy thích hợp cho việc chia nhóm, mỗi màu là một nhóm. Bảng tên phải ghi rõ tên và Hội Thánh, để mọi người dễ làm quen. Sau đó mỗi nhóm cử một trưởng nhóm, một thư ký nhóm điều khiển nhóm mình tham gia trò chơi và sinh hoạt.

5. Phần thưởng: Phần thưởng cho sinh hoạt nhóm phải sử dụng phù hợp cho giờ thông công sau đó.

* CHỈ DẪN: Đố Kinh Thánh.

Họp bạn kỳ này đúng vào dịp đầu năm mới âm lịch, người đố Kinh Thánh nên soạn câu đố theo đề tài năm mới, nội dung phải phù hợp với trình độ của ban viên, nếu không đủ Kinh Thánh thì đố theo trí nhớ (xem cách đố Kinh Thánh trong “Phương Pháp Tổ Chức Các Ban Ngành Trong Hội Thánh”).

1. Mỗi ban phụ nữ nên cử ra một đại diện tham gia ban giám khảo. Các giám khảo phải có đáp án trước để việc chấm điểm được chính xác và công bằng.

2. Mỗi câu trả lời đúng được 10 điểm, sai bị trừ 5 điểm. Sau đó tổng kết và phát thưởng.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

TRÀ.

– Giữ trà thơm lâu.

Không cho trà tiếp xúc với ánh sáng. Hãy cho trà vào hộp thiếc có lót giấy hoặc lọ bằng sành sứ. Nếu cho vào lọ thủy tinh, nó sẽ mất thơm.

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 26.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 26.04.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 26.04.2015.

1. Đề tài: A-GHÊ – NGƯỜI KHUYẾN KHÍCH DÂN SỰXÂY DỰNG

ĐỀN THỜ.

2. Kinh Thánh:A-ghê 1:1-2:9.

3. Câu gốc:  “…Hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn,  vì biết

rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích

đâu”(1Cô-rinh-tô 15:58b).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 130-132.

5. Thể loại: Trò chơi lớn.

* CHỈ DẪN: Trò chơi lớn.

CHỦ ĐỀ: A-GHÊ KHUYẾN KHÍCH DÂN SỰ XÂY ĐỀN THỜ.

Địa điểm: Khuôn viên nhà thờ (hoặc nơi sinh hoạt).

Thời gian: 90 phút.

I. CHUẨN BỊ.

– Cần ít nhất 2 người để phối hợp soạn câu hỏi và đặt mật thư tại

mỗi trạm, chấm điểm, theo dõi để có thể hướng dẫn khi cần. Chuẩn

bị nội dung cho mỗi trạm để các nhóm thảo luận, cung cấp giấy bút

cho các nhóm có yêu cầu. Sau khi nhận mật thư, cả nhóm sẽ tham

gia giải mật thư, trình ban tổ chức và đến trạm kế tiếp…

– Mật mã: Từ nhiều tuần trước, hướng dẫn ban viên ôn lại chữ

điện tín, các mật mã đã dùng trong các tài  liệu trước và học thêm

mật mã mới. Chỉ nên dùng mật mã nào ban viên có thể dịch thành

thạo.

– Mật thư: Mật thư phải được viết và giữ kínđáo, kiểm tra kỹ để

tránh sai sót. Nội dung mật thư là một mệnh  lệnh hoặc gợi ý về

những nhân vật, nơi chốn… Mật thư phải ngắn gọn và đủ nghĩa. Mật

thư được giấu tại trạm hay do người đứng trạm giữ. Nếu đặt tại trạm,

không nên tập trung tại một chỗ.

91

– Địa điểm: Vẽ những dấu chỉ đường.

– Vật dụng: Kinh Thánh, giấy, bút, các bản mật mã đã học.

– Kinh Thánh: Thông báo cho ban viên đọc trước A-ghê 1:1-2:9.

II. THỰC HIỆN.

1. Thể Lệ Cuộc Thi Và Cách Chấm Điểm.

a. Thể lệ cuộc thi.

– Tất cả nhóm viên tham gia đầy đủ.

– Đến trạm, phải sắp hàng ngay ngắn và báo  cáo kết quả của

trạm trước.

– Thực hiện tất cả yêu cầu tại mỗi trạm.

b. Cách chấm điểm.

– Tinh thần tham gia (đầy đủ nhóm viên) …………………10 điểm.

– Giải chính xác mật thư …………………………………………10 điểm.

– Thực hiện đạt yêu cầu tại trạm………………………………10 điểm.

– Đến trạm sớm nhất ……………………………………………..10 điểm.

– Thực hiện tốt nội dung thảo luận ……………………………10 điểm.

2. Diễn Tiến Trò Chơi.

a. Mở đầu.

Ban tổ chức chia số người tham gia sinh hoạt ra làm nhiều nhóm,

mỗi nhóm từ 8-10 người. Nhóm xếp hàng dọc.  Cử nhóm trưởng và

thư ký nhóm, đặt tên nhóm. Khi các nhóm đã  ổn định, người hướng

dẫn giới thiệu chủ đề:

A-GHÊ KHUYẾN KHÍCH DÂN SỰ XÂY ĐỀN THỜ.

– Thưa các bạn! Sau thời gian lưu đày ở Ba-by-lôn, từ năm 537

T.C. dân Giu-đa được phép hồi hương và bắt đầu xây sửa đền thờ

Giê-ru-sa-lem. Nhưng sau đó vì kẻ thù chung quanh dấy lên quấy

phá, nên họ ngã lòng bỏ dỡ công việc. Trong tình trạnh ấy A-ghê

mang lời Chúa đến cùng dân sự để khích lệ họ trong việc xây lại

92

đền thờ Chúa và A-ghê đã thành công trong sứ điệp. Lời kêu gọi này

nhắc nhở chúng ta ngày nay có trách nhiệm thế nào đối với việc

nhà Ngài? Mời các chị em tham gia vào chương trình hôm nay để

giục lòng mạnh mẽ qua sứ điệp của tiên tri A-ghê.

b. Xuất phát.

NHD cho các nhóm xuất phát bằng trò chơi “Chia sẻ khó khăn”.

– Vật dụng: Chuẩn bị một số viên bi hoặc trái chanh tương ứng

với số nhóm, và muỗng tương đương với số người chơi.

– Cách chơi: Mỗi nhóm cử ra 3-6 người đứng thành hàng dọc,

mỗi người chơi ngậm trong miệng mình một cái muỗng. NHD đứng

trước cách các hàng 5-7m. Người đứng đầu mỗi nhóm ngậm một

muỗng, trên muỗng có một viên bi (hoặc tráichanh). Khi có lệnh,

người ngậm muỗng đi tới NHD vòng ra sau lưng rồi về chuyền lại bi

(hoặc chanh) cho người thứ hai (không được dùng tay). Cứ tiếp tục

cho đến người cuối cùng. Nhóm nào xong trướclà thắng cuộc.

– Lưu ý: Mỗi lần rớt bi được phép lượm lên,nhưng phải trở về vị

trí xuất phát để tiếp tục đi lại.

* Chế biến: Có thể cử mỗi nhóm một người để cùng ngậm

muỗng bi chạy thi, ai làm rớt sẽ bị loại.

– Nhóm có người thắng cuộc sẽ được nhận mật thư trước và tập

trung nhóm lại để giải mật thư.

_Mật thư 1:TIMF NGUOWIF DDANG KHIEENR TRACHS DAAN

SWJ BEE TREEX VIEECJ NHAF CHUAS.

– Chìa khoá: Chữ điện tín.

⌦Trạm 1.

_Yêu cầu:

– Tập trung nhóm thành hàng dọc, báo cáo sốngười trong nhóm.

– Phát câu hỏi đã viết sẵn trên giấy, cho nhóm thảo luận và trả

lời ra giấy hoặc hỏi đáp.

93

Đọc A-ghê 1:1-15, xin cho biết:

1. Lý do nào khiến dân sự bỏ việc xây đền  thờ? Lý do nầy có

hợp lẽ không?

2. Trong khi bỏ bê công việc Chúa, dân sự loviệc gì?

3. Làm công việc đó dân sự chuốc lấy hậu quả gì?

4. Qua lời cảnh cáo của A-ghê, dân sự có quyết định gì?

_Mật thư 2:TIMF DAAN NGUOWIF SWJ DDANG HAAUF

KHUYEENS VIEECJ KHICHS CHUAS.

– Chìa khóa: Cóc nhảy hai lần.

⌦Trạm 2.

_Yêu cầu:

– Tập trung nhóm thành hàng dọc, báo cáo sốngười trong nhóm.

– Phát câu hỏi viết sẵn ra giấy, cho nhóm thảo luận và trả lời

trên giấy hoặc hỏi đáp.

1. Đọc A-ghê 2:1-3 cho biết tiên tri thúc đẩydân sự thế nào

trong việc xây dựng lại đền thờ?

2. Đọc A-ghê 2:4-5, tiên tri khích lệ người lãnh đạo dân sự

những lời nào?

3. Đọc A-ghê 2:4-9, những lời khích lệ trên đi kèm với những lời

hứa nào?

4. Đọc A-ghê 21:5-11 và 2:15-19, so sánh cuộc  sống của dân

sự khi làm việc nhà và khi làm việc Chúa khác nhau thế nào? Từ

đó, cho bạn nguyên tắc sống nào (Mat 6:33).

5. Sứ điệp nầy có ý nghĩa gì đối với Cơ đốcnhân chúng ta hôm

nay?

– NHD phát lệnh: “Các nhóm tập trung về điểm xuất phát”.

3. Kết thúc.

– NHD cùng ban Phụ nữ tóm lược lại nội dung sứ điệp của A-ghê.

94

– Kêu gọi các ban viên chung tay, góp sức xây dựng nhà Đức

Chúa Trời.

– Công bố kết quả và phát thưởng.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

I. GIỚI THIỆU.

A-ghê được Đức Chúa Trời kêu gọi làm tiên  tri sau thời kỳ dân

Giu-đa bị lưu đày. A-ghê bắt đầu chức vụ năm520 T.C. nhằm năm

thứ hai sau đời Vua Đa-ri-út, vua Mê-đi Ba-tư.

Sau thời gian ở Ba-by-lôn, từ năm 537 T.C. dân Giu-đa được phép

hồi hương và bắt đầu xây sửa đền thờ Giê-ru-sa-lem. Nhưng sau đó

vì kẻ thù chung quanh dấy lên quấy phá, nên  họ ngã lòng bỏ dỡ

công việc. Trong tình trạnh ấy A-ghê đem lời Chúa đến cùng dân sự

qua bốn sứ điệp quan trọng sau đây:

(1) Khiển trách dân sự bê trễ việc nhà Chúa.

(2) Khuyến khích dân sự hầu việc Chúa.

(3) Rao báo sự vinh quang của đền thờ mới.

(4) Dự ngôn nước hầu đến của Đấng Mê-si vàphước hạnh của

dân Chúa.

Điểm chủ yếu của sứ điệp A-ghê là kêu gọixây lại đền thờ Chúa.

Lời kêu gọi này nhắc nhở con dân Chúa có trách nhiệm thế nào đối

với việc nhà Ngài?

II. DẪN GIẢI.

1. Lời Cảnh Cáo Về Sự Bỏ Phế Việc Nhà Chúa.

Có hai lý do khiến dân sự đình hoãn việc xây lại đền thờ Chúa:

a. Bị kẻ thù quấy phá:Họ là những dân bản xứ sinh sống trong

phần đất Sa-ma-ri đã nổi dậy chống lại việcxây đền thờ Chúa,

khiến dân sự ngã lòng bỏ cuộc (E-xơ-ra 4).

b. Thì giờ chưa đến! “Đức Giê-hô-va vạn quân có phán như vầy:

Dân nầy nói rằng: Thì giờ chưa đến, tức là  thì giờ xây lại nhà Đức

95

Giê-hô-va”(1:2). Thì giờ ở đây chỉ về sự ứng nghiệm của lời tiên tri.

Theo dự ngôn của tiên tri Giê-rê-mi và Ê-sai, thì dân Giu-đa sẽ bị

đày qua Ba-by-lôn 70 năm, sau đó họ sẽ trở về xây lại đền thờ với

sự hỗ trợ của vua Si-ru (Giê 25:11; Ê-sai 44:28). Đối với dân sự, thì

giờ này chưa đến. Nhưng thực ra đối chiếu với lời tiên tri và sự kiện

như đã xảy ra thì thời điểm (giờ) đã đến rồi. Khi vua Si-ru lên ngôi

vua nước Phe-rơ-sơ (Ba Tư) đã ra chiếu chỉ cho phép dân Giu-đa hồi

hương để xây lại đền thờ Chúa vào năm 537 T.C. như điều các tiên

tri đã nói trước (E-xơ-ra 1:1-4).

Hai lý do trên nhắc nhở chúng ta những điều sau này:

(1) Người làm công việc nhà Chúa chắc khôngtránh khỏi sự phá

hoại của ma quỷ, nên chúng ta phải hết lòngnương cậy Chúa.

(2) Sự không nhận thức được thì giờ của Chúa, khiến ta bê trễ

trong công việc nhà Chúa. Ngày nay chúng ta nghĩ rằng ngày Chúa

trở lại còn xa lắm, nên không bắt lấy mọi  cơ hội hầu việc Ngài!

Nhưng thực ra theo sự bày tỏ của Kinh Thánh với các biến cố đang

xảy ra trên thế giới, thì ngày Chúa đến gầnlắm rồi! Vậy chúng ta

hãy biết  “Lợi dụng thì giờ… vì nếu chúng ta không trễnãi, thì đến

kỳ, chúng ta sẽ gặt”(Êph 5:16; Gal 6:9).

Với sự viện cớ thì giờ chưa đến để làm công việc riêng tư và bỏ

qua việc nhà Chúa: Tiên tri A-ghê đã quở trách sự bê trễ của dân sự.

Qua sứ điệp của Chúa, A-ghê đã bày tỏ cho họ thấy lỗi lầm của

mình:

– Lấy thì giờ của Chúa làm thì giờ của mình:  “Nay có phải là thì

giờ các ngươi đương ở trong nhà có trần ván,khi nhà nầy hoang vu

sao?”(1:4): Đáng lẽ dân sự tận lực dùng thì giờmình để xây nhà

Chúa trước hết. Trái lại lo xây nhà riêng để hưởng thụ an nhàn, ấm

cúng bên trong!

– Làm sai lệch đường lối Chúa: “Các ngươi khá xem xét đường lối

mình”(1:7): Theo chương trình của Đức Chúa Trời, mục đích chính

yếu của Ngài trong sự hồi hương là xây lại  đền thờ Giê-ru-sa-lem,

96

chuẩn bị cho ngày hiện đến của Đấng Mê-si để cứu chuộc nhân loại.

Nhưng thay vì hoàn thành mục đích của Chúa, dân sự xoay qua mục

đích riêng tư của mình, lo tạo dựng sự nghiệp, tìm kiếm sự giàu

sang để hưởng thụ. Vì vậy, công việc của họchỉ là lao khổ và mệt

nhọc, không được Chúa ban phước: “Các ngươi gieo nhiều mà gặt ít;

ăn mà không no; uống mà không đủ; mặc mà không ấm; và kẻ

nào làm thuê, đựng tiền công mình trong túi lủng”(1:6). Qua những

biến cố nguy vong của đất nước, và những ngày sống lưu vong nơi

đất khách, dân sự chắc hẳn có kinh nghiệm về sự phù du của vật

chất. Khi trở về xứ, Đức Chúa Trời muốn dạy họ một nguyên tắc

sống có giá trị hơn: Tìm kiếm Chúa trước nhất chớ không phải tìm

kiếm vật chất; cũng như đặt việc Chúa trướcviệc của mình. Điều này

không có nghĩa chúng ta chỉ lo việc nhà Chúa mà không lo việc mưu

sinh. Nhưng đây là sự đặt thứ tự ưu tiên chocông việc Chúa trước

các công việc của mình, và tất cả phải hướng về mục đích duy nhất

vinh danh Chúa. Khi người sống theo nguyên tắcnày thì chắc sẽ

không thiếu nhu cầu vật chất cho mình, như trong lời dạy dỗ của

Chúa Giê-xu:  “Trước hết hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời  và sự

công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm cácngươi mọi điều ấy

nữa”  (Mat 6:33). Cho nên sở dĩ dân sự làm việc màchẳng gặt kết

quả chi, vì cớ sai nguyên tắc của Chúa cho đời sống:  “Ấy là tại nhà

ta thì hoang vu, mà các ngươi ai nấy lo xây nhà mình. Cho nên, vì

cớ các ngươi, trời giữ móc lại, và đất giữbông trái lại. Ta đã gọi

cơn hạn hán đến trên đất, trên các núi, trên lúa mì, trên rượu mới,

trên dầu và trên sản vật đất sanh ra, trên  loài người, trên loài vật,

và trên mọi việc tay làm” (1:9-11).

Sau lời quở trách, A-ghê đã thách thức dân  chúng trở lại công

việc nhà Chúa:  “Hãy lên núi, đem gỗ về, và xây nhà nầy, thì ta sẽ

lấy nó làm vui lòng, và ta sẽ được sáng danh”  (1:8). Nghe sứ điệp

của A-ghê, dân chúng nhận biết đây là mạnglịnh của Chúa qua đầy

tớ Ngài nên có lòng sợ hãi ăn năn tội lỗi mình và trở lại vâng lời

Chúa. Với lời hứa được Chúa ở cùng và được sự thúc giục của Ngài

97

trong lòng, bây giờ cả người lãnh đạo đến dân sự  “…đều đến, làm

việc nơi nhà Đức Giê-hô-va vạn quân, là Đức Chúa Trời”(c.14).

Trong sự đem dân sự trở lại công việc nhà Chúa, chúng ta nhận

thấy có 2 yếu tố:

– Bên ngoài: Đức Chúa Trời sai đấng tiên triđem lời cảnh cáo

dân chúng và kêu gọi sự ăn năn.

– Bên trong: Đức Chúa Trời giục lòng dân sự, khiến họ đứng lên

bắt tay vào việc. Đây là hai điều quan trọngngười lãnh đạo cần ghi

nhận trong việc đôn đốc người bắt tay làm việc nhà Chúa.

2. Khuyến Khích Trong Công Việc Chúa

A-ghê chẳng những đem lời Chúa kêu gọi dân  sự trở lại tiếp tục

việc xây đền thờ, nhưng còn có lời khuyến khích họ đến chỗ hoàn

thành công việc. Với dân sự, A-ghê gợi lạitrong ký ức của họ bức

ảnh đền thờ Giê-ru-sa-lem vinh quang rực rỡ trong quá khứ trước khi

vương quốc Giu-đa chưa sụp đổ, so với quang cảnh đổ nát của đền

thờ đang ở trước mắt họ lúc ấy, để khiến dân sự thêm lòng hăng hái

trong công việc xây lại đền thờ Chúa vì vinhhiển danh Ngài (2:1-3).

Với Xô-rô-ba-bên, Giê-hô-sua là người lãnhđạo của dân sự, A-ghê đem lời Chúa giục lòng họ  “…các ngươi cũng khá can đảm, và

hãy làm việc… chớ sợ hãi”(2:4-5). Kèm theo đó với ba lời hứa:

(1) Sự hiện diện của Chúa.

(2) Sự hiện diện của thần Ngài.

(3) Sự vinh hiển của đền thờ (2:6-9).

Qua cảnh đền thờ đang bị đổ nát, họ nhìn thấy một viễn ảnh thật

vinh hiển, sáng chói của đền thờ Giê-ru-sa-lem trong tương lai. Ba lời

hứa trên rất là quan trọng trong sự khích lệngười hầu việc Chúa,

khiến được mạnh mẽ trong lòng, không sợ hãikẻ nghịch mưu phá,

vì cớ Chúa ở cùng; được can đảm trong công việc vì có Thần Ngài ở

giữa với quyền năng lớn Ngài nâng đỡ; và được phấn khởi với niềm

98

hy vọng về vinh quang rực rỡ của đền thờ Giê-ru-sa-lem trong Nước

của Vua Hoà Bình sắp đến.

Qua sự khích lệ của A-ghê, chúng ta học được:

(1) Người được Chúa gọi vào công việc Chúa,cũng sẽ được Ngài

ở cùng và ban cho quyền năng để làm thành công việc.

(2) Niềm hy vọng về ngày vinh hiển của Đấng Christ trở lại cũng

là niềm phấn khởi cho chúng ta trong công việc Chúa hiện tại.

3. A-ghê Với Sứ Mạng Chúa Gọi.

Trong hai tháng ngắn ngủi, với bốn sứ điệp của Chúa cho dân sự,

A-ghê đã thành công trong sứ mạng. Dân sự hăng hái bắt tay vào

việc nhà Chúa. Kết quả họ được Chúa ban phước dồi dào. So sánh

với đoạn 1: Khi bỏ bê việc nhà Chúa, đất đai họ bị cằn cỏi khô héo,

nhưng trong đoạn 2: Khi vâng lời Chúa trở lạicông việc Ngài, họ

được dư dật hoa màu (2:16-19). Đây là thực chứng cho nguyên tắc

căn bản trong Ma-thi-ơ 6:33, trước hết là ưu tiên cho công việc

Chúa. Qua các sứ điệp của A-ghê cho chúng tahọc biết Đức Chúa

Trời trong những khía cạnh này: Ngài là ĐấngThành Tín, giữ giao

ước Ngài; cũng là Đấng Quyền Năng, ban nănglực cho người hầu

việc Ngài; và là Đấng chủ hữu mọi tài vậttrên đất như lời Ngài

phán:  “Bạc là của ta, vàng là của ta”(2:8). Sự học biết Đức Chúa

Trời trong những khía cạnh trên để dạy chúngta thêm lòng kính sợ

Chúa, và có đức tin nơi lời hứa thành tín của Ngài. Đừng quá lo lắng

về vật chất, cũng đừng lo thâu trữ của cải, vì mọi sự thuộc về Chúa.

Nhưng điểm quan trọng là đời sống tin cậy Chúa và phục sự Ngài.

Tóm lại, với sứ mạng của A-ghê kêu gọi dân Chúa xây đền thờ,

khuyến khích chúng ta hôm nay trong sứ mạng xây dựng nhà Chúa,

hoặc đó là việc làm chứng nhân cho Chúa, kêu gọi mọi người tin

nhận Chúa Giê-xu để được trở nên con cái Đức Chúa Trời, hoặc đó là

việc chăm sóc đức tin anh em trong Hội Thánh…Nhưng một câu hỏi

cho chính mình là: Tôi có thái độ và tinh thần như thế nào đối với

công việc nhà Chúa? Xao lãng, bê trễ hay sốt sắng, hăng hái?

99

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Lời quở trách dân sự về sự bỏ phế việcnhà Chúa:

a. Lý do khiến dân sự bỏ qua việc xây lại đền thờ? (1:2) Lý do

này có hợp lẽ không?

b. Trong khi bỏ qua việc nhà Chúa, dân sự lo  công việc nào?

(1:4-9).

c. Trong sự lo việc nhà mình, dân sự chuốc lấy những hậu quả

nào? Tại sao? (1:5-11).

d. Hai yếu tố nào (điều gì) dân sự phải làmtheo? (1:12-14).

2. Khuyến khích trong công việc Chúa:

a. Trong 2:1-3: A-ghê thúc đẩy dân sự trong việc xây dựng lại

đền thờ Chúa thế nào?

b. Trong 2:4-5: A-ghê có những lời nào khích lệ các nhà lãnh

đạo dân sự?

c. Những lời khích lệ trên được kèm theo vớinhững lời hứa

nào? (2:4-9). Xin tìm hiểu tính chất quan trọngcủa lời hứa.

3. So sánh khi dân sự lo việc nhà mình thì gặt lấy hậu quả gì?

Và khi dân sự lo việc nhà Chúa thì được kếtquả gì? (1:5-11; 2:15-19). Qua sự so sánh này cho chúng ta học biếtnguyên tắc căn bản

nào trong nếp sống đạo của con dân Chúa? (Mat 6:33).

4. Sứ điệp A-ghê kêu gọi xây lại đền thờ Chúa có ý nghĩa gì đối

với Cơ đốc nhân chúng ta hôm nay? Và khuyến khích chúng ta trong

sứ mạng nào? (Rô 12:11; 1Côr 15:58; Ê-phê 5:16-17; Gal 6:9).

5. Qua sứ điệp, A-ghê bày tỏ Đức Chúa Trời  trong những khía

cạnh nào?

6. Ghi nhận những điểm quan trọng qua các sứ điệp của A-ghê.

7. Nhìn lại chính mình, xin cho biết:

a. Bạn sốt sắng việc nhà Chúa hay bê trễ việc nhà Ngài?

100

b. Công việc Chúa đối với bạn là việc quan trọng hàng đầu hay

chỉ là việc phụ?

c. Với người xao lãng việc Chúa, bạn có sứ mạng gì?

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

TÔM.

– Để Quết Tôm Được Dai.

Cần lau tôm cho khô trước khi quết. Sau khi quết nhuyễn, thêm

gia vị và một lòng trắng trứng. Không nên dùng hàn the. Quết lại để

trứng và tôm nhuyễn vào nhau.

 

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 19.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 19.04.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 19.04.2015.

1. Đề tài: SÔ-PHÔ-NI – NGƯỜI KÊU GỌI CÁC DÂN TRÊN ĐẤT TÌM

KIẾM CHÚA.

2. Kinh Thánh:Sô-phô-ni đoạn 1 và 2.

3. Câu gốc: “…Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va, tìm kiếm sự công bình,

tìm kiếm sự nhu mì”(Sô-phô-ni 2:3b).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 127 – 129.

5. Thể loại: Học Kinh Thánh.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn thể loại học Kinh Thánh.

1. Đọc A-ghê 1:2-3, mô tả sự đoán xét của Đức Chúa Trời?

2. Đọc A-ghê 1:4-13; 2:4-7,8-11,12,13-15, cho biết những ai bị

Đức Chúa Trời đoán xét và cho biết lý do?

3. Bạn học biết gì về Đức Chúa Trời, về quyền năng và sự đoán

xét của Ngài?

4. Trong A-ghê 2:1-3, tiên tri Sô-phô-ni kêu gọi các dân nhóm lại

tìm kiếm điều gì?

5. Tại sao phải tìm kiếm Đức Giê-hô-va ?

6. Bạn được nhắc nhở điều gì qua lời kêu gọi của tiên tri?

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

I. GIỚI THIỆU.

Tên Sô-phô-ni có nghĩa “Chúa che giấu và bảo vệ”. Ông là người

đồng thời với tiên tri Na-hum và Giê-rê-mi,  được Chúa kêu gọi làm

tiên tri vào khoảng năm 625-610 T.C. đã chứngkiến cuộc phục hưng

tôn giáo vĩ đại dưới triều vua Giô-si-a vào năm 621 T.C.

Mặc dầu dân sự hứa nguyện trở lại cùng Đức Chúa Trời, nhưng

Sô-phô-ni đã nói trước về sự lưu đày của Giu-đa, vì tội lỗi họ quá lớn

không thể tránh khỏi sự đoán phạt của Chúa. Ngoài ra trong sứ điệp

Sô-phô-ni còn có ba dự ngôn quan trọng là:

85

1. Sự đoán xét của Chúa trên khắp thế giớitrong ngày sau cùng,

2. Sự cải đạo của các nước.

3. Sự hiện đến của Đấng Mê-si. Với sự rao báo ngày của Chúa,

Sô-phô-ni cũng đã kêu gọi các dân trên đất hãy tìm kiếm Đức

Chúa Trời.

Lời kêu gọi này có ý nghĩa gì đối với Cơ đốc nhân chúng ta?

II. DẪN GIẢI.

1. Sự Đoán Xét Của Đức Chúa Trời.

Không như tiên tri Na-hum chỉ rao sự đoán xét cho Ni-ni-ve, Sô-phô-ni có sứ mạng của Chúa rao sự đoán xéttrên cả thế gian. Một

sự đoán phạt thật là khinh khủng trên khắp  đất:  “Ta sẽ diệt sạch

mọi sự khỏi mặt đất, Đức Giê-hô-va phán vậy. Ta sẽ diệt loài người

và loài thú, chim trời và cá biển, cùng mọi sự ngăn trở với kẻ dữ;

và Ta sẽ trừ diệt loài người khỏi mặt đất,Đức Giê-hô-va phán vậy”

(1:2-3). Trong phạm vi đoán xét này gồm có:

a. Tuyển dân Y-sơ-ra-ên(1:4-13). Trong câu 5 và 6 cho thấy có

3 hạng người bị đưa đến sự đoán xét của Chúa:

(1) Người thờ thần tượng: Thần tượng dân Y-sơ-ra-ên hay thờ lạy

là Ba-anh, thần của người A-si-ry được nhập từ đời vua Ma-na-se

(2Vua 21:3). Đức Chúa Trời quyết rằng sẽ trừdiệt thần tượng giả dối

ấy cùng với kẻ xây bỏ Chúa.

(2) Người vừa tôn thờ Chúa vừa thờ lạy hìnhtượng. Đây là hạng

người đi giẹo hai bên mà tiên tri Ê-li đã có lần quở trách dân sự

rằng:  “Các ngươi đi giẹo hai bên cho đến chừng nào?Nếu Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, khá theo Ngài; nếu Ba-anh là Đức Chúa Trời,

hãy theo hắn”(1Vua 18:21).

(3) Người chối bỏ luật pháp thánh của Chúa và làm theo ý muốn

mình. Trong Ma-thi-ơ 6:24, Chúa đòi hỏi dân sựChúa tôn thờ Ngài là

Vua của đời sống, và sống theo ý muốn Ngài.

Chúng ta đang đứng trong hạng người nào?

86

Xã hội Y-sơ-ra-ên trong thời tiên tri Sô-phô-ni ảnh hưởng về các

tập tục và tôn giáo của A-si-ry, cả đến trong cách ăn mặc “áo lạ”

(c.9). Cho thấy rằng họ bỏ nếp sống đạo theotiêu chuẩn công bình,

chánh trực của Chúa và bị đồng hoá với nếpsống của dân ngoại,

buông mình trong sự bại hoại, đầy dẫy sự bạo ngược và quỷ quyệt.

Vì cớ phạm tội dường ấy, nên từ các quan trưởng đến dân sự không

ai tránh khỏi cơn thạnh nộ của Ngài (c.7-13).Điều này nhắc nhở Cơ

đốc nhân chúng ta phải có đời sống biến đổi, phân rẽ với thế gian,

nhất là coi chừng những “kiểu áo lạ” của sự bại luân (đồi bại về luân

lý, đạo đức). Trong nếp sống đạo, người Cơ Đốc được Kinh Thánh

khuyến khích có cách trang phục trang nhã, hoà hợp với đức khiêm

nhu bên trong. Đức Chúa Trời chẳng những đoán xét tấm lòng chúng

ta, nhưng cũng đoán xét trong cách sống của chúng ta nữa.

b. Các nước thế gian(1:14-2:15): Trong sự đoán xét thế gian,

Sô-phô-ni đặc biệt rao sự phán xét của ĐứcChúa Trời trên các dân

tộc lân bang của Y-sơ-ra-ên.

(1) Phi-li-tin (2:4-7): Dân Phi-li-tin sống ở miền duyên hải (vùng

ven biển), vì phía Tây giáp Địa Trung hải, phíaĐông giáp Ca-na-an,

phía Nam gần Ai-cập, đã xuất hiện từ khoảng  năm 1200 T.C. Trong

thời các quan xét, dân này đã nhiều phen quấy nhiễu làm hại dân

Chúa. Cho nên Đức Chúa Trời sẽ khiến đất họ bị hoang vu và Y-sơ-ra-ên sẽ nhận đất ấy trong ngày họ hồi hương.

(2) Mô-áp và Am-môn (2:8-11): Là hai nước láng giềng của Y-sơ-ra-ên, nhưng đã từng đối xử tệ bạc với dânChúa. Vì thế Chúa sẽ huỷ

diệt họ như đã huỷ diệt thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ!

(3) Ê-thi-ô-bi (2:12): Là nước “Cúc” trong tiếng Hê-bơ-rơ”, dân

tộc Soudanaisngày nay, nằm phía Đông nam Ai Cập và hai bờsông

Ni-lơ (Nile). Thời Ai-cập hưng thịnh, Ê-thi-ô-bi phục thuộc dưới quyền

Ai Cập. Vì dân này mạnh bạo, ưa chiến tranh,  nên vua Ai-cập hằng

mộ họ làm quân đội và thị vệ. Vì thế Ê-thi-ô-bi và Ai-cập có mối

87

liên hệ với nhau mật thiết, hai nước từng làm hại Y-sơ-ra-ên, nên

Chúa sẽ đoát phạt tùy theo công việc họ làm.

(4) A-si-ry (2:13-15): Là một đế quốc hùng mạnh một thời,

nhưng đã đối xử tàn bạo với Y-sơ-ra-ên khi họ bị bắt lưu đày. Đức

Chúa Trời sẽ khiến A-si-ry hoang vu và bị sỉ nhục giữa các dân như

điều tiên tri Na-hum đã rao báo.

2. Lời Kêu Gọi Ăn Năn.

Ngày đoán xét của Chúa chắc sẽ đến, không ai có thể tránh khỏi.

Dầu vậy, Chúa vẫn còn cho họ cơ hội để ăn năn. Vì thế tiên tri Sô-phô-ni kêu gọi các dân trên đất hãy trở lại cùng Đức Chúa Trời với

sự bày tỏ của tấm lòng hối lỗi và đời sống tin kính Chúa qua hai

hành động sau đây:

a. Tự xét lấy mình(2:1-2):  “Hỡi dân chẳng biết xấu hổ! Hãy

nhóm hiệp lại, trước khi mạng lịnh chưa ra….”.Sự nhóm hiệp lại

không phải để bàn mưu chống nghịch Chúa như họ đã làm, nhưng

để tự xét lại lòng mình, kiểm điểm lại đường lối bất chính, gian ác

của mình và tự nhận biết mình là tội nhân trước mặt Chúa, với lòng

thống hối ăn năn, tìm ơn thương xót của Chúa. Đây là điều cần thiết

cho người tránh khỏi cơn thạnh nộ của Chúa.  Vì  “nếu chúng ta biết

xét đoán lấy mình, thì khỏi bị xét đoán”(1Côr 11:31).

b. Tìm kiếm Đức Chúa Trời(2:3):  “Hỡi các ngươi là mọi kẻ nhu

mì của đất, làm theo mạng lịnh của Chúa, hãytìm kiếm Đức Giê-hô-va, tìm kiếm sự công bình, tìm kiếm sự nhumì, hoặc giả các

ngươi sẽ được giấu kín trong ngày thạnh nộ của Đức Giê-hô-va” .

Khi người ăn năn, từ bỏ sự gian ác chưa đủ,cần phải tiến đến đời

sống mới theo tiêu chuẩn đạo đức của Đức Chúa Trời đòi hỏi:

(1) Tìm kiếm Đức Chúa Trời: Sự tìm kiếm ĐấngTạo Hóa là bổn

phận trước nhất của con người trên đất, vì Ngài là nguồn của sự

sống. Ai loại bỏ Ngài ra khỏi đời sống là tự hủy diệt mình.

88

(2) Tìm kiếm sự công bình: Đức Chúa Trời là  Đấng công nghĩa,

sự công nghĩa Ngài được bày tỏ trong điều răn và luật pháp Ngài

truyền cho Môi-se, để người nhờ đó học biếtsống theo đường lối của

Chúa và được phước.

(3) Tìm kiếm sự nhu mì: Vì kẻ kiêu ngạo bị Chúa đoán phạt,

nhưng người nhu mì được Ngài ban phước (Mat 5:5).

Tóm lại qua lời rao báo sự đoán xét cuả Chúa và kêu gọi ăn năn,

chúng ta ghi nhận những điểm sau đây:

– Các nước sẽ bị đoán xét, nhưng dân Y-sơ-ra-ên sẽ bị sửa phạt

và có lời hứa ban phước.

– Sự sửa phạt dân Y-sơ-ra-ên nhắc nhở chúngta kiểm điểm tấm

lòng và đời sống chúng ta trước mặt Chúa. Trong sự đoán phạt các

nước, nhắc nhở chúng ta kiểm điểm thái độ mình đối với Đấng Cao

Cả và tư cách chúng ta đối với dân sự Ngài.

– Trong lời rao về sự đoán xét, Đức Chúa Trời còn cho loài người

có dịp tiện ăn năn. Vậy hãy ăn năn khi còncó cơ hội, vì nếu hết cơ

hội sẽ không có sự tha thứ, chỉ còn sự đoán phạt mà thôi.

Hôm nay sống trong thời ân điển, ngày đoán xét lớn của Chúa

sắp đến gần hơn lúc tiên tri Sô-phô-ni rao báo! Cho nên sự kêu gọi

người ăn năn tin nhận Chúa Giê-xu để được tha tội, được cứu khỏi

cơn thạnh nộ của Chúa là sứ mạng khẩn cấp  của mỗi Cơ đốc nhân

chúng ta.

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Dự ngôn về sự đoán xét của Đức Chúa Trời:

a. Sự đoán xét của Chúa như thế nào? (1:2-3).

b. Sự đoán xét của Chúa trên những ai? Tại sao? (1:4-13; 2:4-7; 2:8-11; 2:12; 2:13-15).

c. Qua những ghi nhận trên chúng ta học biết gì về Đức Chúa

Trời quyền năng và sự đoán xét của Ngài?

2. Lời kêu gọi ăn năn:

89

a. Trong 2:1-2, tiên tri Sô-phô-ni kêu gọi các dân nhóm họp

lại với mục đích gì? Tại sao? (1Côr 11:31).

b. Trong 2:3: Tiên tri Sô-phô-ni kêu gọi các  dân tìm kiếm ai?

Và tìm kiếm điều gì? Tại sao? (A-mốt 5:4; Mat 5:5; 6:33).

c. Lời kêu gọi của Sô-phô-ni nhắc nhở chúng ta hôm nay trong

sứ mạng nào? (Giăng 3:36; 5:24).

3. Ghi nhận những điểm quan trọng trong sứ điệp của tiên tri Sô-phô-ni.

4. Nhìn lại chính mình, xin cho biết:

a. Bạn nhận biết sự đoán xét của Chúa như thế nào?

b. Bạn có bị đặt dưới sự phán xét của Chúatrong ngày sau

cùng không? Xin trình bày.

c. Bạn có biết kêu gọi mọi người tin Chúa Giê-xu để được cứu

khỏi sự đoán phạt của Chúa không? Sứ mạng Chúa gọi bạn làm gì?

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

TỎI

– Cách Sử Dụng Tỏi.

Không bao giờ để tỏi bị vàng cháy trong dầu  mỡ vì nó sẽ làm

cho mùi vị thức ăn bị khét, mất mùi tự nhiên của nó.

– Cách Khử Mùi Hôi Của Tỏi.

Ăn tỏi hôi miệng. Tránh ăn tỏi khi tiếp xúc với người khác. Tuy

nhiên, để tránh hôi miệng sau khi ăn tỏi, có thể: Nhai cà phê rang,

rau mùi, kẹo cao su…

– Cách Bảo Quản Tỏi.

Để tỏi chỗ thoáng gió.

 

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 12.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 12.04.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 12.04.2015.

1. Đề tài: HA-BA-CÚC – NGƯỜI KÊU GỌI NGƯỜI CÔNG NGHĨA

SỐNG BỞI ĐỨC TIN.

2. Kinh Thánh: Ha-ba-cúc 1-3; Rô-ma 1:16-17; 3:23-26.

3. Câu gốc:  “Nầy, lòng người kiêu ngạo, không có sự ngay thẳng

trong nó; song người công bình thì sống bởi đức tin mình”(Ha-ba-cúc 2:4).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 124 – 126.

5. Thể loại: Giải đáp thắc mắc.

* CHỈ DẪN: Giải đáp thắc mắc.

78

1. Thông báo đề tài “Ha-ba-cúc, người kêu gọi người công nghĩa

sống bởi đức tin” đến tất cả ban viên và thu thập những thắc mắc

gởi cho ủy viên linh vụ.

2. Ủy viên linh vụ nhờ người có kinh nghiệm  thuộc linh giải đáp

thắc mắc.

3. Các câu hỏi phải sắp xếp theo đúng bố cục để người nghe dễ

dàng hiểu được nội dung của chủ đề. Sau phần trả lời mỗi câu hỏi,

cần dành ra ít phút để ban viên thảo luận hoặc hỏi thêm.

4. Ban hướng dẫn cần kiên nhẫn tìm hiểu ban viên của mình và

nêu lên những thắc mắc thay họ, vì có một số e ngại không dám

hỏi. Ngoài ra ban hướng dẫn cũng nên soạn trước một số câu hỏi

dựa theo nội dung của bài học, phòng khi có  quá ít câu hỏi, bạn

cũng có thể hoàn tất mục tiêu được đề ra cho buổi nhóm.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

I. GIỚI THIỆU.

Ha-ba-cúc được Đức Chúa Trời kêu gọi làm tiên tri dưới triều vua

Giê-hô-gia-kim (608-697 T.C). Ông vốn là một thi sĩ như Ê-sai.

Trong lúc đế quốc Ba-by-lôn đang lớn mạnh vàdân Canh-đê trở

thành mối đe doạ cho nền an ninh Giu-đa sau chiến trận Carchemis

vào năm 650 T.C, Ha-ba-cúc bắt đầu thắc mắc  tại sao kẻ ác được

hưng thạnh. Vấn đề của Ha-ba-cúc được Đức Chúa Trời giải đáp với

câu trả lời vô cùng quan trọng là người công nghĩa sẽ sống bởi đức

tin (Ha 2:4). Đây là đề tài chính của sứ điệp Ha-ba-cúc truyền giảng

cho dân chúng trong lúc bị kẻ thù nghịch uy hiếp. Sau nầy, Luther

cũng đã dùng câu Kinh Thánh ấy làm nền tảng cho công cuộc Cải

Chánh Giáo Hội trong thế kỷ 16.

Qua sứ điệp trên, Ha-ba-cúc kết thúc bằng lời cầu nguyện với

lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời. Trong niềm tin ấy, Ha-ba-cúc đã kêu

gọi người công nghĩa đến cuộc sống thế nào?

II. DẪN GIẢI.

79

1. Vấn Đề Của Ha-ba-cúc.

Trong chức vụ tiên tri, có một vấn đề khiếnHa-ba-cúc thắc mắc

không ít, đó là tại sao người công bình bị kẻ ác hà hiếp? Người công

bình ở đây chỉ về tuyển dân Chúa, là dân sống theo tiêu chuẩn công

nghĩa của Đức Chúa Trời. Còn kẻ ác, chỉ về  dân Canh-đê, hay dân

ngoại, là dân sống gian ác, trái phạm đườnglối chân thật của Chúa.

Như tiên tri Giê-rê-mi, Ha-ba-cúc đặt mình vào nhóm dân có thể

bị kẻ ác áp bức và đã trở thành tiếng kêuthan của Đức Chúa Trời:

“Hỡi Đức Giê-hô-va! Tôi kêu van mà Ngài không nghe tôi đến

chừng nào? Tôi vì cớ sự bạo ngược kêu van cùng Ngài, mà Ngài

chẳng khứng giải cứu tôi!”(1:2). Ha-ba-cúc rất bất bình trước cảnh

quân thù vây dân Chúa. Trong thời kẻ ác hưng thịnh, người tiên tri

thấy dường như chánh trực công nghĩa không còn hiệu lực gì! (1:4).

Mặc dầu được Chúa cho biết Ngài sẽ dùng vuaBa-by-lôn sửa phạt

Giu-đa, nhưng Ha-ba-cúc không hài lòng cảnh kẻ bất nghĩa hung tàn

giày đạp dân Chúa! (1:5-12). Càng nghĩ đến sự thánh khiết oai

nghiêm của Chúa, Ha-ba-cúc càng thêm thắc mắc:  “Mắt Chúa thánh

sạch chẳng nhìn sự dữ, chẳng có thể nhìn được sự trái ngược. Sao

Ngài nhìn xem kẻ làm sự dối trá, khi kẻ dữ  nuốt người công bình

hơn nó, sao Ngài nín lặng đi?”(1:13). Cho nên không thể chịu đựng

được nữa, Ha-ba-cúc quyết khiếu nại vấn đề  của mình trước mặt

Chúa: “Ta sẽ đứng nơi vọng canh, chôn chân nơi đồn  luỹ, rình xem

Ngài bảo ta điều gì, và ta trả lời thế nào về sự đối nại của ta”(2:1)

như Gióp lúc hoạn nạn đã mong ước tìm đến Chúa, để trình bày

duyên cớ của mình trước toà công lý của Ngài (Gióp 23:3-4).

2. Sự Giải Đáp Của Đức Chúa Trời Cho Ha-ba-cúc.

Trong đoạn 1, Ha-ba-cúc có cái nhìn hẹp hòi,  thấy kẻ ác trong

hiện tại được sự thạnh vượng và thắc mắc về sự nín lặng của Chúa.

Nhưng trong đoạn 2, Đức Chúa Trời đưa Ha-ba-cúc đến cái nhìn xa

hơn khi thấy sự cuối cùng của kẻ ác và thấy Chúa đang cầm quyền

80

tể trị. Trong sự giải đáp của Đức Chúa Trời, Ha-ba-cúc học biết

những điều quan trọng sau đây:

a. Người công nghĩa sống bởi đức tin:Trong 2:4 bày tỏ hai

nguyên tắc sống và hai hậu quả khác nhau: Kẻ ác sống bởi sự kiêu

ngạo và gặt lấy sự huỷ diệt, còn kẻ công  bình sống bởi đức tin và

được giải cứu. Vì vậy lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời là lẽ sống của

người công bình (Châm 16:18; Thi 37:1-9). Chữ đức tin trong nguyên

ngữ Hy-bá-lai là  Emunah, có nghĩa đen là “giơ bàn tay lên”. Như

trường hợp Môi-se giơ gậy hướng lên trời trong trận chiến với A-ma-léc và được thắng (Xuất 17:12), nghĩa bóng là “nắm vững hay nắm

chặt”, chỉ về lòng trung thành vâng giữ luậtpháp Đức Giê-hô-va.

Theo hai ý này, lời kêu gọi sống bởi đức tin của Ha-ba-cúc có hàm ý

khuyến khích con dân Chúa, dù trong hoàn cảnhbị kẻ ác hà hiếp,

nhưng người công bình cứ hướng lòng trông cậy Đức Giê-hô-va và

trung tín giữ điều răn Chúa dạy, cuối cùng chắc sẽ được sự giải cứu

và phước hạnh của Ngài.

Chữ đức tin trong 2:4 đã được sứ đồ Phao-lô trích dẫn cho sự giãi

bày lẽ đạo xưng nghĩa bởi đức tin. Trong thờiCựu ước, người công

bình sống bởi đức tin thế nào, thì trong thờiTân ước cũng bởi đức

tin nơi sự đổ huyết chuộc tội lỗi của Chúa  Giê-xu, mà tội nhân được

trở nên người công bình, được giải cứu khỏisự chết của tội lỗi, và

được sự sống bất diệt của Chúa (Rô 1:17,3,23-26; Gal 3:11; Giăng

3:16). Tất cả mọi điều ấy là do đức tin nơi  Chúa Cứu Thế. Vì vậy,

đức tin là nguyên tắc sống cần thiết cho người công bình của mọi

thời đại. Ngày xưa, Ha-ba-cúc kêu gọi người  công bình sống bởi đức

tin. Ngày nay sống trong thời đại ân điển, một tin mừng cho cả mọi

người là: Chẳng những người công bình sống bởi đức tin, mà kẻ tội

nhân cũng có thể nhờ đức tin trong Đấng Christ để được xưng công

bình.

Cho nên sự kêu gọi người đến đức tin trong Chúa Giê-xu là sứ

mạng của Cơ Đốc nhân chúng ta hôm nay.

81

b. Kẻ ác bị đặt dưới án phạt của Chúa (2:5-20): Trước kia Ha-ba-cúc tưởng Đức Chúa Trời chẳng lưu ý đến những điều của kẻ ác như:

tham lợi, kiêu ngạo, tàn nhẫn, bất nghĩa, trụy lạc, thờ thần tượng, giả

dối (2:5-8,15-19), nhưng qua giải đáp của Ngài, Ha-ba-cúc thấy rõ

Đức Chúa Trời đang ngồi trên cao ghi chép từng việc làm gian dối

của kẻ ác, và đã đặt chúng dưới cơn thạnh  nộ kinh khiếp của Ngài.

Ha-ba-cúc nhận biết sự hưng thạnh của kẻ ácchỉ trong chốc lát như

hoa cỏ chóng tàn và để dành cho lửa đoán xét của Chúa thiêu đốt

mà thôi! (2:13-16). Khi nhìn thấy quyền năng lớn của Đức Chúa Trời

bao phủ thế gian, sự oai nghiêm của Đấng Cao  Cả,  Ha-ba-cúc cảnh

cáo mọi người trên đất rằng:  “Nhưng Đức Giê-hô-va ở trong đền

thánh của Ngài, trước mặt Ngài, cả đất hãylàm thinh!”(2:20).

3. Niềm Tin Của Ha-ba-cúc.

Khi nhận thức được ý Chúa, quyền tể trị và chương trình của Đức

Chúa Trời đoán phạt kẻ ác và giải cứu người công bình, Ha-ba-cúc

không còn thắc mắc mà dâng lên Chúa lời cầu nguyện với cả tấm

lòng tin cậy trọn vẹn. Một điểm nổi bật trong đức tin của Ha-ba-cúc

là không bị chi phối bởi nghịch cảnh bên ngoài, như trong đức tin

của Áp-ra-ham: “Người cậy trông khi chẳng còn lẽ trông cậy…”(Rô

4:18). Với đức tin này, Ha-ba-cúc lòng tràn đầy vui mừng, bình an,

hy vọng trong Đấng cứu rỗi quyền năng; thay vì buồn thảm, thắc

mắc, tuyệt vọng như trước kia. Ông nói: “Vì dầu cây vả sẽ không nứt

lộc nữa, và sẽ không có trái trên những cây nho; cây Ô-li-ve không

sanh sản, và chẳng có ruộng nào sanh ra đồ ăn; bầy chiên sẽ bị

dứt khỏi ràn, và không có bầy bò trong chuồng nữa. Dầu vậy, tôi

sẽ vui mừng trong Đức Giê-hô-va, tôi sẽ hớnhở trong Đức Chúa

Trời của sự cứu rỗi tôi, Ngài làm cho chântôi giống như chân con

hươu, khiến tôi đi trên các nơi cao của mình”(3:17-19). Chúng ta

thấy rõ hai tâm trạng khác nhau của Ha-ba-cúc giữa đoạn 1 và 3.

Trong đoạn 1 với sự thắc mắc của lý trí, Ha-ba-cúc bi quan, ngã

lòng, đau khổ, bực dọc, than phiền Chúa. Trái lại trong đoạn 3, Ha-

82

ba-cúc với  đức tin của tấm lòng, Ha-ba-cúc lạc quan, bình an, vui

mừng, hy vọng, kiên nhẫn, chấp nhận nghịch cảnh và ca ngợi Chúa.

Điều này cho thấy người không có đức tin nơiChúa bị chôn vùi trong

nghịch cảnh, hoạn nạn. Nhưng người có đức tinnơi Chúa có thể bước

đi trong nghịch cảnh, trên nghịch cảnh và vượtqua nghịch cảnh.

Tóm lại, qua sự giải đáp của Đức Chúa Trờivà lời cầu nguyện của

Ha-ba-cúc, chúng ta ghi nhận những điểm sau đây:

(1) Trong sự tể trị của Đức Chúa Trời, kẻ ác dù hưng thạnh nhưng

chỉ trong giới hạn của chúng mà thôi.

(2) Trong sự đoán xét kẻ ác, Đức Chúa Trời có thì giờ của Ngài.

(3) Chỉ có người sống bởi đức tin nơi Chúa mới được sự giải cứu

của Ngài trong ngày đoán xét.

(4) Người sống với lý trí không thiếu thắc mắc, nhưng người sống

bởi đức tin không thiếu sự bình an và vui mừng trong Chúa.

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Vấn Đề Của Ha-ba-cúc:

a. Trong 1:4: Ha-ba-cúc nói đến hai hạng ngườinào? Hai hạng

người ấy chỉ về ai?

b. Trong 1:1-4,12-17: Ha-ba-cúc thắc mắc điều gì? Và ông có

những câu hỏi gì với Chúa?

2. Sự Giải Đáp Của Đức Chúa Trời:

a. Trong 2:4: Người công bình sống trên nền tảng nào?

b. Tin cậy Đức Chúa Trời là lẽ sống của người nào? (2:4).

c. Sự cuối cùng của kẻ ác sẽ như thế nào? (2:5-19).

d. Trong 2:12-14,20; 3:2-15: Cho chúng ta học biết gì về Đức

Chúa Trời và quyền năng Ngài?

3. Lời Cầu Nguyện Của Ha-ba-cúc:

a. Trong 3:6-19: Đức tin của Ha-ba-cúc có đặc điểm gì?

83

b. Với đức tin, Ha-ba-cúc đã tìm được những phước hạnh nào?

(3:18-19).

c. So sánh tâm trạng Ha-ba-cúc ở đoạn 1 và 3. Xin hiểu yếu

tố nào khiến Ha-ba-cúc từ chỗ thắc mắc đếnchỗ hài lòng?

4. Sứ điệp người công nghĩa sống bởi đức tincủa Ha-Ba-Cúc, có

liên quan gì đến lẽ đạo cứu rỗi bởi đức tintrong thời Tân Ước không?

Điều nầy khuyến khích chúng ta trong sứ mạng  nào? (Rô 1:16-17,23-26; 10:6-13).

5. Ghi nhận những điểm quan trọng trong sứ điệp của Ha-ba-cúc.

6. Nhìn lại chính mình, xin cho biết:

a. Bạn đang sống bởi đức tin nơi Chúa hay bởisức mình?

b. Trước sự bạo ngược của kẻ ác, bạn có bao giờ thắc mắc về

sự công bình của Chúa và thắc mắc thế nào?

c. Đời sống bạn đã bày tỏ niềm tin nơi Chúavà kêu gọi người

khác đến sự cứu rỗi bởi đức tin như thế nào?

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Tóc Rụng.

Để hạn chế tóc rụng, hãy gội đầu bằng nước rau cải xoong đun

kỹ. Trước khi gội đầu, hãy làm mát-xa da đầu cho kỹ với chút muối

rồi dùng bàn chải chải tóc thật lâu.

– Tóc Không Bóng Mượt.

Hãy lấy một khăn bằng lụa tơ tằm chà lên tóc, tóc sẽ trở nên

mượt mà hơn.

 

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 05.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 05.04.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 05.04.2015 (Lễ Phục Sinh).

1. Đề tài: TỪ CHẾT ĐẾN PHỤC SINH.

2. Kinh Thánh: Rô-ma 6:3-11; Giăng 12:24; 1Côr 15:19-20.

3. Câu gốc: “…Đấng Christ đã từ kẻ chết sống lại, Ngài  là trái đầu

mùa của những kẻ ngủ” (1Côr 15:20).

4. Đố Kinh Thánh: Đố theo chủ đề.

5. Thể loại: Chia sẻ.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

TỪ CHẾT ĐẾN PHỤC SINH.

Theo niên lịch Cơ Đốc Giáo, 40 ngày trước lễ Phục Sinh là lễ Tro.

Lễ Tro là ngày đầu tiên của Mùa Thống Hối.Mùa Thống Hối sẽ

chấm dứt vào ngày thứ bảy trước lễ Phục Sinh. Trong thời gian 40

ngày này các tôi con Chúa thường kiêng ăn cầu nguyện, tự xét mình,

ăn năn, xưng tội và cầu xin Đức Thánh Linh ban năng lực để sống

đẹp lòng Chúa…

Tuần lễ cuối cùng của Mùa Thống Hối là Tuần Thương Khó cũng

gọi là Tuần Thánh. Tuần này bắt đầu với lễ Lá, nhắc ngày Chúa được

nghênh rước vào thành Giê-ru-sa-lem cách khải hoàn, rồi tiếp tục với

thứ năm, ngày Chúa thiết lập lễ Tiệc Thánhvà thứ sáu, Chúa chịu

đóng đinh trên thập tự giá để đến Chúa nhật, Chúa sống lại từ cõi

chết. Đó cũng là ngày vui nhất của Cơ Đốc Giáo, ngày lễ Phục Sinh.

I. CÓ CHẾT RỒI MỚI CÓ PHỤC SINH.

Một lẽ thật quan trọng chúng ta có thể khámphá được trong mùa

lễ nầy là Chúa phải chịu đau đớn, khốn khổ  và cuối cùng phải chết,

rồi Ngài mới có thể phục sinh vinh hiển được.

Trong phương diện thuộc linh cũng vậy. Chúng ta phải chết về

bản ngã, con người cũ (tư dục xác thịt, ý riêng), rồi mới phục sinh

75

được (đời sống mới, được biến đổi bởi Đức thánh Linh). Nhờ đức tin

chúng ta đã chết và sống lại qua lễ báp tem. Tại lễ báp tem, chúng

ta bước vào mầu nhiệm cùng chết và sống lại với Chúa (Rô 6:3-11).

Muốn có một đời sống đắc thắng tràn đầy sức sống thiên thượng

bước tiên quyết là phải chết đi con người cũ hoặc bản tánh xác thịt

mình. Không có ngã tắt nào để bước vào ngưỡng cửa quyền năng

phục sinh ngoại trừ phải chết. Ngày nào chúng ta còn chưa lấy đức

tin để cho con người cũ chết đi thì ngày đó chúng ta cũng chưa thể

sống với sức sống phục sinh được.

Trong cuộc sống theo Chúa, đôi khi Chúa cũng cho chúng ta phải

trải qua những đau đớn, thất vọng hoặc thất  bại rồi mới có thể tìm

thấy sung sướng, vui mừng và thành công. Có  những cuộc hôn nhân

phải đến chỗ đổ vỡ rồi mới tìm thấy lại hạnh phúc thật. Có những

Hội Thánh phải đóng cửa rồi mới kinh nghiệmđược sự phấn hưng.

Có những tôi tớ Chúa phải nghỉ chức vụ mộtthời gian rồi mới có thể

có một chức vụ kết quả.

Chúng ta đừng vội thất vọng hoặc lên án khithấy công việc nhà

Chúa dường như đang đổ vỡ. Vì từ những hài cốt khô Đức Chúa Trời

cũng có thể dựng lên một đạo binh rất lớn và dũng mãnh (Ê-xê 37).

Bây giờ người ta sẽ không thể nói rằng nhờtay mình mà công việc

Chúa mới được như thế nầy, như thế kia; bèn là nhờ quyền năng của

Thánh Linh Đức Chúa Trời hành động qua mình (Xa 4:6).

Chúa chúng ta đã dạy, “nếu hột giống lúa mì kia, chẳng chết sau

khi gieo xuống đất, thì cứ ở một mình; nhưng nếu chết đi, thì kết

quả được nhiều”(Giăng 12:24). Chết là cần thiết cho phục sinh.

Phải có chết rồi mới có thể phục sinh được.

II. CÓ CHÚA PHỤC SINH, CÓ ĐỜI SỐNG ĐẮC THẮNG.

Đây là lẽ thật thứ hai. Thật rõ ràng là bối cảnh xã hội, chính trị tại

Pa-lét-tin không có gì thay đổi trước và sau  khi Chúa phục sinh. Người

La-mã vẫn cai trị dân Do-thái, giới lãnh đạotôn giáo vẫn cộng tác với

ngoại bang để củng cố chức vị và quyền hành. Những ai bất đồng ý

76

kiến hay có tư tưởng chống đối đều bị “chụp mũ” là chống chính quyền

và bị bắt giam ngay tức khắc. Hàng ngàn người đã bị xử đóng đinh.

Các môn đồ của Chúa Giê-xu phần nhiều là những người miền

quê. Bản tính sợ người quyền thế vốn đã cósẵn trong dòng máu của

những người quen bị trị. Lâu nay họ hãnh diệnvì thầy của mình thật

là tài năng, làm những dấu kỳ phép lạ phi  thường, nhưng từ khi

chính mắt họ thấy Chúa bị bắt, chịu tử hình trên thập tự giá, bao

nhiêu niềm hãnh diện và mộng đẹp đều bị tanvỡ. Họ sợ bị liên lụy,

sợ nên trốn tránh. Nhắc lại tình cảnh đó, thánh Giăng rất thành thật

viết: “Buổi chiều nội ngày đó, là ngày thứ nhất trong tuần lễ, những

cửa nơi các môn đồ ở đều đương đóng lại, vìsợ dân Giu-đa”

(Giăng 20:19). Sợ, là bản tánh cố hữu của chúng ta.

Nhưng từ khi họ gặp được Chúa phục sinh, sự sợ hãi đã tan biến.

Họ bắt đầu kinh nghiệm một đời sống đắc thắng. Ngày trước họ sợ

bị bắt bỏ tù, nhưng bây giờ bắt bớ và tù đày dường như không có

nghĩa lý gì nữa. Ngày trước, nếu những nhà lãnh đạo trong dân quở

trách, có lẽ họ đã im hơi lặng tiếng mà nghe, bất kể là đúng hay

sai, nhưng bây giờ thì họ đã không ngần ngạihỏi lại rằng:  “Chính

các ông hãy suy xét, trước mặt Đức Chúa Trời có nên vâng lời các

ông hơn là vâng lời Đức Chúa Trời chăng? Vì, về phần chúng tôi,

không có thể chẳng nói về những điều mình đã thấy và nghe”

(Công 4:19-20).

Họ đã kinh nghiệm được thế nào là  “biết lẽ thật và lẽ thật sẽ

buông tha”(Giăng 8:32). Chúa Giê-xu phục sinh chính là lẽ thật đó.

“Đấng Christ đã buông tha chúng ta cho được tự do” (Ga-la-ti 5:1a).

Kinh nghiệm Chúa phục sinh đã cho họ đời sống đắc thắng. Nhà

cầm quyền, roi vọt, tù đày, bị sỉ nhục công  khai, hoặc bị treo trên

thập tự giá vốn là những gì họ hay sợ trước khi gặp Chúa phục sinh.

Giờ đây những thứ đó không còn có nghĩa gì nữa. Quả thật, cuộc đời

họ đã hoàn toàn thay đổi kể từ khi gặp Chúa phục sinh. Họ đã kinh

nghiệm một đời sống đắc thắng giữa một xã hội đầy bất công và áp

77

bức. Họ đã thật sự kinh nghiệm sự tự do dùsống giữa một môi

trường không chút tự do. Khó khăn hoặc chếtchóc đối với đa số

chúng ta dường như là tận điểm. Đứng trước sự khó khăn và sự chết,

chúng ta thường buồn bã và than vãn và đôi  khi cũng thắc mắc về

tình thương của Đức Chúa Trời, nhưng tạ ơn Chúa vì trước mắt Ngài,

khó khăn hoặc chết chóc chưa phải là tận cùng. Đó chỉ là sự cần

thiết để Ngài bày tỏ những việc diệu kỳ hơn qua quyền năng phục

sinh. Đức tin nơi Chúa phục sinh có thể giúp  chúng ta xem thường

mọi khó khăn trở ngại và được một đời sống đắc thắng. Ha-lê-lu-gia!

Tạ ơn Chúa, vì chúng ta đang được sự tự do và có thể sống một

cuộc đời đắc thắng. Hãy vững tin nơi Chúa phục sinh. Amen.

Mục sư Đặng Ngọc Báu (có sửa).

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Đổ Nước Sôi Vào Ly Thủy Tinh Không Vỡ.

Trước khi đổ nước sôi vào một ly thuỷ tinh,  đừng quên đặt cái ly

ấy trên một miếng vải thấm nước lạnh hoặc  bỏ vào ly một cái

muỗng kim loại.

 

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 29.03.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 29.03.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 29.03.2015.

1. Đề tài: NA-HUM – NGƯỜI RAO BÁO SỰ ĐOÁN XÉT CÔNG BÌNH

CỦA CHÚA.

2. Kinh Thánh:Na-hum 1-2.

3. Câu gốc:  “Đức Giê-hô-va chậm giận và có quyền lớn;  nhưng

Ngài chẳng cầm kẻ mắc tội là vô tội”(Na-hum 1:3).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 121 – 123.

5. Thể loại: Thảo luận.

69

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn thảo luận trước.

– Đề tài 1:  Đức Chúa Trời không cho Ni-ni-ve cơ hội thứ hai để

ăn năn.

– Đề tài 2: Đức Chúa Trời đoán phạt Ni-ni-ve vì khinh lờnơn tha

thứ của Chúa.

I. GIỚI THIỆU.

Tên Na-hum có nghĩa “sự an ủi”. Ông được ĐứcChúa Trời kêu gọi

làm tiên tri vào khoảng năm 630-612 T.C. để đem sự an ủi cho dân

Giu-đa sau khi vương quốc Y-sơ-ra-ên sụp đổ (722 T.C).

Trong lúc đế quốc A-si-ry hùng mạnh đang đe dọa Giu-đa, tiên tri

Na-hum đã thấy trước sự sụp đổ của đế quốcnày. Với sứ điệp của

Chúa, Na-hum đã rao sự đoán phạt Ni-ni-ve, đồng thời cũng đem cho

dân Chúa tin lành của sự giải cứu. Qua dự ngôn của Na-hum đã bày

tỏ cho chúng ta biết gì về quyền tể trị tối  thượng của Đức Chúa Trời

và sự đoán xét công bình của Ngài?

II. DẪN GIẢI.

1. Sự Cảnh Cáo Nghịch Cùng Ni-ni-ve.

Như tiên tri Áp-đia được Đức Chúa Trời gọi với sứ mạng là rao sự

đoán phạt trên Ê-đôm thì tiên tri Na-hum cũng được Chúa kêu gọi

với sứ mạng là rao sự đoán phạt trên Ni-ni-ve, vì Ni-ni-ve bị đặt dưới

bản án là kẻ mưu sự dữ nghịch cùng Đức Giê-hô-va (1:11). Trước

mặt Đức Chúa Trời, những kẻ tự cao, kẻ gianác theo đường lối thế

gian, xúc phạm đến luật công nghĩa của Chúa là kẻ dấy nghịch cùng

Ngài (Gia 4:4). Nên trong lời rao án phạt, Na-hum bày tỏ cho Ni-ni-ve biết:

(1) Đức Chúa Trời là Đấng Yêu thương cũng là Đấng Công nghĩa:

Giê-hô-va là Đức Chúa Trời ghen và báo thù; Đức Giê-hô-va báo thù

và đầy sự thạnh nộ. Đức Giê-hô-va báo thùkẻ cừu địch mình. Đức

Giê-hô-va chậm giận và có quyền lớn; nhưng chẳng cầm kẻ mắc tội

là vô tội (1:2-3). Chữ “ghen” và “báo thù” không có nghĩa chỉ về

70

những hành động theo lý tính của con người xác thịt. Nhưng ở đây là

sự diễn tả một khía cạnh sôi động trong bảntính yêu thương và

công nghĩa của Đức Chúa Trời. Với bản tính yêu thương, Đức Chúa

Trời chậm nóng giận, nhưng Ngài cũng “ghen” đối với kẻ xây bỏ

Chúa để theo thế gian; như người chồng ghen tuông vì sự ngoại tình

của vợ mình (Gia 4:4-5). Với bản tính công nghĩa, Đức Chúa Trời

chẳng cầm kẻ có tội là vô tội, nhưng Ngài cũng “báo thù” kẻ ác theo

luật công lý nhân quả (được xử theo những gì mình đã làm cách

công bằng).

(2) Quyền năng của Đức Chúa Trời rất lớn. Sức mạnh Ngài như

cơn gió lốc và bão tố. Lời quở trách của Ngài khiến các sông khô

cạn, hoa màu khô héo, các núi run rẩy. Vì vậy, trong sự đoán xét

của Chúa, Na-hum đố thách kẻ ác mưu nghịch Ngài rằng:  “Ai đứng

được trước sự thạnh nộ Ngài? Ai đương nổi sự nóng giận Ngài? Sự

tức giận của Ngài đổ ra như lửa, những vầngđá vỡ ra bởi Ngài….

Các ngươi sẽ lập mưu gì nghịch cùng Đức Giê-hô-va? Ngài sẽ diệt

hết cả…”(1:6-9).

Lời cảnh cáo trên là một hung tin cho dân Ni-ni-ve, nhưng cũng

là một tin lành cho dân Chúa. Vì trong sự công nghĩa, Đức Chúa Trời

dùng quyền năng đoán phạt kẻ ác, nhưng trongtình yêu thương

Chúa, quyền năng ấy được dùng để giải cứu dân sự Ngài. Trong 1:15

là bức ảnh thật đẹp diễn tả hình ảnh của người đem tin vui về sự

giải cứu của Chúa cho tuyển dân “Nầy, trên các núi có chân của kẻ

đem tin lành và rao sự bình an!”.

Tin lành mà Na-hum rao báo cho Y-sơ-ra-ên là tin về:

(1) Sự giải cứu của Chúa:  “Nhưng bấy giờ ta sẽ bẻ gãy ách nó

khỏi ngươi, và bứt đứt dây ngươi”(1:13).

(2) Sự an ủi của Chúa:  “Dầu ta đã làm khổ ngươi, song ta sẽ

chẳng làm khổ ngươi nữa” (1:12).

(3) Sự ban cho bình an của Chúa: “Vì kẻ gian ác về sau chẳng đi

qua giữa ngươi nữa, nó sẽ bị diệt sạch”(c.15).

71

(4) Sự công nghĩa của Chúa:  “Vì Đức Giê-hô-va khôi phục sự

vinh hiển của Gia-cốp như sự vinh hiển của Y-sơ-ra-ên, bởi những

kẻ bóc lột đã bóc lột chúng nó và đã pháhại những nhành nho

chúng nó”(2:2).

Bốn đặc điểm trên cho chúng ta thấy trong bài ca mà thiên sứ

loan báo Chúa Giê-xu là Tin Lành, là sự vui mừng lớn cho muôn dân

(Lu 2:11). Ngài là Đấng mà Đức Chúa Trời đãlàm nên sự cứu rỗi,

bình an, công nghĩa cho chúng ta (1Côr 1:30). Ngày xưa, Na-hum

rao cho Y-sơ-ra-ên về tin lành của Chúa. Ngàynay, chúng ta là người

nhận được tin lành của Chúa, nên sự đem ơn cứu rỗi của Chúa cho

người đang đau khổ trong tội lỗi, đó là sứ mạng của mỗi Cơ Đốc

nhân chúng ta. Như trong lời khuyến khích của  sứ đồ Phao-lô:

“Những bàn chân kẻ rao truyền Tin lành là tốt đẹp biết bao!” (Rô

10:15).

2. Sự Đoán Phạt Ni-ni-ve.

Ni-ni-ve là thủ đô của A-si-ry. Là một nước chạy dài phía đông bờ

sông Ty-rơ, trải dài với vùng đồng bằng rộng lớn. Vòng tường thành

Ni-ni-ve dài chừng 13km. Dân số Ni-ni-ve có khoảng 175.000 –

300.000 người. Thành Ni-ni-ve được xây dựng rất kiên cố. Mặt tiền

(trước) với ba lớp chiến lũy và mặt hậu (sau) với hai lớp chiến lũy

phòng thủ. Dù vững chắc thế, nhưng tiên tri Na-hum đã nói trước về

sự sụp đổ của Ni-ni-ve, bởi vì tội lỗi của dân thành này quá lớn đến

mức phải bị hủy diệt!

Trong lời nghịch cùng Ni-ni-ve, cho thấy dân này vô cùng bại

hoại với sự bất nghĩa, bất chính, làm đổ huyết, dâm đãng và tà thuật

là điều rất là gớm ghiếc trước mặt Đức Chúa Trời:  “Khốn thay cho

thành đổ máu! Nó đầy dẫy những sự dối trávà cường bạo, cướp

bóc không thôi… nó bán các nước bởi sự dâm đãng, và bán các họ

hàng bởi sự tà thuật”(3:1-4). Bởi cớ đó, Đức Chúa Trời phán:  “Ta

sẽ ném sự ô uế gớm ghiếc của ngươi trên ngươi, làm cho ngươi

nên khinh hèn, làm trò cho mọi người xem”(3:6). Trước Na-hum

72

150 năm, Giô-na vâng mạng Đức Chúa Trời cảnh cáo tội lỗi của vua

và dân thành Ni-ni-ve, họ bày tỏ lòng ăn năn nên Đức Chúa Trời

dừng cơn đoán phạt. Nhưng sau đó họ trở lại  đường cũ, vẫn tội nào

tật nấy, làm điều cực ác, nghịch cùng Đức Chúa Trời, cho nên không

còn cơ hội thứ hai cho họ nữa.

Theo 3:8-19, Na-hum dự ngôn Ni-ni-ve sẽ bị hoangvu và dân sự

sẽ tản lạc như các nước hùng mạnh khác! Điều này đã xảy đến cho

Ni-ni-ve. Theo sử liệu (dấu vết, tài liệu lịch sử) mà Gadd tìm thấy ở

viện bảo tàng Anh Quốc, ghi rằng: Ni-ni-ve đãbị sụp đổ bởi sự

chinh phục của Cyaxares, vua Ba Tư sau ba tháng  bao vây và đế

quốc A-si-ry cáo chung (có dấu hiệu suy tàn)  khoảng năm 612 T.C.

không lâu sau lời dự ngôn của tiên tri Na-hum.

Sự sụp đổ của Ni-ni-ve cho chúng ta học đượcnhững điều sau:

(1) Đức Chúa Trời là Đấng Yêu Thương, nhưng cũng là Đấng

Công Nghĩa: Trong sự yêu thương, Ngài tha thứ  tội nhân, nhưng

trong sự công nghĩa, Ngài không dung chứa tộilỗi.

(2) Đừng coi thường sự đoán phạt của Chúa: Lời Ngài phán, Ngài

chắc sẽ làm cho ứng nghiệm chẳng sai.

(3) Đừng khinh lờn ân điển của Chúa: Đức Chúa Trời không bao

giờ đoán phạt ai mà không cho họ có cơ hội  ăn năn. Nhưng nếu

người coi thường ơn tha thứ của Chúa chắc sẽkhông còn có cơ hội

cho họ nữa. Như lời cảnh cáo của Kinh Thánh  rằng:  “Hay là ngươi

khinh dể sự dư dật của lòng nhân từ, nhịn nhục, khoan dung Ngài,

mà không nhận biết lòng nhân từ của Đức Chúa Trời đem ngươi

đến sự ăn năn sao? Bởi lòng ngươi cứng cỏi,không ăn năn, thì tự

chấp chứa cho mình sự giận về ngày thạnh nộ, khi sẽ hiện ra sự

phán xét công bình của Đức Chúa Trời”(Rô 2:4-5).

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. a. Na-hum cảnh cáo dân Ni-ni-ve thế nào? (1:1-2).

73

b. Qua lời cảnh cáo của Na-hum cho chúng ta học biết gì về

bản tính quyền năng của Đức Chúa Trời?

c. Na-hum đem lại cho dân Chúa sự an ủi nào? (1:12-2:2).

d. Sứ mạng của Na-hum có ý nghĩa gì cho Cơ Đốc nhân chúng

ta hôm nay?

2. a. Tình trạng đạo đức của dân Ni-ni-ve thếnào? (2:1; 3:1-5).

b. Xin tìm hiểu tại sao trước kia Đức Chúa Trời sai Giô-na rao

giảng cho dân Ni-ni-ve, còn bây giờ Ngài không tha thứ cho dân

nầy? (1:3). Điều nầy cho chúng ta học biết lẽ thật nào về ân điển và

sự đoán phạt của Đức Chúa Trời? (Rô 2:1-3;  2Phi 3:9-10; Hêb 6:4-6).

c. Theo dự ngôn của Na-hum, Ni-ni-ve chịu sự đoán phạt thế

nào? Lời tiên tri này có ứng nghiệm không?

3. Ghi nhận những lẽ thật quan trọng được bày tỏ trong sách Na-hum.

4. Nhìn lại chính mình xin cho biết:

a. Bạn đang sống trong sự tin kính Chúa hay khinh lờn ân điển

cứu rỗi của Ngài?

b. Bạn dùng lời Chúa cảnh cáo kẻ ác biết sự đoán xét công

bình của Chúa thế nào và giúp người bị ức hiếp được niềm hy vọng

trong sự giải cứu của Chúa thế nào?

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Lau Chùi Đồ Thủy Tinh.

Hãy pha vào nước lau chùi một ít giấm. Đồ thủy tinh sẽ sáng

bóng. Muốn chùi kỹ, trước khi rửa bằng nướclã pha giấm, bạn đổ

nước vào bình thủy tinh rồi cho vào vài miếng khoai tây sống hoặc

vỏ khoai tây. Ngâm trong vài giờ, vớt khoai tây và đổ nước ra.

 

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 22.03.2015

Chương trình thờ phượng Ban Phụ Nữ Chúa nhật 22.03.2015

in PHỤ NỮ on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 22.03.2015.

1. Đề tài: SINH NHẬT QUÝ I.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 66.

3. Câu gốc:  “Hỡi hết thảy người kính sợ Đức Chúa Trời,  hãy đến

nghe, thì tôi sẽ thuật điều Ngài đã làm cho  linh hồn tôi”(Thi

66:16).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 118-120.

5. Thể loại: Ca ngợi – Cảm tạ.

* CHỈ DẪN: Sinh nhật (Ca ngợi & Cảm tạ).

1. Thông báo danh sách những người có ngày sinh trong quý I

(tháng 1,2,3) trước một tuần lễ; bổ sung những tên còn thiếu.

67

2. Thư ký trao danh sách cho thủ quỹ mua quà. Quà tặng sinh nhật

nên mua nhiều hơn số cần, phòng khi có khách, thân hữu… đến dự và

cũng có ngày sinh trong quý đó.

3. Những người không nhớ ngày sinh, có thể chọn ngày cưới, ngày

tin nhận Chúa, ngày chịu báp tem… để làm sinhnhật.

4. Chuẩn bị một chiếc bánh sinh nhật (nếu cóthể), kích thước

chiếc bánh tùy theo số người tham dự.

5. Mời những “người sinh nhật” lên phía trên,số người còn lại hát

chúc mừng. Tất cả “người sinh nhật” cùng cầm dao cắt bánh.

Mời người cầu nguyện đặc biệt cho họ.

6. Ban hướng dẫn tặng quà cho những “người sinh nhật”.

7. Mời một số “người sinh nhật” làm chứng, ca ngợi Chúa, chia sẻ

những kinh nghiệm thuộc linh… Khi làm chứng nên trình bày thành

thật, đừng thổi phồng.

8. Chơi trò chơi, đố vui và ăn bánh sinh nhật…

* TRÒ CHƠI DÀNH CHO NGƯỜI CÓ SINH NHẬT.

THẮP NẾN SINH NHẬT.

– Chuẩn bị: Dùng giấy bìa cứng làm một số cây nến, ghi lời yêu

cầu vui lên giấy, cuộn lại nhét vào cây nến, dùng băng keo dán cây

nến lên bảng (số nến tương đương với số “người sinh nhật”). Nếu

dùng nến thật thì cũng gắn lời yêu cầu vàorồi bạn đốt nến và sắp lên

bàn sao cho đẹp mắt.

Lời yêu cầu:  “Chúc bạn SN vui vẻ! Mời bạn uống một lượt  5 ly

nước”, “Mừng SN bạn! Bạn mời người hát tặngbạn một bài”…

– Cách chơi: Mời từng “người sinh nhật” lên và chọn một cây nến,

tìm xem cây nến có chứa điều gì bí ẩn, đọc lớn điều đó và thực hiện.

* TRÒ CHƠI TẬP THỂ.

TÌM CHIÊN LẠC.

68

– Cách chơi: Chọn 3 người vào trong vòng tròn(bịt mắt), một người

làm người chăn, một người làm chiên và mộtngười làm sói. Nghe

lệnh còi, người chăn đi tìm chiên, chạm vào được chiên là thắng cuộc,

đụng phải sói là bị loại.

* Lưu ý: Chiên (be be), sói (gừ gừ…ư ư ư) cả  hai phải đi bằng

“bốn chân”, thỉnh thoảng kêu lên cho người chăn nhận biết.

HỨNG BANH.

– Cách chơi: NHD đứng giữa vòng tròn cho đếm  số thứ tự 1,2,3…

Yêu cầu mỗi người nhớ số của mình. NHD cầm  một trái banh (hoặc

chiếc khăn cột lại). Tung trái banh hoặc khăn lên đồng thời gọi một

số. Đúng số mình được gọi phải chạy ra hứngbanh (có thể gọi một

lượt hai ba số), ai không hứng được sẽ bị loại. Người hứng được banh

thay NHD tiếp tục điều hành cuộc chơi.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

THANG.

Bắt thang để leo, bạn đừng sợ thang trượt vàphải nhờ giữ chân

thang. Từ nay bạn chỉ cần đóng vào chân thangmột miếng cao su

ruột xe đạp, chân thang sẽ không bao giờ trượt nữa. Nếu thang sắt,

thang nhôm thì bạn buột miếng cao su xung quanhchân thang.