Chuyên mục: NAM GIỚI

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 17.05.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 17.05.2015

in NAM GIỚI on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 17.05.2015.

1. Đề tài: LỜI KÊU GỌI TỈNH THỨC.

2. Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 24:36-42; 1Tês 5:4-10.

3. Câu gốc: “Sự cuối cùng của muôn vật đã gần; vậy hãy khôn ngoan tỉnh thức mà cầu nguyện” (1Phi 4:7).

4. Đố Kinh Thánh: Nê-hê-mi 1-4.

5. Thể loại: Học Kinh Thánh nhóm.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 11.01.2015.

Dựa theo Mat 24:36-42 và 1Tês 5:4-10 soạn một số câu hỏi cho giờ học Kinh Thánh.

(1.1) “Ngày và giờ đó” là ngày và giờ gì?

(1.2) Tại sao ngày và giờ đó “chỉ một mình Cha biết mà thôi”?

(1.3) Biết rõ điều nầy, bạn sẽ làm gì khi có người nói với bạn là họ biết tính ngày giờ Chúa trở lại?

(2.1) Chúa dùng hình ảnh nào ví sánh với ngày “Con Người đến”?

(2.2) Tại sao Chúa dùng hình ảnh nầy để ví sánh?

(2.3) Biết được điều nầy bạn có sự chuẩn bị gì cho ngày “Con Người đến”?

(3.1) Chúa ví chúng ta là con cái của sự sáng, vậy chúng ta phải làm gì?

(3.2) Tại sao chúng ta phải làm như vậy?

(3.3) Vì sao bạn biết mình đã sống đúng (hay chưa đúng) là “con cái của sự sáng và con của ban ngày”?

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Chúng ta đang ở trong thời kỳ mà Kinh Thánh cảnh cáo “sự cuối cùng của muôn vật đã gần”. Những biến chuyển của lịch sử thế giới cho chúng ta thấy càng rõ hơn về thời điểm sắp đến của ngày chung kết ấy. Đối với người chẳng tin, họ xem nhẹ lời cảnh cáo của Kinh Thánh, tuy nhiên với chúng ta là người có niềm tin, vấn đề không phải là có sự tận cùng của thế giới hay Chúa có tái lâm không, nhưng điểm quan trọng là chúng ta có tỉnh thức trông đợi ngày Chúa trở lại không? Tại sao? Thế nào để chúng ta chuẩn bị đời sống sẵn sàng đón tiếp Chúa?

I. DẪN GIẢI.

A. LÝ DO CỦA SỰ TỈNH THỨC.

Động từ “tỉnh thức” trong nguyên văn Hy-lạp là gregoreò, một từ đặc biệt ám chỉ về sự đề cao cảnh giác. Nói đến sự tái lâm của Chúa Giê-xu, Kinh Thánh đã nhiều nhắc nhở, cảnh cáo con cái Chúa “Hãy tỉnh thức”. Tại sao?

1. Vì sự hiện đến của Ngài là chắc chắn.

Chính Chúa Giê-xu đã dự ngôn về sự tái lâm của Ngài là chắc thật: “Trời đất sẽ qua, nhưng lời Ta nói chẳng bao giờ qua đi” (Mat 24:35). Sứ đồ Phi-e-rơ cũng đã xác nhận: “Chúa không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu…” (2Phi 3:9).

2. Vì ngày Chúa tái lâm sắp đến.

Trong 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:5, Phao-lô nhắc nhở con cái Chúa rằng: “Anh em đều là con của sự sáng và con của ban ngày”. Cho nên là con cái bước đi trong sự sáng của Chúa, tức là người trong sự tỉnh thức, chúng ta không thể không cảm nhận được những “báo động” về ngày tái lâm của Chúa. Có những dấu hiệu chúng ta đã và đang thấy trước mắt như điều Kinh Thánh đã nói trước là sẽ xảy ra trước ngày Chúa đến như chiến tranh, đói kém, động đất, tội lỗi gia tăng, sự dấy lên của nhiều tiên tri giả, Christ giả (Mat 24:6-13).

Khi nói đến sự tái lâm, Chúa Giê-xu dùng thí dụ về cây vả (Mat 24:32). Cây vả là loài cây ăn trái quan trọng đứng vào hàng thứ ba trong xứ Palestine, sau cây nho và cây ô-li-ve. Theo chu kỳ, cây vả ra lá vào mùa hè. Vì vậy, sự đâm chồi của cây vả là một dấu hiệu cho biết mùa hè sắp tới. Trong Kinh Thánh, cây vả thường dùng chỉ bóng về dân Y-sơ-ra-ên, tuyển dân của Chúa. Vì chối bỏ Đấng Christ, nên họ bị Ngài đoán phạt phải mất xứ sở và tản lạc khắp nơi trên đất kể từ biến cố hủy diệt thành Giê-ru-sa-lem vào năm 70 S.C. Nhưng theo sự bày tỏ của lời tiên tri trong Cựu Ước, thì quốc gia Y-sơ-ra-ên sẽ hoàn toàn được hồi phục, dân Y-sơ-ra-ên sẽ được giải cứu khi Đấng Mê-si-a hiện đến lần thứ hai. Nhìn vào sự lập quốc cách lạ lùng của dân Do Thái sau đệ nhị thế chiến, những sự kiện về sự hồi hương của dân Do Thái, và những diễn biến đang xảy ra tại quốc gia nầy, trong ánh sáng của lời tiên tri chúng ta thấy dấu hiệu “mùa hạ” sắp tới nghĩa là ngày Chúa đã kề bên!

3. Vì giờ Chúa đến là điều kín nhiệm (Mat 24:36).

Có những dấu hiệu cho chúng ta biết ngày Chúa tái lâm sắp đến, sự cuối cùng của muôn vật đã gần. Tuy nhiên, ngày giờ Chúa đến là kín nhiệm “…chẳng có ai biết chi cả, thiên sứ trên trời hay là Con cũng vậy, song chỉ môt mình Cha biết mà thôi”. Cho nên ai cố xác định ngày giờ Chúa tái lâm là một nhầm lẫn lớn, như Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm đã có lần tuyên bố Chúa Giê-xu tái lâm vào năm 1844!

4. Vì là sự tái lâm của Chúa Giê-xu là lẽ trông cậy nhất của người tin Chúa.

Vì thì giờ tái lâm của Chúa là điều kín nhiệm, và thình lình “như người trộm trong ban đêm”, và nhanh chóng “như chớp phát ra từ phương đông” (1Tês 5:2; Mat 24:27), nên nếu tỉnh thức, thì sự ấy không phải là quá bất ngờ cho chúng ta (1Tês 5:4-5). Chúng ta cần tỉnh thức để sẵn sàng được tiếp đi với Chúa mà không bị bỏ lại (Mat 24:40-42).

B. TỈNH THỨC VỚI SỰ CHUẨN BỊ SẴN SÀNG.

Sự tỉnh thức cần được bày tỏ trong hai phương diện: Tiêu cực với lòng kiên nhẫn chờ đợi, và tích cực với sự chuẩn bị đời sống sẵn sàng đón Chúa. Những điều quan trọng nào cần được chuẩn bị cho mỗi đời sống chúng ta?

1. Phải được tái sanh.

Để dạy môn đồ lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng chờ đón Chúa, Chúa kể một ẩn dụ về mười người nữ đồng trinh (Mat 25:1-13). Trong ẩn dụ nầy mười người nữ đồng trinh chỉ về Hội Thánh, chàng rể chỉ về Chúa Giê-xu là Tân Lang của Hội Thánh và dầu chỉ về Đức Thánh Linh. Trong mười người nữ đồng trinh có năm người dại, là người không chuẩn bị dầu đón chàng rể, và năm người khôn là người chuẩn bị dầu đón chàng rể. Năm người dại và năm người khôn tiêu biểu cho hai hạng người trong Hội Thánh hữu hình. Nghĩa là trong Hội Thánh Chúa, có những người tín đồ thật, tức là những người được tái sanh bởi Đức Thánh Linh, có sự ngự trị của Ngài trong đời sống; nhưng cũng có những người mang danh tín đồ, nhưng thực sự đời sống không có Đức Thánh Linh, không có sự tái sanh bởi Ngài. Vì lẽ đó chắc họ sẽ không được nhận vào tiệc cưới Chiên Con, vì cớ không thuộc về Ngài “…Song nếu ai không có Thánh Linh của Đấng Christ, thì người ấy chẳng thuộc về Ngài” (Rô-ma 8:9).

Như vậy trong sự chuẩn bị đón Chúa, chúng ta cần kiểm điểm lại đời sống mình thật có Đức Thánh Linh hay chỉ như đèn mà không có dầu? Chúng ta có biết chắc mình đã được tái sanh và trở nên con cái của Đức Chúa Trời không? Nếu chưa, hãy mở lòng tiếp nhận Chúa Giê-xu để được nhận lãnh sự ban cho của Đức Thánh Linh trước khi cửa ân điển đóng lại, và không còn có cơ hội nữa. Như năm người nữ dại kia đợi đến lúc chàng rể đến, rồi mới chạy mua dầu, thì đã quá trễ.

2. Phải giữ mình trong sạch khỏi mọi sự ô uế của thế gian.

Hội Thánh được gọi là “Tân nương” của Đấng Christ. “Cô dâu” lý tưởng nầy khi gặp “Tân Lang” phải là cô dâu thánh sạch, không vết, không nhăn, không chỗ trách được trước mặt Ngài (Êph 5:27). Điều nầy có nghĩa trong sự chuẩn bị đón Chúa, mỗi ngày chúng ta nhờ Đức Thánh Linh thánh hóa đời sống và giữ vẹn khỏi mọi ô uế của thế gian (Rô 12:2).

3. Phải trung tín hầu việc Chúa.

Trong ẩn dụ về ta lâng, người chủ chỉ về Đức Chúa Trời, các đầy tớ chỉ về tín đồ, tức chúng ta (Mat 25:14-30). Ta lâng là một đơn vị tiền tệ, trọng lượng. Một ta lâng có trị giá một ngàn mỹ kim. Chữ ta lâng được dùng trong ẩn dụ nầy có thể làm biểu tượng chỉ về tất cả những gì Đức Chúa Trời ban cho chúng ta để được sử dụng cho danh Ngài. Thật ra tất cả mọi điều chúng ta có đều đến từ Đức Chúa Trời. Như vậy các ta lâng chủ giao cho đầy tớ trong ẩn dụ có thể bao gồm tài năng, ân tứ, thì giờ, sự hiểu biết, kinh nghiệm, của cải v.v…

Tóm lược qua ẩn dụ nầy bày tỏ hai ý chính sau đây:

(1) Đức Chúa Trời giao cho mỗi chúng ta một số ta lâng khác nhau. Nhận được nhiều hay ít ta lâng không quan trọng. Điểm quan trọng là trung tín sử dụng ta lâng ấy cách có ích lợi theo ý muốn và mục đích của Chúa.

(2) Mỗi người có trách nhiệm với ta lâng mình nhận trong ngày Chúa trở lại. Sự ban thưởng sẽ dành cho người trung tín, tức là người vâng lời Chúa sử dụng ta lâng theo ý chỉ của Ngài ban cho. Trái lại người không trung tín sẽ bị đoán phạt.

Những sự chuẩn bị trên có ý nghĩa gì?

– Với đời sống: Cần được tái sanh bởi Đức Thánh Linh để chúng ta được nhận vào trong Nước Chúa. Với đời sống thánh sạch, chúng ta được gặp Chúa trong sự vinh hiển và vui mừng. Với đời sống trung tín hầu việc, chúng ta gặp Chúa trong sự ban thưởng.

C. LỜI CẢNH CÁO.

Trong lời khuyên tỉnh thức trước sự tái lâm của Chúa, Kinh Thánh cũng có lời cảnh cáo chúng ta:

1. Coi chừng sự nguội lạnh (Mat 24:12).

“Lại vì cớ tội ác sẽ thêm nhiều, thì lòng yêu mến của phần nhiều người sẽ nguội dần”.

Với sự cảnh cáo nầy, chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta giữ lòng kính mến Chúa lúc ban đầu, và đầy dẫy trong chúng ta tình yêu thương của Chúa để sốt sắng hầu việc Ngài cách trung thành (1Phi 4:8-9).

2. Coi chừng sự lôi cuốn, ru ngủ của vật chất (Lu 17:26-29,32; 21:34).

Loài người bị hủy diệt trong thời Nô-ê, sự sụp đổ của thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ, sự trở thành tượng muối của vợ Lót là những tấm gương cảnh cáo chúng ta về cuộc sống đam mê các thú vui, vật chất của trần gian!

Với sự cảnh cáo nầy, hãy nhờ Đức Thánh Linh giúp chúng ta bước theo sự dẫn dắt của Chúa trước hết và thỏa lòng với đời sống “đủ ăn đủ mặc” (Gal 5:16; Mat 6:33; 1Tim 6:6-8).

3. Coi chừng sự quyến dụ của các tiên tri giả (Mat 24:11).

Hãy nhờ Đức Thánh Linh soi sáng chúng ta học biết lẽ thật Kinh Thánh, hầu giữ vững đức tin về sự cứu rỗi của chúng ta (Công 17:10-11).

Tóm lược với những điều cảnh cáo trên, chúng ta “…hãy dè giữ, mặc áo giáp bằng đức tin và lòng yêu thương, lấy sự trông cậy về sự cứu rỗi làm mão trụ” (1Tês 5:8).

Tóm lược.

1. Những lý do cần tỉnh thức đối với sự tái lâm của Chúa:

a. Vì Chúa chắc sẽ trở lại.

b. Vì ngày tái lâm của Chúa sắp gần.

c. Vì thì giờ Chúa đến là điều kín nhiệm.

d. Vì sự tái lâm của Chúa là lẽ trông cậy lớn của chúng ta.

2. Trong sự tỉnh thức, đời sống cần được chuẩn bị sẵn sàng với sự tái sanh, nên thánh, và sự trung tín hầu việc Chúa.

3. Trong sự tỉnh thức chúng ta cũng hãy coi chừng sự cám dỗ của tội lỗi, sự lôi cuốn của thế giới vật chất, và sự quyến dụ của tà thuyết giả dối.

Vậy chúng ta hãy nhờ Đức Thánh Linh chuẩn bị cho mình đời sống sẵn sàng đón tiếp Chúa bằng sự mặc lấy lòng yêu thương, đức tin, thánh sạch, và tấm lòng trung thành sốt sắng phục vụ Chúa. Với tinh thần tỉnh thức theo như lời khuyên dạy của Kinh Thánh: “Sự cuối cùng của muôn vật đã gần. Vậy hãy khôn ngoan tỉnh thức mà cầu nguyện” (1Phi 4:7), xin mỗi người trong chúng ta đặt câu hỏi nầy cho chính mình: Nếu Chúa đến hôm nay, thì tôi có sẵn sàng đón tiếp Chúa không?

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. a. Ma-thi-ơ 24:35; 2Cô-rinh-tô 3:9: Chúa Giê-xu có sự xác nhận thế nào đối với lời tiên tri về sự tái lâm của Ngài?

b. Trong Ma-thi-ơ 24:6-14, 32, Chúa Giê-xu nói đến những dấu hiệu nào? Và những dấu hiệu nầy ám chỉ về ai? Và cho điều gì?

c. Ma-thi-ơ 24:36: Có thể xác định được thì giờ tái lâm của Chúa không? Tại sao?

d. 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:2; Ma-thi-ơ 24:27,40-42. Sự hiện đến của Chúa Giê-xu được Kinh Thánh diễn tả như thế nào? Và khi Chúa đến có phải tất cả người mang danh là “tín đồ” được tiếp đi với Chúa không?

2. Xin tóm tắt những điểm cần thiết phải tỉnh thức trông đợi Chúa?

3. Mat 25:1-3: Xin tìm hiểu những biểu tượng sau đây chỉ điều gì?

– Mười người nữ đồng trinh, chàng rể, năm người dại và năm người khôn, dầu, đèn.

4. a. Tại sao năm người dại không được tiếp nhận vào tiệc cưới.

b. Tại sao họ không có dầu?

c. Ý nghĩa của ẩn dụ nầy là gì? Theo ý nghĩa nầy chúng ta cần chuẩn bị gì cho đời sống mình (Giăng 3:1-5; Rô 8:9).

5. Ê-phê-sô 5:25-27; Rô-ma 12:2; 13;11-14: Đời sống chúng ta cần phải được chuẩn bị thế nào khi gặp Chúa? Tại sao?

6. Xin đọc Ma-thi-ơ 25:14-30, và tìm hiểu những biểu tượng sau đây ám chỉ về ai và cho điều gì?

– Người chủ, đầy tớ, ta lâng.

7. Trong ẩn dụ về ta lâng xin tìm hiểu:

a. Trên tiêu chuẩn nào người chủ ban thưởng và quở phạt đầy tớ.

b. Ý nghĩa chính của ẩn dụ nầy là gì?

c. Theo ý nghĩa nầy, đời sống chúng ta cần được chuẩn bị thế nào? (1Phi 4:9-10).

8. Xin đọc những câu Kinh Thánh sau đây: Ma-thi-ơ 24:11-12; Lu-ca 17:26-32; 21:34-36, 1Phi-e-rơ 4:7-10 và ghi nhận:

a. Những điều nào chúng ta nên coi chừng, và không nên làm?

b. Những điều nào chúng ta nên làm?

9. 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:8; 1Phi-e-rơ 4:7: Làm sao chúng ta giữ vững trước những điều Kinh Thánh cảnh cáo? Xin cắt nghĩa tại sao đó là cách hữu hiệu nhất.

10. Xin tóm lược những điểm quan trọng về:

a. Lẽ cần của sự tỉnh thức.

b. Những điều cần chuẩn bị cho đời sống.

c. Những điều nên đề phòng và những điều nên làm trong sự tỉnh thức.

11. Đời sống bạn đang có Đức Thánh Linh ngự trị? Làm sao bạn biết?

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 10.05.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 10.05.2015

in NAM GIỚI on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 10.05.2015.

1. Đề tài: LỄ MẪU THÂN.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 101.

3. Câu gốc: “Tôi sẽ ăn ở cách khôn ngoan trong đường trọn vẹn; ồ! Chúa chừng nào sẽ đến cùng tôi? Tôi sẽ lấy lòng trọn vẹn mà ăn ở trong nhà tôi” (Thi 101:2).

4. Đố Kinh Thánh: E-xơ-ra 5-10.

5. Thể loại: Kịch 5’.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 01.02.2015.

* CÂU CHUYỆN THAM KHẢO.

PHƯỚC CHO NGƯỜI HIẾU KÍNH CHA MẸ.

Federick, vua nước Prussia xưa là một vị vua rất thương dân. Một hôm ông bấm chuông gọi người hầu, nhưng không thấy anh vào. Ông liền bước ra để tìm. Ông thấy anh đang úp mặt ngủ mê. Ông rón rén lại gần và thấy có một bức thơ ở túi anh lộ ra ngoài. Ông tọc mạch rút nhẹ ra xem. Đây là bức thư của mẹ anh gởi đến cám ơn anh lâu nay đã nhịn ăn mặc tiêu pha gởi một phần lương mình về nuôi bà.

Sau khi đọc xong, vua bước nhẹ về phòng lấy một túi bạc đầy, rón rén nhét vào túi anh với cả bức thư mẹ anh nữa. Xong, ông bước vào phòng nhấn chuông mạnh hơn. Anh hầu phòng tỉnh dậy sợ hãi chạy ra trình diện. Vua nói: Chà, anh ngủ ngon quá!

Anh hầu chẳng biết chữa lỗi ra sao, nên bối rối bỏ tay vào túi. Tay anh đụng vào bức thư và túi bạc. Anh móc túi bạc ra và tái mặt khóc oà, không nói được một lời. Vua hỏi: Sao, có điều gì vậy?

Anh tâu: Kính tâu hoàng thượng!

Rồi sấp mình dưới chân vua và tâu thêm: Tâu có người muốn hại con. Con chẳng hiểu biết gì về túi bạc nầy cả. Con vừa rờ phải trong túi con đây.

Vua đáp: Hỡi người bạn trẻ ơi! Thường thường Đức Chúa Trời cũng thi hành công việc lớn lao cho chúng ta trong khi chúng ta ngủ chớ… Anh hãy gởi số bạc đó cho mẹ anh và thay tôi chào thăm mẹ anh, và nói rằng tôi sẽ chăm nom cả mẹ anh và anh nữa.

Con cháu biết hiếu kính và tôn trọng cha mẹ thì Chúa không quên bỏ đâu. Chúa thường ban thưởng những người con, cháu biết tưởng nhớ, giúp đỡ ông bà, cha mẹ. Con cháu ngỗ nghịch không vâng lời cha mẹ, bất hiếu thì bị Chúa rủa sả (Ê-phê-sô 6:1-3).

PHẦN THƯỞNG CỦA NGƯỜI HIẾU KÍNH CHA MẸ.

Vua Gustave III của Thụy Điển xưa, ngày kia một mình cỡi ngựa ngang qua một làng quê gần kinh đô. Vua khát nước mà bầu nước đem theo đã hết, lại không có quân hầu đi theo nên không sao có nước uống. Bỗng vua thấy có một cô gái đang múc nước ở một giếng nước bên đường, vua bèn thúc ngựa chạy đến xin nước uống. Cô thiếu nữ nghe xin vội vàng đổ vò nước mời vua uống. Uống xong, vua nói: Cám ơn cô cho tôi uống nước. Nếu cô bằng lòng theo tôi về Stockhom, tôi sẽ cho cô một địa vị tốt đẹp hơn.

Cô gái đáp: Thưa ông, tôi không thể nhận lời đề nghị của ông được. Tôi không có ý leo lên địa vị cao hơn địa vị mà Chúa đã cho tôi. Vả lại, tôi không muốn đi đâu xa đây cả.

Vua ngạc nhiên hỏi: Sao vậy cô?

Cô gái thưa: Vì mẹ tôi nghèo và bệnh hoạn chẳng có ai giúp đỡ, yên ủi trong cơn đau đớn, buồn thảm. Tôi không thể rời bỏ mẹ tôi được. Không có gì có thể khiến tôi bỏ phận sự làm con đối với mẹ tôi được.

Vua hỏi: Hiện thời mẹ cô ở đâu?

Cô đáp: Thưa, ở trong cái chòi kia!

Cô vừa nói vừa chỉ vào cái lều lụp xụp, tồi tàn. Vua xin phép theo cô đến thăm. Khi vua bước vào, thấy một bà già tàn tật ngồi trên một cái giường rơm rất thương tâm, vua nói: Thưa bà, tôi rất buồn khi thấy bà trong cảnh đau yếu đáng thương thế nầy.

Bà cụ nói: Thưa ông, tôi thật đáng thương, nhưng tôi vẫn quan tâm, thương xót đứa con gái đã làm việc mệt nhọc để nuôi tôi và giúp tôi không thiếu thứ gì. Nó an ủi tôi nhiều lắm. Cầu xin Chúa nhớ đến điều lành mà con tôi đã làm cho tôi.

Nói xong, bà lấy tay lau nước mắt. Vua Gustave vô cùng xúc động. Chưa khi nào vua cảm động bằng lần nầy khi nghe lời nói của bà và lòng chí hiếu của người con gái. Vua liền rút ra một túi bạc đặt vào tay thiếu nữ và nói: Hãy tiếp tục săn sóc và chăm nom mẹ cô. Tôi sẽ sớm giúp cô hiệu quả hơn để cô có thể săn sóc mẹ cô tốt đẹp hơn. Tôi xin từ giã cô. Cô hãy tin tưởng vào lời hứa của vua cô nhé!

Thế rồi sau khi về hoàng cung ở Stockhom, vua liền cấp cho mẹ cô gái một trợ cấp trọn đời, và khi mẹ cô qua đời, cô vẫn tiếp tục được thừa hưởng nữa.

MẸ ƠI! CON CHỈ CẦN MẸ.

Một cô bé nọ bị tàn tật lâu năm và phải ở mãi trong nhà. Thế nhưng mẹ cô bé lại là một người đàn bà ham vui. Bà không thích ở nhà mãi với con mình nên thuê một người vú em về chăm sóc cô bé. Bà đi du lịch khắp nơi và thỉnh thoảng gởi quà về cho con mình. Đôi khi bà gởi sách vở hoặc hình ảnh và cũng có khi gởi đồ nữ trang nữa.

Vào ngày sinh nhật của cô bé, bà gởi về tặng cho con một lọ cắm hoa của Ý rất đẹp. Khi người vú em mang tới, cô bé nhìn chiếc lọ rồi bảo: Cất đi, cất đi! Đừng gởi quà về cho con nữa! Con không cần sách vở, không cần hình ảnh hoặc lọ hoa đâu. Mẹ ơi, con chỉ cần mẹ thôi!

Rồi cô oà lên khóc nức nở.

Biết bao người tin Chúa nhưng cứ đòi giàu sang, may mắn, đòi ơn phước nầy nọ, cứ đòi mãi. Cho đến khi nào chúng ta cảm biết rằng “Tôi chỉ cần một mình Chúa thôi”, lúc đó đức tin chúng ta mới trưởng thành và ơn phước của Chúa tự nhiên sẽ theo chúng ta, như Đa-vít đã nói “Phước hạnh và sự thương xót sẽ theo tôi” (Thi 23:6).

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 03.05.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 03.05.2015

in NAM GIỚI on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 03.05.2015.

1. Đề tài: NƯỚC VINH HIỂN ĐỜI ĐỜI.

2. Kinh Thánh: 2Phi-e-rơ 3:9-14; Khải Huyền 21:1-8.

3. Câu gốc: “Vả, theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở” (2Phi 3:13).

4. Đố Kinh Thánh: E-xơ-ra 1-4.

5. Thể loại: Phỏng vấn.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 22.02.2015.

* GỢI Ý PHỎNG VẤN.

(Sau khi người hướng dẫn giới thiệu thể loại chương trình thờ phượng, phóng viên từ dưới phòng nhóm đi lên và Phi-e-rơ từ ngoài bước vào).

– Phóng viên: Dạ xin  kính chào cụ Phi-e-rơ!

– Phi-e-rơ: Chào các cháu!

– PV: Chúng cháu rất vui vì được cụ đến thăm hôm nay. Thay cho các bạn thanh niên trong Hội Thánh, cháu xin có lời chào mừng và hoan nghênh cụ. Nhân buổi gặp gỡ nầy cụ có thể giúp chúng cháu tìm hiểu về Nước vinh hiển đời đời xảy ra trong tương lai không thưa cụ?

– Phi-e-rơ: Được, các cháu cứ hỏi, ta sẽ giúp các cháu trong khả năng của ta.

– PV: Xin cụ vui lòng cho chúng cháu biết vì sao Chúa chưa trở lại?

– Phi-e-rơ: Theo 2Phi 3:9 cho biết lý do Chúa chưa trở lại là vì cớ chờ đợi người có tội ăn năn, chớ chẳng phải Ngài không trở lại.

– PV: Thưa cụ, có hình ảnh nào để minh chứng chắc chắn Chúa sẽ trở lại để chúng cháu giúp đỡ những người còn nghi ngờ hoặc hờ hững với sự tái lâm?

– Phi-e-rơ: Các cháu có thể dùng nhiều lời tiên tri của Chúa Giê-xu, các tiên tri, và các sứ đồ được chép trong Kinh Thánh để dẫn chứng trong khi nói chuyện với những người vô tín. Các cháu cũng có thể dùng hình ảnh cơn nước lụt trong thời Nô-ê để minh chứng Đức Chúa Trời đã hủy diệt thế giới loài người gian ác bằng cơn nước lụt.

– PV: Cám ơn cụ về sự giúp đỡ nầy. Thưa cụ, trong ngày cuối cùng Đức Chúa Trời sẽ hủy diệt thế giới tội lỗi nầy như thế nào?

– Phi-e-rơ: Theo lời Chúa, trời đất vẫn được giữ nguyên để dành cho lửa trong ngày phán xét sau cùng. Sự phán quyết của Kinh Thánh là lời cảnh cáo người vô tín và nhắc nhở những ai còn nghi ngờ về sự tái lâm của Đấng Christ.

– PV: Cụ có thể mô tả rõ ràng về ngày tận cùng của muôn vật không thưa cụ?

– Phi-e-rơ: Lời Chúa chép: “Các thể chất bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả… các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán” (2Phi 3:10,12).

– PV: Thưa cụ, khi nào Chúa dựng nên trời mới, đất mới và dựng nên như thế nào?

– Phi-e-rơ: Phía sau của sự tiêu hủy thế giới cũ đầy tội lỗi, một khung cảnh huy hoàng tinh khiết của trời mới đất mới hiện ra. Sự dựng nên mới nầy đã được tiên tri Ê-sai dự ngôn và trong sự hiện thấy của sứ đồ Giăng (Ê-sai 66:22; Khải 21:1).

– PV: Thưa cụ, tại sao Đức Chúa Trời tiêu hủy công việc sáng tạo, là công việc mà trước kia Ngài phán thật rất “tốt lành” và dựng nên trời mới, đất mới?

– Phi-e-rơ: Mọi công việc Ngài làm đều rất toàn hảo. Nhưng tiếc thay vì sự xâm nhập của tội lỗi, vì sự bất tuân của loài người nên con người không những chịu sự đoán phạt của Đức Chúa Trời mà còn gây ảnh hưởng tai hại cho mặt đất. Chính vì vậy, Đức Chúa Trời đốt cháy trời đất trong ngày phán xét cuối cùng để thanh lọc người ác, tẩy sạch vật sáng tạo vì đã bị uế nhiễm bởi tội lỗi.

– PV: Xin cụ vui lòng cho chúng cháu biết thêm về Nước vinh hiển.

-Phi-e-rơ: Nước vinh hiển là Nước toàn thiện của Ngài trên đất. Là nơi “sự công bình ăn ở”, nơi không có bóng của tội lỗi, nơi dành cho người được chuộc bởi ân điển Ngài (2Phi 3:13).

– PV: Thưa cụ, vậy là cuộc sống của con người nơi Nước vinh hiển khác hẳn cuộc sống nơi thế giới cũ tội lỗi phải không cụ?

– Phi-e-rơ: Các cháu nói rất đúng. Sự khác biệt nầy có thể thấy rõ trong những điểm sau đây:

– Trong thế giới cũ con người bị bịnh tật, sự chết, nước mắt, buồn rầu, đau đớn, tội lỗi, và cách xa Đức Chúa Trời.

– Nhưng trong Nước vinh hiển con người được sự sống đời đời, vui mừng, thánh khiết, phước hạnh trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời.

– PV: Cám ơn cụ đã giúp chúng cháu hiểu rõ hơn về Nước vinh hiển trong tương lai. Biết rõ điều nầy chúng cháu hứa sẽ giúp người khác hiểu biết về Nước vinh hiển và có sự ước ao vào sống trong Nước vinh hiển.

NHD: Thưa các bạn! Chúng ta vừa nghe cụ Phi-e-rơ giãi bày về Nước vinh hiển trong tương lai. Nguyện Chúa Thánh Linh ban năng lực để các bạn làm trọn những điều mình hứa nguyện với Chúa qua bài học nầy. Mời các bạn đứng lên và mời cụ Phi-e-rơ cầu nguyện cho chúng cháu.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Thế giới chúng ta đang sống là thế giới đầy dẫy nan đề vượt quá tầm tay của con người. Mặc dầu sự tiến bộ của khoa học hiện đại có thể giải quyết được một số vấn đề nhất thời của nhân loại nhưng con người không có cách nào để ngăn chận sức lan tràn của tội lỗi đang bành trướng mỗi ngày một thêm. Sự băng hoại đạo đức bên trong lòng người đã đến mức độ trầm trọng. Đó là nguyên nhân của bạođộng, xáo trộn không dừng mà chúng ta thấy khắp nơi trong xã hội loài người. Như thế tình trạng nầy cứ tiếp diễn mãi theo sự xoay vần của trái đất và bất biến với thời gian không? Thế giới loài người sẽ đi về đâu?

Kinh Thánh đã nói đến sự bắt đầu của thế giới, và cũng nói đến ngày cuối cùng của muôn vật. Điều nầy sẽ xảy ra như thế nào? Bên kia sự tận cùng là gì? Và có mục đích gì trong chương trình sáng tạo và cứu rỗi của Đức Chúa Trời đối với loài người trên đất?

I. DẪN GIẢI.

A. SỰ CUỐI CÙNG CỦA MUÔN VẬT.

1. Nền tảng Kinh Thánh về ngày tận thế.

Ngày tận thế là điều chắc chắn theo như lời tiên tri trong Kinh Thánh.

– Mathiơ 24:3-14: Chính Chúa Giê-xu đã bày tỏ cho môn đồ biết những biến cố sẽ xảy ra dẫn đến ngày tận thế.

– 1Phi-e-rơ 4:7: Sứ đồ Phi-e-rơ cũng đã cảnh tỉnh con cái Chúa về sự cuối cùng của muôn vật hầu gần.

– 2Phi-e-rơ 3:3-9: Chúa không chậm trễ về sự hiện đến của Ngài. Lý do Ngài chưa đến là vì cớ chờ đợi người có tội ăn năn, chớ không có nghĩa Ngài sẽ không trở lại để thi hành sự đoán phạt thế gian. Trong thời Nôê, thế giới loài người đã có lần bị hủy diệt bằng cơn nước lụt. Tuy nhiên, trời đất theo lời Chúa vẫn được giữ nguyên để dành cho lửa trong ngày phán xét sau cùng của nhân loại. Sự phán quyết của Kinh Thánh là lời cảnh cáo người vô tín khinh lờn về ngày chung kết của thế gian, và nhắc nhở những ai còn nghi ngờ về sự tái lâm của Đấng Christ.

2. Thời điểm và diễn tiến về sự tận cùng của muôn vật.

Theo các diễn tiến nói đến trong Khải Huyền 20:7,11, thì biến cố của ngày tận thế sẽ xảy ra sau thời đại Thiên hi niên, và trước ngày phán xét cuối cùng của thế giới. “Bấy giờ tôi thấy một tòa lớn và trắng cùng Đấng đương ngồi ở trên; trước mặt Ngài trời đất đều trốn hết” (c.11).

Sự tận cùng của muôn vật được mô tả trong biến động với tiếng vang rền của các từng trời, sự đốt cháy của lửa và hết thảy đều bị thiêu hủy: “Các thể chất bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả… các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán” (2Phi 3:10,12).

B. SỰ DỰNG NÊN TRỜI MỚI ĐẤT MỚI.

Phía sau của sự tiêu hủy thế giới cũ đầy tội lỗi, một khung cảnh huy hoàng tinh khiết của trời mới đất mới hiện ra. Sự dựng nên mới nầy đã được tiên tri Ê-sai dự ngôn và trong sự hiện thấy của sứ đồ Giăng (Ê-sai 66:22; Khải 21:1).

Trong Sáng 1:1-3; Giăng 1:3, bày tỏ sự dựng nên muôn vật là công việc của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Và trong sự làm mới muôn vật cũng là công việc của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Trong Khải 21:6, Đức Chúa Trời được xưng bằng danh hiệu “An-pha và Ô-mê-ga”, là danh hiệu cũng được dùng cho Đức Chúa Con. Điều nầy cho thấy sự bình quyền và đồng công của Đức Chúa Trời Ba Ngôi.

Nói đến sự dựng nên mới, có thể một câu hỏi được nêu lên: Tại sao Đức Chúa Trời tiêu hủy công việc sáng tạo trước kia, là công việc mà Ngài phán thật rất “tốt lành” và dựng nên trời đất mới? Chúng ta có thể tìm thấy trong những lý do sau đây:

Đức Chúa Trời là Đấng Toàn thiện, Toàn mỹ. Mọi công việc Ngài làm đều toàn hảo. Nhưng tiếc thay vì sự xâm nhập của tội lỗi, trên trời với sự dấy loạn của Lu-xi-phe đã kéo theo một số thiên sứ, kết hợp thành nước của sa-tan chống nghịch với Đức Chúa Trời (Êph 6:12); dưới đất, sa-tan cám dỗ loài người bất phục Đức Chúa Trời, sự phạm tội của loài người chẳng những chuốc lấy sự đoán phạt của Đức Chúa Trời, lại còn gây ảnh hưởng tai hại cho mặt đất (Sáng 3:17-19). Cho nên với sự đốt cháy trời đất trong ngày phán xét cuối cùng, Đức Chúa Trời có mục đích thanh lọc người ác, tẩy sạch vật sáng tạo vì đã bị uế nhiễm bởi tội lỗi và dựng nên mới là để bắt đầu cho Nước vĩnh viễn, toàn thiện của Ngài trên đất, nơi “sự công bình ăn ở”, nơi không có bóng của tội lỗi, dành cho người được chuộc bởi ân điển Ngài (2Phi 3:13).

C. THÀNH GIÊ-RU-SA-LEM MỚI.

Trong cảnh trời mới, đất mới, thành Giê-ru-sa-lem mới cũng được xuất hiện. Tính từ “mới” diễn tả trọn vẹn sự toàn hảo, trong sạch của nước vinh hiển đời đời. Danh hiệu Giê-ru-sa-lem mới còn được gọi là “Thành của Đức Chúa Trời”, “thành thánh”, “vợ mới cưới là vợ Chiên Con” (Khải 3:12; 21:1,9). Những danh hiệu nầy có thể bao gồm hai ý như sau: (1) Giê-ru-sa-lem mới nói về thủ đô của nước Đức Chúa Trời, với sự ngự trị của Ngài ở giữa dân sự Ngài (Khải 21:3). (2) Giê-ru-sa-lem mới ám chỉ người, một tập thể của những người được chuộc, tức là Hội Thánh của Đấng Christ. Trong ý nghĩa nầy, Giê-ru-sa-lem mới cũng được gọi là “Giê-ru-sa-lem ở trên cao” (Gal 4:26).

Theo Khải Huyền 21:9-22:5, Giê-ru-sa-lem mới được diễn tả như sau: Là một thành hình vuông lập phương, có cạnh dài khoảng 1.500 dặm, chiếm diện tích 2.250.000 dặm vuông. Thành có một bức tường cao lớn, với 12 cửa, mỗi cửa làm bằng hột châu nguyên khối. Các cửa được sắp theo bốn hướng; ba cửa phía Đông, ba cửa phía Tây, ba cửa phía Nam và ba cửa phía Bắc. Mỗi cửa đề tên một chi phái Y-sơ-ra-ên. Tường thành được đặt trên 12 nền, trên đó có đề tên 12 sứ đồ. Mỗi nền được trang điểm bằng một thứ ngọc quí như bích ngọc, đá lam bửu, lục mã não, lục cẩm, hồng mã não, hoàng ngọc, ngọc hoàng bích, ngọc thủy thương, ngọc hồng bích, ngọc phỉ túy, hồng bửu, tử bửu. Đường phố lót bằng vàng ròng. Ở giữa thành và trên hai bờ sông có cây sự sống trổ mỗi tháng một mùa. Thành không cần mặt trời vì Chiên Con là sự sáng của thành.

Thành Giê-ru-sa-lem mới theo sự diễn tả trên cho chúng ta thấy có những đặc điểm và ý nghĩa sau đây:

(1) Đây là một thành thực sự.

(2) Đây là thành thánh từ trời, ở nơi Đức Chúa Trời hiện xuống, là thành mà các nhà giải kinh cho là nơi Chúa Giê-xu phán hứa với môn đồ trước khi Ngài về trời (Giăng 14:3).

(3) Đây là thành có sự ngự trị của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Đức Cha là Đền thờ của thành, Đức Con là Sự sáng của thành và Đức Thánh Linh là Sự sống của thành.

(4) Thành của sự cứu rỗi và sự cứu rỗi đến từ tuyển dân Y-sơ-ra-ên. Tên 12 chi phái ghi mỗi cửa tiêu biểu cho tuyển dân Y-sơ-ra-ên. Hạt châu làm cửa chỉ về Chúa Giê-xu, Đấng được sanh ra trong dòng dõi Đa-vít, là “Cửa” dẫn vào sự cứu rỗi (Giăng 4:22;10:9).

(5) Một thành bao la rộng lớn như được mô tả trong kích thước (Khải 21:16).

(6) Một thành hoàn hảo. Kiểu hình vuông lập phương, Kinh Thánh thường dùng làm tiêu biểu cho sự hoàn hảo trọn vẹn (Xuất 27:1; 30:2; 1Vua 6:20).

(7) Một thành được xây trên nền xinh đẹp vô cùng (Khải 21:18-19). Nền chỉ về các sứ đồ trong sự xây dựng Hội Thánh trên lẽ thật của Tin Lành (Êph 2:20).

(8) Một thành của vua vinh hiển, rực rỡ, vinh quang như được diễn tả trong chất liệu kiến trúc bằng vàng ròng (Khải 21:18).

(9) Cây sự sống của vườn Ê-đen mà loài người đã đánh mất được tìm lại trong thành Giê-ru-sa-lem mới.

(10) Dân sự của thành Giê-ru-sa-lem mới là người có tên trong sách sự sống, tức là người được cứu chuộc bởi huyết của Đấng Christ.

Qua những đặc điểm trên cho thấy người trong trời mới đất mới và Giê-ru-sa-lem mới khác hẳn với cảnh trạng của người trong thế giới cũ. Sự khác biệt nầy có thể thấy rõ trong những điểm sau đây:

– Trong thế giới cũ: Bịnh tật, sự chết, nước mắt, buồn rầu, đau đớn, tội lỗi, và cách xa Đức Chúa Trời.

– Trong thành Giê-ru-sa-lem mới: Sự sống đời đời, vui mừng, thánh khiết, phước hạnh, không có ban đêm, và ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời mãi mãi.

Khi cảnh trời mới đất mới xuất hiện, chúng ta nghe có tiếng phán của Đức Chúa Trời “Xong rồi” (Khải 21:6). Lời phán nầy có thể xem như một lời tuyên bố về sự hoàn thành chương trình vĩ đại của Đức Chúa Trời trong công cuộc sáng tạo và cứu chuộc loài người. Và sự lập nước vĩnh viễn cho người được chuộc là cứu cánh cuối cùng của chương trình cứu rỗi của Ngài.

Một tuyệt điểm của tình yêu thương Ngài được chiếu sáng trong quang cảnh rực rỡ của thành Giê-ru-sa-lem mới với những người được chuộc bởi ân điển Ngài qua sự xả thân của Đấng Christ.

Một câu hỏi có thể nêu lên là: Khi nước Thiên hi niên đi vào nước vĩnh viễn, nghĩa là từ vương quốc của Đấng Christ đến vương quốc của Đức Chúa Trời theo điều nói đến trong 1Cô-rinh-tô 15:24-28, thì quyền trị vì của Đấng Christ có chấm dứt không hay vẫn tiếp tục?

Theo sự bình giải của Me Alaim, vấn đề trên có thể hiểu như sau:

(1) Khi người thù sau cùng của Đức Chúa Trời là sa-tan đặt dưới chân của Đấng Christ, Vua Trung Bảo, bấy giờ mục đích của nước Thiên hi niên hay vương quốc trung bảo sẽ được trọn.

(2) Lúc đó Đấng Christ sẽ trao vương quốc trung bảo cho Đức Chúa Trời để trở thành vương quốc vĩnh viễn. Không có sự phân chia nào giữa hai vương quốc nầy (1Côr 15:24-26).

(3) Đây không có nghĩa chấm dứt quyền tể trị của Đấng Christ. Ngài chỉ dừng chức vụ trung bảo, nhưng vì là Con, vị phẩm Ngôi Hai trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời hiệp nhất, Ngài sẽ tiếp tục trị vì với Chúa Cha trong cõi đời đời. Vinh dự của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh được thấy rõ trong vương quốc thần quyền vĩnh viễn, một sự hiệp một trọn vẹn trong sự tể trị muôn vật (Khải 21:10; 22:1-5; Giăng 17:23).

Tóm lược.

1. Trong ngày cuối cùng của thế giới, trời đất sẽ bị thiêu hủy bằng lửa. Trời mới đất mới sẽ được dựng nên để làm nơi ở vĩnh viễn cho người công bình.

2. Giê-ru-sa-lem mới là thủ đô của Nước vĩnh viễn đời đời. Đây là thành thánh, từ trời giáng xuống với sự ngự trị của Ba Ngôi Đức Chúa Trời, đầy dẫy vinh hiển, rực rỡ oai nghiêm.

3. Trong thành Giê-ru-sa-lem mới không còn có sự chết, nước mắt và đau khổ.

4. Chỉ có người được ghi tên trong sách sự sống của Chiên Con mới được nhận làm công dân của Nước vĩnh viễn.

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. a. Ma-thi-ơ 24:3-14: Chúa Giê-xu cho môn đồ biết trước điều gì sẽ xảy đến cho thế giới?

b. 1Phi-e-rơ 4:7: Sứ đồ Phi-e-rơ nhắc con cái Chúa điều gì?

c. 2Phi 3:9-12; Khải 20:7,11: Sự cuối cùng của muôn vật sẽ được xảy ra khi nào? Tại sao chúng ta biết điều nầy là chắc chắn?

2. Xin tóm lược những điểm quan trọng làm dẫn chứng cho người không tin có sự tận thế hay còn nghi ngờ về lời hứa của Chúa (2Phi 3:3-7).

3. a. Ê-sai 66:22; Khải Huyền 21:1: Sau sự tiêu hủy muôn vật sẽ có điều gì?

b. Ê-sai 65:17; Khải Huyền 21:6 so sánh với Sáng Thế Ký 1:1; Giăng 1:3: Trời mới đất mới sẽ do ai dựng nên?

4. Sáng 3:17-19,22-24;6:5-6; 2Phi-e-rơ 3:12-13: Tại sao thế giới bị hủy diệt và sự dựng nên trời mới và đất mới nhằm mục đích gì?

5. a. Khải Huyền 21:3;3:12;21:9: Thành Giê-ru-sa-lem mới còn được gọi bằng những danh hiệu nào khác và có nghĩa gì?

b. Khải Huyền 22:3,10,22-23: Trong thành Giê-ru-sa-lem mới có sự hiện diện của ai?

c. Khải Huyền 21:9-22:5. Cho biết về sự xây cất, kích thước của thành Giê-ru-sa-lem. Quang cảnh nầy có ý nghĩa gì?

d. Khải Huyền 22:8,27. Điều kiện nào để được trở thành công dân của thành Giê-ru-sa-lem mới?

6. a. Xin tóm lược những đặc điểm của thành Giê-ru-sa-lem mới.

b. Người ở trong thành Giê-ru-sa-lem mới được hưởng những phước hạnh gì? So sánh người trong thành Giê-ru-sa-lem mới với thế giới cũ (Khải 21:3-4,23-27).

7. a. Khải Huyền 21:6: Đức Chúa Trời xưng Ngài trong danh hiệu nào? Và danh hiệu nầy cũng được ai xưng nữa? (Khải 1:17; 22:13. Điều nầy có nghĩa gì?

b. Lời phán của Đức Chúa Trời “xong rồi” trong Khải 21:1-6, có nghĩa gì đối với chương trình sáng tạo và cứu chuộc của Ngài?

8. Bạn có đủ điều kiện được nhận vào Nước vinh hiển đời đời không? Vì sao bạn biết?

Chương trình thờ phượng Ban Nam Giới Chúa nhật 26.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Nam Giới Chúa nhật 26.04.2015

in NAM GIỚI on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 26.04.2015.

1. Đề tài: NƠI Ở ĐỜI ĐỜI CỦA NGƯỜI ÁC.

2. Kinh Thánh: Khải Huyền 9:2-11; 20:11-15; 21:8.

3. Câu gốc:  “Còn những kẻ hèn nhát, kẻ chẳng tin, kẻ đáng gớm

ghét, kẻ giết người, kẻ dâm loạn, kẻ phù phép, kẻ thờ thần

tượng, và phàm kẻ nào nói dối, phần của chúng nó ở trong hồ

có lửa và diêm cháy bừng bừng: Đó là sự chết thứ hai”(Khải

21:8).

4. Đố Kinh Thánh: 2Sử Ký 33-36.

5. Thể loại: Thảo luận.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 18.01.2015.

Đề tài 1: Người chết còn có cơ hội được cứu.

Đề tài 2: Không còn cơ hội được cứu cho người đã chết.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Trên cõi tạm nầy, một vấn đề thật khó hiểu là sự hưng thạnh

của người ác và sự chịu khổ của người côngbình. Một sự trái ngược

vô cùng, một điều xem có vẻ quá bất công!  Tuy nhiên, điểm quan

trọng giữa hai hạng người nầy là chỗ ở cuối cùng của họ trong cõi

đời đời.

Qua lời Kinh Thánh, chúng ta biết được cảnh trạng tạm cư hay

trạng thái trung gian của người ác sau khi chết để chờ đợi ngày

phán xét. Như vậy sau khi chịu sự phán xét của Chúa, số phận đời

đời của người ác là gì? Và có sự khác nhauthế nào so với tương lai

vĩnh viễn của người công bình?

I. DẪN GIẢI.

A. ÁN PHẠT CỦA NGƯỜI ÁC.

1. Sự chết thứ hai.

105

Sự chết thứ hai là án phạt đã định cho người ác trong ngày

phán xét sau cùng. Án phạt nầy cũng đồng nghĩa với sự hình phạt

là hồ lửa đời đời (Khải 20:14). Tại sao gọilà sự chết thứ hai?

Sự chết nói chung là án phạt trên dòng dõiloài người phạm tội.

Tuy nhiên án phạt nầy không tác dụng tức khắc cho con người như

phải có ngay trong hiện tại, nhưng được thể hiện qua những giai

đoạn. Trước hết, theo luật Đức Chúa Trời định cho mọi người phải

trải qua sự chết thể xác để chờ đợi sự phán xét của Ngài (Hêb

9:27). Đây có thể gọi là sự chết thứ nhất.Sau khi chết, người ác bị

giam cầm nơi âm phủ cho đến ngày thẩm phán chung kết. Khi đó

họ được sống lại để ứng hầu trước toà án  trắng và lớn của Chúa.

Án phạt cuối cùng của họ là sự chết đời đời trong nơi khổ hình mà

Kinh Thánh gọi đó là sự chết thứ hai nghĩa là linh hồn vĩnh viễn bị

xa cách với Đức Chúa Trời.

Án phạt về sự chết cũng được Kinh Thánh nói đến trong những

từ gọi khác nhau như sau:

2. Hư mất hay bị hư mất (Phil 1:28; 3:19).

Từ nầy được Kinh Thánh Tân Ước thường dùng  ám chỉ về sự

vĩnh hình. Tình trạng hư mất của tội nhân có  nghĩa là không đạt

đến mục đích tối hậu của Đức Chúa Trời đã  định cho mình. Cho

nên trước mặt Chúa người ấy bị xem vô dụng,như bình gốm bị bể

và bị người ta vứt bỏ mà thôi!

3. Diệt vong.

Chữ hư mất trong Giăng 3:16 có nghĩa là diệt vong, chỉ về sự xa

cách đời đời khỏi sự hiện diện của Chúa (2Tês 1:9).

4. Tuyệt vọng, không có sự trông cậy(Êph 4:18).

Điều này chỉ về sự bị loại ra khỏi đặc ân và đặc quyền của Chúa.

5. Bị phân rẽ với Đấng Christ, không có sự sống của Ngài

(1Giăng 5:12).

106

6. Bị quăng ra chốn tối tăm(Mat 8:12).

Chỉ người trong tình trạng bị loại ra ngoài ânđiển cứu rỗi của

Chúa, bị đặt vào một tình trạng vô cùng khốn khổ.

7. Bị đặt dưới cơn thạnh nộ của Chúa(Giăng 3:36).

Tóm lại án phạt trên người ác là:

(1) Án phạt có tính cách đời đời.

(2) Sự chết trong án phạt nầy không có nghĩalà sự tiêu tan và

trở thành hư vô, nhưng người ác ở trong tình  trạng vĩnh viễn bị

phân cách với Đức Chúa Trời, bị loại ra khỏi Nước Đức Chúa Trời, bị

mất phần ân điển cứu rỗi của Đấng Christ, và bị đặt dưới cơn thạnh

nộ của Ngài.

(3) Không còn có tia hy vọng nào, không còn  có cơ hội thứ hai

cho người dưới hình án trong hồ lửa đời đời.

B. NƠI HÌNH PHẠT NGƯỜI ÁC.

Chỗ hình phạt người ác được Kinh Thánh nói đến trong hai từ sau:

1. Địa ngục (Mat 5:22,29-30,18:9).

Chữ  “Địa ngục”được dịch từ chữ Hy-lạp là Gehenna và tiếng

Hy-bá-lai gọi là “trũng Hi-nôm”. Có chừng 13lần Kinh Thánh Tân

Ước đề cập đến chữ nầy. Theo nghĩa đen, Gehenna hay trũng Hi-nôm là một địa điểm cách thành Giê-ru-sa-lemchừng một dặm

rưỡi về phía đông nam là nơi trước kia dân ngoại thiêu con cái họ

trong lửa để cúng tế cho thần Mo-lóc, một điều vô cùng gớm ghiếc

trước mặt Đức Chúa Trời (2Các 23:10). Sau nầy người Do Thái dùng

chỗ ấy làm nơi đổ rác rến, những vật ô uếthừa thải, có lửa cháy

không dứt, và dần dần trở thành một hầm lửa. Vì vậy chữ Gehenna

được Kinh Thánh dùng làm tượng trưng cho nơi đau khổ, rủa sả

hình phạt người gian ác vĩnh viễn trong tương lai, nơi Chúa Giê-xu

bày tỏ “sẽ có khóc lóc và nghiến răng”(Mat 24:51), mà chúng ta

gọi là địa ngục.

107

2. Hồ lửa và diêm(Khải 20:10,14-15).

Hồ lửa và diêm hay gọi là “hồ cháy bằng lửa và lưu hoàng

chẳng hề tắt”. Lưu hoàng là chất cháy tỏa ra năng lượng rất cao.

Sự nóng bỏng nầy diễn tả được nơi đau đớn kinh khiếp hình phạt

người ác!

Một câu hỏi có thể nêu lên ở đây là: Lửađoán phạt người ác có

phải là lửa hữu hình không? Với độ nóng của diêm sanh thì xác thịt

nào có thể chịu nổi? Hơn nữa Satan và các thiên sứ là thuộc linh,

thì thế nào có thể bị đốt cháy trong hồ lửadiêm sanh?

Thật ra, lửa diêm sanh là hình bóng chỉ về thứ lửa vô hình.

Trong cõi đời nầy, lửa hữu hình thích hợp vật chất thể nào thì trong

cõi đời sau, lửa vô hình cũng thích ứng với linh thể như vậy. Vì thể

chất tiêu tan nên lửa hữu hình cũng có khi tắt. Nhưng với linh thể

bất diệt, thì ngọn lửa vô hình kia cũng sẽ chẳng hề tắt vậy. Thực

ra, điểm chính không phải là tánh chất của lửa, nhưng lửa được

Kinh Thánh nói đến để chúng ta có thể nhờ đó mà nhận biết được

sự kinh khiếp của nơi đoán phạt người ác trong cõi đời đời.

Tóm lại, địa ngục hay hồ lửa là nơi vĩnh hìnhcủa người ác. Kinh

Thánh không xác định địa điểm của nơi nầy, nhưng là một nơi có

thực, nơi Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho người ác. Trong ngày phán

xét cuối cùng, người ác được tạm giam trong  âm phủ sẽ được

chuyển vào nơi hỏa ngục là nơi vĩnh hình của chúng.

3. Những đối tượng chịu hình phạt nơi hồ lửa.

Người ác được nói đến trong Khải Huyền 21:8  có thể được liệt

vào hạng người cứng lòng chẳng bao giờ ăn năn, và kết hợp với sa-tan không thôi chống nghịch Đức Chúa Trời, khinh lờn, phạm

thượng đến Đức Thánh Linh (Rô 2:5; Mác 3:29),cho nên họ cũng

chung số phận với sa-tan trong hồ lửa đời đời. Về những người lộng

ngôn với Đức Thánh Linh, nhà thần đạo A.H. Strong luận như sau:

“…Là người chẳng dứt phạm tội, sự chẳng dứt phạm tội đó đã

108

chuốc lấy cho họ sự đau đớn đời đời, đó làhình phạt đã định, tức

là sự đoán phạt đời đời”.

C. CẢNH TRẠNG CỦA NGƯỜI ÁC TRONG NƠI VĨNH HÌNH.

Cảnh trạng người ác trong

hỏa ngục.

– Sống chung với Satan và các

ác quỉ.

– Đời đời xa cách Đức Chúa

Trời.

– Đau khổ khóc lóc và buồn

thảm ngày đêm chẳng dứt.

– Bị rủa sả, không được dự phần

trong ân điển cứu rỗi của Chúa.

– Tuyệt vọng không được giải

cứu.

– Ở trong sự tối tăm và hổ thẹn.

Cảnh trạng người công

bình nơi thiên đàng.

– Được sống với Chúa.

– Được giao thông với Ngài.

– Vui thỏa, phước hạnh mãi

mãi trong sự hiện diện của

Chúa.

– Được dự phần cơ nghiệp

trong sự cứu rỗi của Chúa.

– Được sung mãn trong thế

giới vô biên.

– Được mặc lấy thân thể vinh

hiển sáng láng lạ lùng.

Bảng so sánh trên cho thấy hai bức ảnh tương  phản giữa người

công bình và người ác. Trong cõi đời nầy người công bình bị người

ác áp bức. Nhưng trong cõi đời sau, người công bình được phước,

và người ác bị đoán phạt tùy theo công việchọ làm. Đức Chúa Trời

là Đấng công bình dường nào! Đây là điều anủi người công bình

đang chịu khổ, cũng như cảnh cáo người ác vềsự đoán phạt của

Chúa, nếu không ăn năn.

Vì vậy, sống trong cõi đời tạm, người công bình hãy bền lòng

tin cậy Chúa, sống với tình yêu thương, đem ân điển cứu rỗi của

Chúa cho mọi người để họ không bị sa vào hồlửa đời đời.

Về sự vĩnh hằng, với các thuyết như phục hồi, tiêu diệt, và cơ

hội thứ hai là điều không thể chấp nhận được theo như lẽ thật Kinh

Thánh chúng ta đã học. Vì những lẽ sau đây:

109

1. Hỏa ngục là nơi hình phạt người ác chớ không là nơi cải thiện

người ác. Không phải Đức Chúa Trời không có tình yêu thương, vì

Ngài đã ban cho loài người cơ hội để ăn năn(2Phi 3:9-10) và đây

là lúc sự công nghĩa phải được thi hành.

2. Trong câu chuyện người giàu có và La-xa-rơchúng ta thấy rõ

không có cơ hội thứ hai để được cứu sau khi qua đời (Lu 16:19-31).

3. Nếu người ác bị tuyệt diệt trong hỏa ngục, thì tại sao lửa của

hỏa ngục đời đời chẳng hề tắt? (Khải 20:10).

Như vậy, điểm nguy hại của các thuyết trên là khiến cho tín đồ

bê trễ trong việc rao giảng Tin Lành; cũng như người ta thờ ơ với

ơn cứu rỗi của Chúa trong khi còn có dịp tiện là “ngày nay” vì nghĩ

rằng “không sao”, còn có cơ hội thứ hai… Và  cho dù có sa vào nơi

khổ hình, thì cũng có ngày được phục hồi nhận cứu ân của Chúa?

Tóm lược.

1. Án phạt của người ác trong ngày phán xétcuối cùng là sự

chết thứ hai, tức là sự chết đời đời.

2. Hỏa ngục là nơi vĩnh hình của người ác.

3. Trong cõi đời đời người ác sẽ cùng chung  số phận với Satan

trong hỏa ngục.

4. Không có sự tận diệt, không có sự phục hồi, không có cơ hội

thứ hai cho người bị hình phạt trong hỏa ngục,tỏ rằng sự công

nghĩa của Đức Chúa Trời nghiêm trọng là dường nào!

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. a. Khải Huyền 20:14: Án phạt trên người ác trong ngày phán xét

cuối cùng là gì? Và có nghĩa gì?

b. Sự hình phạt đời đời trên người ác còn được Kinh Thánh nói

đến trong những từ nào khác và có nghĩa gì? (Ê-phê-sô 1:9; Phi-líp

3:19, 1Giăng 5:12, Ma-thi-ơ 8:12, 25:41,46, Giăng3:36).

2. Xin tìm hiểu ý nghĩa những chữ sau đây:

110

a. Địa ngục: Ma-thi-ơ 5:22,29-30;18:9.

b. Hồ lửa: Khải Huyền 20:10,15.

3. Theo ý nghĩa trên cho chúng ta hiểu thế nào về nơi hình phạt

người ác?

4. Khải Huyền 20:10,14-15;21:8: Trong nơi đoán phạt nầy gồm có

những ai? Tại sao họ phải chịu chung hình phạtvới ma quỉ?

5. Xin tóm lược những điều nói về án phạt và nơi hình phạt. Xin

tìm hiểu cảnh trạng của người ác thế nào trong nơi vĩnh hình

nầy? (Xem thêm Khải 9:2,11; 20:10b).

6. So sánh cảnh trạng của người công bình vàngười ác trong nơi

thiên đàng và địa ngục. Sự khác nhau nầy chochúng ta nhận

biết trách nhiệm gì của mình trong cuộc sống trên cõi tạm nầy

đối với chính mình, với người nhà mình và những người chung

quanh chúng ta?

7. Bạn có thái độ nào đối với Chúa khi họcbiết về sự công nghĩa

của Ngài?

8. Biết được sự vĩnh hình của người ác, bạn có nhận thức gì về trách

nhiệm của mình trong cõi đời nầy đối với người chưa tin Chúa?

 

Chương trình thờ phượng Ban Nam Giới Chúa nhật 19.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Nam Giới Chúa nhật 19.04.2015

in NAM GIỚI on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 19.04.2015.

1. Đề tài: NƠI Ở ĐỜI ĐỜI CỦA NGƯỜI CÔNG BÌNH.

2. Kinh Thánh:Ma-thi-ơ 25:34; Giăng 14:2-3.

3. Câu gốc:“Hỡi các ngươi được Cha Ta ban phước, hãy đến mà

nhận lấy nước thiên đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi

dựng nên trời đất” (Mat 25:34b).

4. Đố Kinh Thánh:2Sử Ký 29-32.

5. Thể loại: Trò chơi lớn.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 15.02.2015.

* Diễn tiến trò chơi.

a. Mở đầu.

BHD cho các nhóm tranh đua với nhau. Nhóm xếp  hàng dọc

trước BHD. Khi các nhóm đã ổn định, người hướng dẫn giới thiệu

chủ đề: Nơi ở đời đời của người công bình.

-Thưa các bạn! Theo sự bày tỏ của Kinh Thánh, người tin Chúa

sau khi chết, linh hồn được sống với Ngài trong Ba-ra-đi để chờ

đợi sự cứu chuộc thân thể. Khi Đấng Christ tái lâm, người tin Chúa

được sống lại và vào nơi vinh hiển của mình.Để hiểu biết thêm về

nơi ở và đời sống phước hạnh của người tin,mời các bạn cùng

tham gia trò chơi hôm nay.

b. Xuất phát.

95

Tất cả các nhóm phải tập trung tại điểm xuất phát. Ban tổ chức

phổ biến thể lệ cuộc thi và mỗi nhóm cử ramột người, đại diện

nhóm để “Vượt chướng ngại vật”.

(“Chướng ngại vật” là những câu hỏi do ban tổ chức soạn ra như: Vì

sao con người phải chết? Sau khi chết, con người sẽ đi về đâu? …)

Đại diện của nhóm nào vượt qua được “chướngngại vật” mới

được nhận mật thư.

_Mật thư 1:  TIMF CAAU HOIR DWIS QUYEENR KINH THANHS

TAIJ TOAF GIANGR.

_Chìa khóa: Chữ điện tín.

Trạm 1.

_Yêu cầu:

– Tập trung nhóm thành hàng dọc, báo cáo sốngười trong

nhóm.

– Phát câu hỏi viết sẵn ra giấy, cho nhóm thảo luận và trả lời

câu hỏi.

1. Đọc Rô-ma 2:7; 6:23; Ma-thi-ơ 25:46 cho biết trong sự phán

xét của Chúa, người công bình nhận được ân phúc gì?

2. Đánh X vào câu  đúng nhất. Sự sống đời đời là: _Sự sống

từ Chúa. _Sự sống trong Chúa. _Sự sống với Chúa.  _ Tất cả

các câu trên.

_Mật thư 2:

T  I M  N G U

G  C H U T O

N  A N G H I

A  Đ N E I C

B  G N A M  O

_Chìa khóa:

96

Trạm 2.

_Yêu cầu:

– Tập trung nhóm thành hàng dọc, báo cáo sốngười trong

nhóm.

– Phát câu hỏi viết sẵn ra giấy, cho nhóm thảo luận và trả lời

câu hỏi.

(1) Đánh X vào câu đúng nhất.

Nơi ở đời đời của người công bình là:

_Ba-ra-đi.  _Thiên đàng.  _Một nơi khác.

(2) Trả lời câu hỏi.

– Theo Kinh Thánh, Thiên đàng còn có những tên gọi nào?

_Mật thư 3:

T P I H M U D O O C

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

N H G A C N H H U

11 12 13 14 15 16 17 18 19

_Chìa khóa: Trước lẻ, sau chẵn.

Trạm 3.

_Yêu cầu:

– Tập trung nhóm thành hàng dọc, báo cáo sốngười trong

nhóm.

– Phát câu hỏi viết sẵn ra giấy, cho nhóm thảo luận và trả lời

câu hỏi.

Đọc Ma-thi-ơ 25:46; 3:11,12; 22:3-4; Rô-ma 8:17,  kể ra những

phước hạnh của người công bình trong nơi ở đời đời.

3. Kết thúc.

97

Thưa các bạn!

Chúng ta biết Chúa ban sự sống đời đời cho người công bình.

Tại thiên đàng, người công bình được giao thông với Chúa mặt đối

mặt, được nhận biết đầy trọn, được vui vẻ và thỏa mãn, được

thoát khỏi quyền lực của tội lỗi, được hưởng cơ nghiệp trong Đấng

Christ, được hầu việc và thờ phượng Chúa…

Nguyện mỗi người chúng ta có sự chuẩn bị trong đời nầy để

hưởng trọn niềm vui sống với Ngài trên thiên đàng.

– Cầu nguyện theo sự dạy dỗ.

– Công bố kết quả và phát thưởng.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Luận về vấn đề sống chết của con người, theo sự bày tỏ của

Kinh Thánh thì loài người trên cõi thế sẽ đivào ba giai đoạn. Thứ

nhất, phải trải qua sự chết. Thứ hai, sau khichết linh hồn người tin

được sống với Ngài trong Barađi gọi là nơi tạm cư để chờ đợi sự

cứu chuộc thân thể, còn linh hồn người ác bị giam giữ nơi Âm phủ

để chờ đợi sự phán xét. Và giai đoạn thứ ba, với sự tái lâm của

Đấng Christ, người tin được sống lại và vào nơi vĩnh viễn của mình,

còn người chẳng tin cũng được sống lại để chịu sự phán xét và đi

vào nơi hình phạt đời đời của mình. Trong bàihọc nầy chúng ta tìm

xem người công bình sẽ nhận được sự ban thưởng gì? Đâu là nơi ở

của người công bình? Và đời sống nơi đó sẽ như thế nào?

I. DẪN GIẢI.

A. ÂN PHÚC CỦA NGƯỜI CÔNG BÌNH.

Trong ngày phán xét cuối cùng, người ác lãnh án phạt là sự

chết đời đời. Trái lại người công bình nhậnlãnh ân phúc là sự sống

đời đời.

1. Ý nghĩa của chữ “đời đời”.

98

“Đời đời”theo nguyên văn Hy-lạp là Aion (danh từ); hoặc

Aaionios (tính từ). Trong Kinh Thánh Tân Ước, chữ  đời đờiđược

dùng trong hai hình thức danh từ và tính từ. Về cách dùng nầy, nhà

thần đạo A. A Hodge luận như sau:

“Ngoài hai chữ Hy-lạp aion và aionios, chẳng có chữ nào sáng

tỏ hơn để diễn tả ý niệm vĩnh cửu vô cùng,vô tận, vô biên. Mặc

dầu trong Kinh Thánh Tân Ước có vài chữ đờiđời được dùng để chỉ

thời gian hữu hạn, nhưng hầu hết những chỗ khác, chữ đời đời đều

được ám chỉ thời gian vô hạn. Trong ý nghĩa nầy, chữ đời đời được

dùng để chỉ về sự vĩnh hằng của Đức Chúa Trời Ba Ngôi; chỉ về

tương lai phước hạnh vĩnh viễn của người côngbình cũng như tương

lai vĩnh hình của người ác  (1Tim 1:17; Khải 1:18; Hêb 9:14; Giăng

6:57; Rô 2:7; Mat 25:46).

Như thế, theo cách diễn giải trên thì nỗi khổ hình đời đời của

người ác, cũng như cảnh phước lạc đời đời của người công bình sẽ

mãi mãi lâu dài bằng với sự vĩnh hằng bất biến của Đức Chúa Trời.

Hiểu được nghĩa của chữ đời đời, chúng ta cảm nhận ân phúc tương

lai dành cho người công bình lớn biết bao, đồng thời cũng cảm thấy

án phạt trên người ác trong tương lai thật là kinh khiếp dường nào!

2. Ý nghĩa của “sự sống đời đời”.

Sự sống đời đời gọi là vĩnh sanh bao gồm những ý nghĩa như

sau:

(1)  Sự sống bất diệt,nghĩa là sự sống hằng còn mãi mãi, sự

sống chẳng hề chấm dứt (Giăng 3:16; Mat 19:16; 25:46).

(2) Sự sống thật hay sự sống chân thật:Chỉ về sự sống đến từ

Đấng Christ, Ngài là nguồn sống vô tận, và người tin nhận Ngài sẽ

nhận được sự sống ấy (Giăng 14:6; 3:36).

(3)  Sự cứu rỗi:  Sự cứu rỗi đồng nghĩa với sự sống đời đời,vì

người được cứu, tức là được nhận lấy sự sống của Chúa (Mác 16:16;

Rô 5:10).

99

(4)  Sự sống đời đời bắt đầu ngay trong hiện tại, tức lúc còn ở

trong đời nầy:Khi người thật lòng tin Chúa, được tái sanh,thì nhận

được sự sống đời đời. Và từ đó sự sống của Đấng Christ cứ mãi

tuôn tràn và người bước vào sự sống bất tận trong cõi đời sau: Sự

sống đời đời trong một thân thể được biến hóa vinh hiển không hư

nát!

(5)  Sự sống đời đời là lẽ trông cậy lớn của người tin Chúa, là

phước hạnh mà họ được tận hưởng nơi Ngài trong tương lai(Giăng

17:3).

(6)  Sự sống đời đời là nhận biết Đức Chúa Trời là Chân Thần

duy nhất, và Chúa Giêxu, là Đấng Cha sai đến(Giăng 17:3).

Tóm lại, sự sống đời đời là sự sống từ Chúa, sự sống trong

Chúa, và sự sống với Chúa, là sự sống chỉ có ở trong người được tái

sinh, được giải cứu khỏi hậu quả của tội lỗi, được xưng nghĩa bởi

huyết Đấng Christ, được thánh hóa bởi Đức Thánh Linh, được sự

giao thông với Đức Chúa Trời, được ở trong sự hiện diện của Ngài

mãi mãi, và tận hưởng phước lạc bất tận của Ngài.

B. NƠI Ở CỦA NGƯỜI CÔNG BÌNH.

Đâu là nơi ở đời đời của người công bình trong tương lai?

Trong Ma-thi-ơ 25:34, Thiên đàng được Chúa Giê-xu nói đến, là

nơi ở vĩnh viễn dành cho người công bình và cũng là nơi Ngài phán

hứa với các môn đồ (Giăng 14:3).

Thiên đàng là gì? Thiên đàng phải là Ba-ra-đi không? Trong

Kinh Thánh Tân Ước chữ  “Ba-ra-đi”được dùng ba lần (Lu 23:43;

2Côr 12:4; Khải 2:7). Chữ nầy theo nguyên vănHy-lạp là

Paradeisos, nghĩa đen là công viên, trong tiếngHy-bá-lai là Părdès,

có nghĩa là khu rừng. Theo nghĩa bóng Ba-ra-đi gọi là Lạc viên ám

chỉ về cảnh vườn Ê-đen, nơi của sự sống đờiđời, nơi có sự hiện

diện của Chúa. Trước khi Chúa Giê-xu về trời, Ba-ra-đi được đặt ở

phía trên của âm phủ là nơi ở trung gian củangười công bình sau

100

khi qua đời. Nhưng khi Chúa thăng thiên, Ba-ra-đi được cất lên trời

cùng với các thánh của thời Cựu Ước (Êph 4:8), là nơi những người

tin Chúa được tiếp về sau khi qua đời để chờđợi sự giải cứu của

thân thể.

Khi Chúa Giê-xu tái lâm, người chết trong Chúa được sống lại và

đồng trị với Ngài trong nước ngàn năm bình an. Sau thời đại Thiên

hi niên, người công bình sẽ được vào nơi ở vĩnh sanh: Từ Ba-ra-đi

lên thiên đàng.

Chữ thiên đàng được dùng cho ba nghĩa. Thiên đàng chỉ về bầu

trời được bao bọc bởi bầu khí quyển, nơi có  sinh vật sống động.

Người Do Thái thường gọi đó là từng trời thứ nhất. Nghĩa thứ hai,

thiên đàng chỉ về các tinh tú trong khoảng không gian ngoài tầng

khí quyển mà người Do Thái gọi đó là từng trời thứ hai. Và chữ

“từng trời thứ ba”  được Phao-lô dùng trong 2Cô-rinh-tô 12:2, để

phân biệt với hai từng trời trong vũ trụ hữu hình. Để chỉ về nơi vô

hình vượt quá sự hiểu biết của con người, nơi ngự trị của Ba Ngôi

Đức Chúa Trời, nơi huyền nhiệm vô cùng, nơi hiện hữu của thế giới

thiện mỹ thần linh.

Thiên đàng cũng được Chúa Giê-xu gọi là  “Nhà Cha Ta”(Giăng

14:2), là nơi Chúa sắm sẵn cho người công bình cư trú đời đời

(Giăng 14:3; Mat 25:34):  “Hãy đến mà nhận lấy nước thiên đàng

đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất”.Thiên đàng,

nơi sắm sẵn cho người công bình còn được gọilà  Thiên thành, hay

thành Giê-ru-sa-lem mới trên trời, hay thành thánh, thành của Đức

Chúa Trời. Theo sự bày tỏ của Kinh Thánh, sau thời đại Thiên hi

niên, là kỳ cuối cùng của muôn vật, trời đất sẽ bị thiêu đốt trong

lửa và trời mới đất mới sẽ được tái tạo. Khi ấy Giê-ru-sa-lem mới sẽ

từ trời ngự xuống, là quê hương đời đời chongười công bình trong

nước vĩnh viễn của Đức Chúa Trời (2Phi 3:13; Khải 21:1-8).

C. PHƯỚC HẠNH TRONG NƠI VĨNH SANH.

101

Trong nơi vĩnh sanh, đời sống của người công bình là đời sống

của phước hạnh. Như được mô tả trong những điểm sau đây:

  1. Phước hạnh của đời sống được ở trong Nhà Chalà nơi vinh

hiển, rực rỡ vô cùng (Khải 21:1-3,25).

  1. Phước hạnh của đời sống được ở với Chúa:Được thấy mặt

Chúa, và giao thông với Ngài (Mat 5:8; 1Côr 13:12).

3. Phước hạnh của đời sống được yên nghỉ: Vì đã được giải cứu

khỏi sự rủa sả của tội lỗi, không còn có sự lao khổ “làm đổ mồ hôi

trán mới có mà ăn”(Sáng 3:18-19).

4. Phước hạnh của đời sống vui vẻ và sung mãn:Không còn có

giọt lệ, không còn có sự khao khát vì Chúa là nguồn nước sống làm

thỏa mãn mọi ước vọng của tâm hồn (Khải 21:4-6).

  1. Phước hạnh của đời sống thánh khiết:  Trong cảnh trời mới

đất mới hoàn toàn vắng bóng người ác vì lànơi ở của người công

bình, nơi ở của niềm vui trong sự thiện lành  trong sạch (Khải

21:27).

6. Phước hạnh của đời sống vinh hiển:Được vinh hiển trong nơi

ở, trong sự hiện diện vinh hiển của Chúa, trong thân thể biến hóa,

trong mão miện sáng chói Ngài ban thưởng (Khải 2:10; Côl 3:4;

2Côr 4:17).

7. Phước hạnh của đời sống được thông biết Chúa đầy trọn, là

sự hiểu biết quí hơn hết (Phil 3:8; 2Phi 3:18; 1Côr 13:12).

  1. Phước hạnh của đời sống phục vụ và tôn thờ Chúa.Đây là

đặc ân của người được cứu chuộc (Khải 22:3;7:9-11).

  1. Phước hạnh của đời sống được thừa hưởng cơ  nghiệp vinh

hiển của Chúa.Được đồng thừa hưởng mọi sự giàu có vô hạn trong

Đấng Christ (Rô 8:17; Khải 21:7).

  1. Phước hạnh của được sống trong cõi vô hạn:  Có người

nghĩ, người công bình cứ mãi mãi ca ngợi Chúa thì chắc chán lắm?

102

Đó chỉ là sự suy nghĩ theo lý trí con người trong thế giới hữu hạn.

Trong cõi vũ trụ vật chất mà Đức Chúa Trờiđã dựng nên, con người

vẫn mải hứng thú khám phá những điều kỳ diệu, huống chi trong

cõi vô hình, vô hạn, Đức Chúa Trời không sắm sẵn những điều vô

cùng huyền diệu cho chúng ta khám phá sao? Người trong cõi vĩnh

sanh với thân thể biến hóa, không còn bị chiphối bởi công lệ thiên

nhiên, có thể chu du trong cõi vô tận, và sẽ không bao giờ khám

phá hết những điều kỳ diệu của Đức Chúa Trời! Sẽ không bao giờ

dứt tiếng ca ngợi ân điển Ngài, sẽ không bao giờ hết công việc của

người được thừa hưởng cơ nghiệp giàu có không thể dò lường trong

Đấng Christ!

Tóm lược.

1. Sự sống đời đời là ân phúc Chúa ban cho  người công bình

trong cõi vĩnh sanh.

2. Thiên đàng, hay thành Giê-ru-sa-lem mới trên trời là nơi ở

vĩnh viễn của người công bình trong tương lai.

3. Trong cõi vĩnh sanh, người công bình sẽ nhận được phước là

sự sống đời đời, được giao thông với Chúa mặt đối mặt, được nhận

biết đầy trọn, được vui vẻ và thỏa mãn, được thoát khỏi quyền lực

của tội lỗi, được hưởng cơ nghiệp trong ĐấngChrist, được hầu việc

và thờ phượng Chúa.

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Trong sự phán xét của Chúa, người công bình nhận được ân

phúc gì? (Rô-ma 2:7; 6:23; Ma-thi-ơ 25:46).

2. a. Ý nghĩa của chữ đời đời.

b. Giăng 3:16: Phản nghĩa với sự sống đời đời nghĩa là gì?

c. Giăng 10:28; 14:6: Sự sống đời đời đến từđâu?

d. Giăng 3:36; 3:3: Thế nào để được sự sống đời đời? Theo điều

kiện nầy, sự sống đời đời bắt đầu trong người tin khi nào?

103

e. Mác 16:16; Công Vụ 4:12: Sự sống đời đời  còn được hiểu

trong chữ nào khác?

g. Giăng 17:3: Sự sống đời đời có nghĩa gì?

h. Tít 1:2; 3:7: Sự mong đợi của người tin là gì? Tại sao?

3. Xin tóm lược những điểm quan trọng về sự sống đời đời.

4. a. Giăng 14:2-3: Chúa Giê-xu hứa gì với môn đồ?

b. Nơi Chúa sắm sẵn được Kinh Thánh nói đến trong những khía

cạnh nào? (Ma-thi-ơ 25:34,44, Hê-bơ-rơ 3:13, 2Phi-e-rơ 3:13, Khải

Huyền 21:2-3,22-27).

5. Những ghi nhận trên, xin tóm lược và cắt  nghĩa đầy đủ đâu là

quê hương vĩnh viễn của người công bình và nơi ấy như thế nào?

6. Xin kể ra những phước hạnh của người côngbình trong nơi ở đời

đời (Ma-thi-ơ 25:44; 3:11,12; 21:4,7,26-27; 22:3-4; Rô-ma 8:17).

7. Với những điều trên xin tìm hiểu tại sao đó gọi là phước hạnh?

8. Xin ghi nhận những lẽ thật quan trọng của Kinh Thánh về nơi ở

vĩnh viễn của người công bình.

9. Bạn đã chuẩn bị như thế nào để xứng đángvới địa vị vĩnh viễn

Chúa ban cho? Điều gì bày tỏ bạn có lòng tinvà biết ơn Chúa

về sự sắm sẵn của Ngài cho người thuộc về Ngài?

 

Chương trình thờ phượng Ban Nam Giới Chúa nhật 12.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Nam Giới Chúa nhật 12.04.2015

in NAM GIỚI on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 12.04.2015.

1. Đề tài: VÁC THẬP TỰ GIÁ.

2. Kinh Thánh:Mat 10:38; 16:24; Lu 9:23; 14:27; Êph 2:16; Hêb

2:2; 1Côr 1:18.

3. Câu gốc: “Nếu ai muốn theo Ta, phải liều mình, vác thập tự giá

mình mà theo Ta” (Mác 8:34b).

4. Đố Kinh Thánh:2Sử Ký 21-24.

5. Thể loại:Tìm hiểu.

* CHỈ DẪN: Tìm hiểu.

Mời 2 người trong BHD chịu trách nhiệm trình bày đề tài: “Thế

nào là vác thập tự giá?” và mời một ngườilên đúc kết, cầu nguyện.

Sau khi NHD trình bày phần giới thiệu thì lần  lượt mời người có

trách nhiệm lên trình bày.

– Người thứ I: Trình bày quan điểm không đặt  nền tảng trên

Kinh Thánh.

– Người thứ II: Trình bày quan điểm đặt nền tảng trên Kinh

Thánh.

– Người thứ III: Lên đúc kết và cầu nguyện kết thúc.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

VÁC THẬP TỰ GIÁ.

90

“Nếu ai muốn theo Ta, phải liều mình, vác thập tự giá mình mà

theo Ta”(Mác 8:34).

Theo Kinh Thánh, vác thập tự giá là việc quan trọng hàng đầu

cho những Cơ Đốc nhân muốn sống đời tận hiến cho Chúa. Nhiều

lần ta nghe các chứng đạo viên giới thiệu Chúa cho người ngoại đạo

bằng những lời nầy:  Ông bà hãy tin Chúa. Tin Chúa sẽ được

phước; tin Chúa sẽ được Chúa chăm sóc, lo liệu; tin Chúa sẽ có

cuộc sống hanh thông, dễ dàng.

Trên một phương diện, lời chứng đó không sai; nhưng trên một

phương diện khác, ta quên đề cập đến giá phải trả của một người

theo Chúa, kết quả là trong Hội Thánh đầy dẫy những tín hữu theo

Chúa nửa vời, nguội lạnh, hâm hẩm và bội đạo. Họ dừng bước, lui

bước khi đối diện với khó khăn, trở ngại, thử thách vì không có đức

tin thật nơi Chúa.

Ngày xưa, lúc Chúa Giê-xu kêu gọi người theoNgài, nhiều lần

Chúa nhắc nhở họ về lẽ cần của việc vác thập tự giá. Trong Ma-thi-ơ 10:38, Chúa nhấn mạnh rằng nếu ai khôngvác thập tự giá

mình theo Chúa, thì không đáng làm môn đệ Ngài. Trong Lu-ca

9:23, Chúa chỉ rõ rằng ta phải vác thập tự giá theo Chúa mỗi ngày

và đoạn 14:27 cho thấy, ai không vác thập tựgiá mình theo Chúa,

cũng không được làm môn đồ Chúa. Ma-thi-ơ 16:24, Mác 8:34 và

Lu-ca 9:23 đều đòi hỏi việc từ bỏ chính mình  để vác thập tự giá

theo Chúa. Lẽ thật nhấn mạnh trong các câu Thánh Kinh này là

“Vác thập tự giá để theo Chúa”.

Tuy nhiên, thế nào là vác thập tự giá?Chúa Giêxu muốn nói gì

khi Ngài phán:  “Nếu ai muốn theo Ta, phải tự bỏ mình đi, mỗi

ngày vác thập tự giá mình mà theo Ta”(Lu 9:23). Ở đây ta hiểu từ

“vác thập tự giá” theo nghĩa đen, nghĩa bóng hay nghĩa thuộc linh?

Lời Chúa phán “vác thập tự giá” là nói riêng cho các môn đồ Ngài,

hay nói chung cho tất cả người tin Chúa? Có nhiều quan điểm giải

thích cho việc vác thập tự giá theo Chúa.

91

I. QUAN ĐIỂM KHÔNG ĐẶT NỀN TẢNG TRÊN KINH THÁNH.

1. “Thập tự giá” được hiểu theo nghĩa đen.

Theo quan điểm nầy, thập tự giá mà người Cơ  Đốc vác là thập

tự giá bằng gỗ. Trong lịch sử Hội Thánh ta thấy có nhiều người ủng

hộ quan điểm nầy và luôn mang cây thập tự bằng gỗ to tướng kè

kè bên mình.

Tuy nhiên, xét theo văn mạch Thánh Kinh, quan điểm nầy không

đúng. Thập tự giá Chúa bảo ta vác ở đây được hiểu theo nghĩa bóng

chứ không phải nghĩa đen. Hầu hết các học giả Kinh Thánh cũng bác

bỏ quan điểm thập tự giá được hiểu theo nghĩa đen.

2. “Thập tự giá” chỉ về bệnh tật.

Theo quan điểm nầy, thập tự giá chỉ về nhữngtật bệnh đặc biệt

mà mỗi con cái Chúa phải chịu, để giúp người sống khiêm nhường

và thiêng liêng. Thomas A. Kempis tán thành quan điểm nầy, và

giảng giải thêm: “Thập tự giá không những chỉ về bệnh tật, mà

còn có hàm ý bất cứ hình thức nào của sự đau khổ”.

Quan điểm trên không phù hợp với Lời Thánh  Kinh dạy, bởi lẽ

cho rằng bất cứ người nào mắc bệnh đều là  môn đồ Chúa, nhưng

trên thực tế ta thấy có nhiều tín hữu khỏe mạnh, trong khi đó cũng

có nhiều người không tin Chúa bị bệnh tật.

3. “Thập tự giá” chỉ về sự cứu rỗi.

Quan điểm nầy cho rằng người vác thập tự giá là người kinh

nghiệm được sự cứu rỗi. Những người chủ trương quan điểm nầy

cho rằng việc môn đồ hóa và được cứu rỗi có giá trị như nhau.

Nhóm khác nữa thì quan niệm rằng môn đồ hóalà điều kiện của sự

cứu rỗi. Họ kêu gọi mọi người hãy vác thập tự giá để làm nên sự

cứu rỗi cho mình.

Quan điểm nầy lầm lẫn vì dạy rằng con người nhờ việc làm mà

được cứu rỗi.

92

4. “Thập tự giá” chỉ về tội lỗi.

Theo quan điểm nầy, thập tự giá chỉ về nhữngtội lỗi mà người

tin Chúa không thể từ bỏ. Martin Luther ủng hộ quan điểm này,

John R. Rice cũng tán thành qua việc dạy về lẽ cần để đóng đinh

bản tánh tội lỗi.

Tuy nhiên, theo Kinh Thánh, thói quen phạm tộikhông phải là

điều Chúa muốn con cái Ngài phải mang. Trong  Chúa Cứu Thế, ta

được ban sự đắc thắng tội lỗi. Lời Chúa dạy “phải nên thánh vì Ta

là thánh” (1Phi 1:16).

5. “Thập tự giá” chỉ về người phối ngẫu củamình.

Đây là quan điểm ta thường được nghe thấy trong các câu

chuyện hằng ngày. Nhiều người chồng, người vợ không vừa ý nhau,

nên kể người phối ngẫu là cây thập tự nặng nề mình phải mang.

Người ta kể lại có ông chồng kia đã giới thiệu vợ mình cho bạn hữu

bằng những lời này: “Tôi xin giới thiệu vớianh chị, đây là… thập tự

giá của tôi!”

II. QUAN ĐIỂM ĐẶT NỀN TẢNG TRÊN THÁNH KINH.

Trước khi tìm hiểu việc vác thập tự giá theoquan điểm Lời Chúa

dạy, ta cũng nên để ý rằng trong Tân Ước, chữ “thập tự giá”

thường được hiểu theo ba nghĩa: Nghĩa đen, nghĩathuộc linh và

nghĩa bóng.

Theo nghĩa đen,trong Tân Ước chỉ có ba thập tự giá hiểu theo

nghĩa này: Đó là cây thập tự của Chúa Giê-xu và hai cây thập tự

của hai tên cướp cùng bị đóng đinh với Chúa (Mat 27:38-40).

Theo nghĩa thuộc linh,tất cả người tin Chúa đều đã được đồng

chịu đóng đinh với Chúa Giê-xu trên thập tự giá (Rô 6:6, Gal 2:20).

Nói cách khác, mỗi người đặt đức tin nơi công lao cứu chuộc của

Chúa Giê-xu trên thập tự giá, đều được đồng chết với Ngài. Tuy

nhiên, đây là nghĩa thuộc linh hay là nghĩa ẩn dụ, chớ không phải

93

nghĩa đen, vì ngoài Chúa Giê-xu không tín hữu nào đã bị đóng đinh

trên thập tự giá.

Theo nghĩa bóng,thập tự được hiểu là:

1. Sự gian khổ và phủ nhận chính mình (Mat 16:24).

2. Sự khổ đau của Chúa Giê-xu (Êph 2:16, Hêb2:2).

3. Giáo lý của Phúc Âm (1Côr 1:18).

4. Phúc Âm, vì kẻ thù của Phúc Âm là kẻ thù của thập tự giá

(Phil 3:18).

5. Thập tự giá của Chúa Giê-xu là hình ảnh về sự cứu rỗi (1Côr

1:17).

Ý nghĩa thập tự giá theo quan điểm Thánh Kinhlà như vậy.

Người vác thập tự giá là người sẵn sàng sống cho Chúa trong bất

kỳ hoàn cảnh nào, dù cho phải chịu sỉ nhục,  đau khổ và ngay cả

phải chết vì Chúa.

Mặt khác, vác thập tự giá cũng có nghĩa làlàm cho chết những

tham vọng, ý tưởng, mục tiêu đi ngược lại ýmuốn Chúa. Phao-lô là

người vác thập tự giá nên đã tuyên bố: “Tôi chết hằng ngày”(1Côr

15:31), tức là làm chết đi những điều không theo ý muốn Chúa.

Chúa Giê-xu ứng dụng lẽ thật vác thập tự giá qua các ví dụ và

ẩn dụ nầy:  “Có vua nào đi đánh trận cùng vua khác, mà trước

không ngồi bàn luận xem mình đem đi một muôn (10.000) lính có

thể địch nổi vua kia đem hai muôn (20.000)… sao?Bằng chẳng

nổi, khi vua kia còn ở xa, sai sứ đi xin hòa”(Lu 14:31-32). Chúa

không muốn làm nản lòng những người theo Ngài, nhưng bảo họ

phải tính toán trước. Chẳng thà đừng theo Chúa còn hơn đi theo rồi

thất bại. Đây là hình ảnh của những tín hữutin Chúa nửa vời, hâm

hẩm, nguội lạnh và coi thường sự lựa chọn của mình.

Rồi Chúa Giê-xu kết luận:  “Nếu ai trong các ngươi không bỏ

mọi sự mình có, thì không được làm môn đồ Ta”(Lu 14:33).

94

Không có gì vô dụng cho bằng người theo Chúamà còn chạy

theo thế gian, yêu mến thế gian và các vật ở thế gian. Người ấy

cũng như muối mất vị mặn, thiếu bản chất của người thuộc về

Chúa, thiếu đời sống tận hiến và chẳng còncó thể phục vụ Ngài.

Quý vị có đang vác thập tự giá theo Chúa không?

 

Chương trình thờ phượng Ban Nam Giới Chúa nhật 05.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Nam Giới Chúa nhật 05.04.2015

in NAM GIỚI on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 05.04.2015.

1. Đề tài: TINH THẦN ĐÓN CHÚA PHỤC SINH.

2. Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 28:8-10.

3. Câu gốc: “Đức Chúa Giê-xu phán rằng: Ta là sự sống lại và sự

sống; người nào tin Ta thì sẽ sống, mặc dầu  đã chết rồi”

(Giăng 11:25).

4. Đố Kinh Thánh: 2Sử Ký 25-28.

5. Thể loại: Chia sẻ.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 04.01.2015.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

TINH THẦN ĐÓN CHÚA PHỤC SINH

Khác với các tôn giáo khác, Cơ Đốc giáo chúng ta rất hãnh diện

về vị giáo chủ của mình, vì Chúa Giê-xu đã phục sinh. Các giáo chủ

khác đều đã chết và cứ chết luôn không baogiờ sống lại; còn sự

86

phục sinh của Chúa chúng ta là một sự kiện  lịch sử không ai phủ

nhận được. Nếu ai có cách nào chứng minh Chúa Giê-xu không bao

giờ sống lại thì Cơ Đốc giáo sẽ sụp đổ ngaytức khắc.

Ngay từ lúc tin Chúa phục sinh được loan báo  ra, những người

chống đối Chúa đã vội tìm cách bác bỏ và phủ nhận. Tiếc thay, nỗ

lực của họ như một bong bóng bị nổ tung vì Chúa sống lại hiện ra

sờ sờ làm sao chối bỏ được. Chính sự hiện diện của Chúa là bằng

chứng hùng hồn, là năng lực sống động của Hội Thánh đầu tiên.

Sách Công Vụ kể lại thể nào Hội Thánh đầutiên được khởi đầu

và phát triển mạnh mẽ nhờ vào sự rao giảngcủa những người

chứng kiến Chúa đã phục sinh. Kể từ đó đếnnay, đã gần 2.000

năm qua, Cơ Đốc giáo vẫn cứ tiếp tục phát triển và bành trướng.

Trong không khí rạo rực của mùa Lễ Phục Sinhnăm nay, chúng

ta nên có tinh thần thể nào?

Xin chúng ta cùng tra xem Lời Chúa mà học theo gương các nữ

môn đồ khi xưa. Theo Ma-thi-ơ 28:8-10, khi quý bà biết Chúa đã

sống lại, họ liền có những thái độ và hành động như sau:

I. VUI MỪNG.

“Hai người đàn bà đó bèn vội vàng ra khỏi mộ… cả mừng”

(c.8). Tất cả những nỗi âu lo, sợ sệt, thấtvọng, chán chường khi

chứng kiến cảnh Chúa bị xử, bị đóng đinh, rồi tắt thở, được khâm

liệm và được đem chôn, đã hoàn toàn tan biến như ánh bình minh

vừa ló dạng xua đi màn đêm tăm tối u sầu. Họ sung sướng với

niềm vui Chúa phục sinh tràn ngập tâm hồn.

Trước kia họ đã vui biết bao khi chứng kiến cảnh Chúa chữa

lành những người câm, điếc, đui, què, phung,  bại. Trước kia họ đã

cũng từng vui biết bao khi nhìn thấy Chúa hóabánh cho hàng ngàn

người ăn, phán một tiếng thì ma quỉ chạy xa, hoặc nhìn thấy những

người đã chết được Chúa ban cho sống lại. Nhưng tất cả những

niềm vui đó không thể nào sánh bằng niềm vui được biết Chúa

87

phục sinh, vì Chúa sống lại từ cõi chết đã  thay đổi tất cả. Con

người từ nay đã có hy vọng và không còn phải chịu bó tay dưới

quyền lực của tử thần. Trong Chúa phục sinh,quyền năng của tử

thần đã bị vô hiệu hóa.

Trong mùa Phục Sinh năm nay, nguyện xin Chúa cho chúng ta

kinh nghiệm được niềm vui thiên thượng nầy cách mới mẻ. Chúa

chúng ta đã sống lại và đang sống (Giăng 11:25), cho nên chúng

ta không có lý do gì cứ sống trong buồn lo, sầu thảm mãi. Cuộc

sống đời nầy sẽ có lúc chấm dứt, nhưng chúng ta vẫn cứ sống với

Chúa. Dù đời có khắc nghiệt đến mấy, cuối  cùng chúng ta sẽ đắc

thắng vì chúng ta sẽ sống mãi với Chúa phụcsinh. Vậy nên chúng

ta “hãy vui mừng mãi mãi”(1Tês 5:16, Phil 4:4).

II. ĐẾN THỜ LẠY CHÚA.

“Hai người cùng đến gần… và thờ lạy Ngài”(c.9).

Nghe tin Chúa phục sinh, trong lòng rộn lên niềm vui cũng chưa

đủ. Niềm vui đó cũng chưa trọn vẹn cho đến khi nào được đến thờ

lạy Ngài. Khoảng trống trong tâm hồn chúng ta sẽ không bao giờ

khỏa lấp cho đến khi được đến gần Chúa và thờ phượng Ngài.

Vinh dự và phước hạnh thay cho những người có lòng yêu mến

Chúa! Ngài không kể họ là nam hay nữ, hễ họ có lòng tìm kiếm

Ngài thì Ngài cho họ được gặp. Quý bà nầy là những người đã gặp

Chúa đầu tiên sau khi Ngài sống lại.

Chúa thấy rõ tấm lòng chờ mong cho mau đến sáng để được đi

thăm mộ Chúa của họ. Họ đâu có ngờ rằng đi thăm mộ Chúa lại

được gặp Chúa sống lại và hiện ra cho mình xem thấy. Họ đâu có

ngờ rằng đi thăm mộ Chúa lại biến thành đi  thờ phượng Chúa, vì

Chúa đâu còn nằm trong phần mộ nữa.

Trong mùa phục sinh năm nay, nguyện Chúa cho chúng ta kinh

nghiệm gặp gỡ Chúa phục sinh một cách mới mẻ khi chúng ta

88

cùng đến tôn thờ Ngài, vì tâm linh chúng ta  chỉ thoả mãn khi thờ

phượng Chúa mà thôi.

III. BÁO TIN VUI CHO NGƯỜI KHÁC.

“Đừng sợ chi cả; hãy đi bảo…” (c.10), “hai người… chạy báo tin

cho các môn đồ” (c.8).

Niềm vui phục sinh cũng vẫn chưa trọn vẹn chođến khi được

dịp chia sẻ niềm vui đó cho người khác. Cơ Đốc nhân chân chính

sẽ không bao giờ thấy thỏa lòng khi chỉ riêng mình có được niềm

vui và tâm linh mình được thỏa thích tôn thờ  Chúa. Cơ Đốc nhân

chân chính sẽ thỏa lòng khi được dịp chia sẻ niềm vui mình có cho

những người chưa biết Chúa. Vì không biết vàkhông tin Chúa đã

sống lại, nên nhiều người vẫn còn sống trong buồn lo, sợ sệt.

Chúa Giêxu muốn chúng ta thoát ra khỏi hoàn  cảnh buồn lo sợ

hãi đó khi chúng ta tin rằng Ngài đã đắc thắng sự chết, Ngài đã

sống lại, Ngài đang cầm quyền tể trị trên cả hoàn vũ, và Ngài sẽ

giúp đỡ chúng ta. Chúa sẽ bênh vực người thuộc về Ngài và xử lẽ

công bình cho họ. Nhiều người không biết điều đó nên chúng ta

phải đi báo tin vui Chúa phục sinh cho họ hay.Chính sự không biết

và thiếu đức tin đã giam cầm biết bao nhiêu  người trong ngục tù

của bất an, sợ sệt.

Dù có làm môn đồ Chúa đi nữa, nhưng không biết và không tin

vào sự kiện Chúa đã phục sinh thì chúng ta cũng có thể sống thiếu

bình an. Sự hiểu biết và tin tưởng nầy chỉ có được khi những người

đã có kinh nghiệm trong Chúa đi ra rao báo tinmừng. Những nữ

môn đồ ngày xưa đã “chạy”(vội vã) đi báo tin, còn chúng ta ngày

nay thì sao? Xin Chúa giúp cho chúng ta cũng có tinh thần sốt

sắng truyền báo tin vui Chúa đã phục sinh nhưcác nữ môn đồ nầy.

“Hãy đi khắp thế gian giảng Tin Lành cho mọi người”(Mác 16:15).

Trong không khí rạo rực của mùa kỷ niệm Chúa phục sinh năm

nay, nguyện Chúa cho chúng ta noi gương các nữthánh đồ ngày

89

xưa kinh nghiệm được niềm vui khôn tả khi nghĩđến Chúa phục

sinh, đến thờ lạy Ngài và sốt sắng ra đi raobáo cho người khác

hay tin Ngài đã phục sinh. Thế giới nầy vẫn cứ ở dưới ách thống trị

của Satan và tội lỗi cho đến khi mọi người tin tưởng và kinh nghiệm

được quyền năng của Chúa phục sinh.

 

Chương trình thờ phượng Ban Nam Giới Chúa nhật 29.03.2015

Chương trình thờ phượng Ban Nam Giới Chúa nhật 29.03.2015

in NAM GIỚI on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 29.03.2015.

1. Đề tài: SINH NHẬT – CẢM TẠ CHÚA.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 91.

3. Câu gốc:  “Tôi nói về Đức Giê-hô-va rằng: Ngài là nơi nương

náu tôi, và là đồn lũy tôi; cũng là Đức Chúa Trời tôi, tôi tin cậy

nơi Ngài” (Thi 91:2).

4. Đố Kinh Thánh: 2Sử Ký 17-20.

5. Thể loại: Sinh nhật – Sinh hoạt.

* CHỈ DẪN: Sinh nhật (Ca ngợi & Cảm tạ).

1. Thông báo danh sách những người có ngày sinh trong quý I

(tháng 1,2,3) trước một tuần lễ; bổ sung những tên còn thiếu.

2. Thư ký trao danh sách cho thủ quỹ mua quà.  Quà tặng sinh

nhật nên mua nhiều hơn số cần, phòng khi có  khách, thân hữu…

đến dự và cũng có ngày sinh trong quý đó.

3. Những người không nhớ ngày sinh, có thể chọn ngày cưới,

ngày tin nhận Chúa, ngày chịu báp tem… để làm sinh nhật.

4. Chuẩn bị một chiếc bánh sinh nhật (nếu cóthể), kích thước

chiếc bánh tùy theo số người tham dự.

84

5. Mời những người có tên trong danh sách “sinh nhật” lên phía

trên, số người còn lại hát chúc mừng. Tất  cả cùng cầm dao cắt

bánh. Mời người cầu nguyện đặc biệt cho họ.

6. Ban hướng dẫn tặng quà cho những người cósinh nhật.

7. Mời một số người làm chứng, ca ngợi Chúa, chia sẻ những

kinh nghiệm thuộc linh… Khi làm chứng nên trình bày thành thật,

đừng thổi phồng.

8. Chơi trò chơi, đố vui và ăn bánh sinh nhật…

* TRÒ CHƠI DÀNH CHO NGƯỜI CÓ SINH NHẬT.

THẮP NẾN SINH NHẬT.

– Chuẩn bị: Dùng giấy bìa cứng làm một số cây nến, ghi lời yêu

cầu vui, ngắn gọn lên giấy, cuộn lại nhét vào cây nến, dùng băng

keo dán cây nến lên bảng (số nến tương đươngvới số người có

ngày sinh trong quí).

Nếu dùng nến thật thì cũng gắn lời yêu cầuvào như nến bằng

giấy rồi bạn đốt nến và sắp lên bàn sao cho đẹp mắt.

Ví dụ về lời yêu cầu: “Chúc bạn sinh nhật vui vẻ! Mời bạn uống

một lượt 5 ly nước”,  hoặc  “Mừng sinh nhật bạn! Bạn có thể mời

người hát tặng bạn một bài”…

– Cách chơi: NHD sẽ mời lần lượt từng người có ngày sinh trong

quí lên và chọn cho mình một cây nến. Tìm xemcây nến xinh xắn

có chứa điều gì bí ẩn và khi tìm ra được hãyđọc lớn điều bí ẩn đó

lên và thực hiện.

* TRÒ CHƠI TẬP THỂ.

THEO CHÚA.

– Cách chơi: NHD cho các bạn tập trung thành vòng tròn và

đếm số từ 1 cho đến hết (mỗi người nhớ số mình). Sau đó NHD đi

xung quanh bên trong vòng tròn và hô lên: “Theo Chúa, theo

Chúa!” các bạn đáp lại: “Ai theo, ai theo?”, NHD hô bất kỳ một số

85

nào đó, ví dụ: “số 5 theo”; thì người mang số5 phải lập tức chạy

nhanh về phía NHD, và hai người đứng hai bên phải nhanh chóng

nắm tay người đó kéo lại và nói: “bắt bớ”.Nếu “người số 5” bị bắt

thì coi như bị loại; còn nếu “người số 5” chạy lên được NHD thì hai

bạn hai bên bị loại.

ĐOÁN NHÂN VẬT KINH THÁNH.

– Cách chơi: Chia thành 4 hoặc 5 nhóm. Mỗi nhóm cử một người

đại diện lên phía trước. NHD đưa ra 4 hoặc 5 nhân vật Kinh Thánh,

đại diện của từng nhóm nhận một nhân vật. Sau đó, các người này

lần lượt thông đạt lại cho nhóm của mình nhân vật Kinh Thánh đó

chỉ bằng điệu bộ (không được nói). Nếu trongvòng vài phút, nhóm

của mình không đoán ra được, thì các nhóm khác được quyền trả

lời. Nhóm nào đoán ra được, sẽ được cộng điểm.

 

Chương trình thờ phượng Ban Nam Giới Chúa nhật 22.03.2015

Chương trình thờ phượng Ban Nam Giới Chúa nhật 22.03.2015

in NAM GIỚI on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 22.03.2015.

1. Đề tài: PHIÊN TÒA CUỐI CÙNG CỦA THẾ GIỚI.

2. Kinh Thánh:Khải Huyền 20:7-15.

3. Câu gốc: “Người nào không được biên vào sách sự sống đều bị

ném xuống hồ lửa”(Khải 20:15).

4. Đố Kinh Thánh: 2Sử Ký 13-16.

5. Thể loại: Học Kinh Thánh nhóm.

77

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 11.01.2015.

Dựa vào Khải Huyền 20:7-15 soạn một số câu  hỏi cho giờ học

Kinh Thánh.

(1.1) Xin cho biết biến cố gì xảy ra sau 1.000 năm bình an?

(1.2) Tại sao Đức Chúa Trời cho phép biến cố nầy xảy ra?

(1.3)  Qua biến cố nầy bạn học biết quyền tể trị của Đức Chúa

Trời như thế nào?

(2.1) Sự phán xét cuối cùng xảy ra như thế nào?

(2.2) Tại sao có sách sự sống và các loại sách khác? Kết cuộc

của người có tên trong hai loại sách đó như thế nào?

(2.3)  Học biết phiên toà cuối cùng nầy, bạn thấymình phải

chuẩn bị điều gì trong hiện tại?

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Trong nhân loại có rất nhiều phiên tòa lịch  sử xét xử những

phạm nhân “nổi tiếng” như tòa án xử các tội phạm chiến tranh thời

đệ nhị thế chiến. Trong những phiên toà của  trần gian, có những

bản án được tuyên bố khiến người ta vô cùng kinh khiếp. Nhưng

dầu kinh khiếp, công lý trên đời chỉ có giới hạn, và không làm gì

hơn nữa sau sự chết của phạm nhân. Tuy nhiêncó những bản án

khiến người ta vô cùng ngạc nhiên vì thấy người ác có thể lọt lưới

công lý một cách dễ dàng!

Nhưng đối với luật pháp của Đức Chúa Trời, Kinh Thánh cho biết

có một phiên tòa cuối cùng mà cả nhân loại không một ai thoát

khỏi, sẽ phải ứng hầu trước mặt Ngài. Phiên tòa nầy sẽ được xảy ra

khi nào? Như thế nào? Và kết quả rao sao?

I. DẪN GIẢI.

A. SỰ CUỐI CÙNG CỦA SA-TAN.

Theo Khải 20:7-10, chúng ta ghi nhận những diễn biến sau đây:

78

1. Thời đại Thiên hi niên được kết thúc vớibiến cố của sự phóng

thích sa-tan đã bị quản thúc ngàn năm trong vực sâu. Sự phóng

thích nầy có thể nhằm mục đích thử nghiệm loài người lần chót

xem có đủ điều kiện vào Nước vĩnh viễn của  Đức Chúa Trời hay

không. Đồng thời để cho sa-tan làm trọn việcác của nó tới đúng

mức bị hủy diệt.

2. Sau khi được thả ra, hoạt động của sa-tan là tạo chiến tranh

để chống nghịch Đức Chúa Trời. Dấy nghịch Chúa và bách hại con

cái Ngài là việc sa-tan chẳng bao giờ dừng!  Bằng cách khéo léo

quyến dụ, dỗ dành loài người trên đất, có  thể Satan cổ võ một

“phong trào cách mạng dân chủ” chống lại chính thể thần quyền

của Đấng Christ. Nó qui tụ được một liên minh quân sự rất hùng

hậu từ các dân trên thế giới. Gót và Ma-gót, tên nầy được thấy

trong Sáng Thế Ký 10:2, là tên một người thuộc dòng dõi của Gia-phết. Vì trong Ê-xê-chi-ên 38:22 tên Gót và Ma-gót cũng có đề cập

đến trong lời tiên tri về biến cố nầy. Theo  các nhà giải kinh, hai

tên nầy có thể tiêu biểu cho các dân từ bốn phương của thế giới.

Dưới quyền chỉ huy của sa-tan, chúng đổ quân  bao vây thành

các thánh đồ và thành yêu dấu, tức Giê-ru-sa-lem, thủ đô của nước

Thiên hi niên. Sự vây thành nầy có nghĩa sa-tan muốn chiếm ngôi

nước của Đức Chúa Trời.

3. Quân lực của sa-tan bị thảm hại. Đức ChúaTrời giáng lửa từ

trời tiêu diệt chúng.

4. Sa-tan bị quăng vào hồ lửa đời đời. Đó là số phận cuối cùng

của nó, chung với tiên tri giả, và con thú,  tức là An-ti-christ, là

những người kết hợp với nó để chống nghịch Đức Chúa Trời.

Trong cuộc chiến cuối cùng của thế gian, câuhỏi có thể nêu lên

là: Trong thời đại Thiên hi niên, dân cư sống trong nước Chúa đều là

những người thuần phục Ngài. Nhưng tại sao sa-tan có thể lôi cuốn

được số đông “như cát bãi biển” theo nó vàocuối thời đại nầy?

79

Câu hỏi trên có thể được cắt nghĩa trong haiđiểm sau đây:

(1) Trong nước ngàn năm, dân cư là những người tin kính Chúa.

Nhưng những thế hệ sanh ra sau đó không phải  hoàn toàn là

những người thực sự tin Chúa.

(2) Môi trường tốt bên ngoài không thể cải  thiện tấm lòng bên

trong của con người. Dưới sự trị vì của Chúa,trong sự chánh trực

công bình, luân lý đạo đức toàn vẹn, hoà bình, hạnh phúc khắp nơi

nơi, là môi trường rất thuận lợi cho sự hướng thiện. Nhưng tâm tánh

con người vốn sa ngã không thể nhờ môi trường bên ngoài mà

được biến đổi nếu không nhờ quyền năng Thánh Linh đổi mới bên

trong. Cho nên trong lúc vắng mặt sa-tan, và với sự cai trị bằng

“cây gậy sắt”của Chúa, họ buộc phải thuần phục Ngài (Ê-sai

11:4). Vì vậy khi sa-tan được thả ra, thì rất dễ dàng mà theo sự dỗ

dành của nó.

Tóm lại, những sự kiện xảy ra dẫn đến sự cuối cùng của sa-tan,

chúng ta học biết những điều sau đây:

– Sự phóng thích của sa-tan vào cuối thời Thiên hi niên tỏ rằng

Đức Chúa Trời không ép buộc người ta thờ phượng nếu họ không

thật lòng.

– Đức Chúa Trời đang cầm quyền tể trị: Với sự dấy nghịch của

sa-tan, Ngài trừ diệt nó theo đúng thời điểmcủa Ngài.

B. SỰ PHÁN XÉT CUỐI CÙNG.

Trong phiên tòa cuối cùng của nhân loại, chúng ta ghi nhận

những điểm quan trọng sau đây:

1. Thời gian.

Vào cuối thời Thiên hi niên, sau cuộc chiến của sa-tan, và sa-tan

bị quăng vào hồ lửa đời đời (Khải 20:7-10).

2. Địa điểm.

80

Toà lớn và trắng. Toà án được diễn tả bằng hai hình dung từ

“lớn”và  “trắng”. Theo các nhà giải kinh, hai chữ nầy phản chiếu

vẻ oai nghiêm công chính và thánh khiết của Đấng phán xét. Trước

toà án trắng tinh anh, tội nhân tự thấy rõ  tội lỗi xấu xa của mình,

không cần phải ai nói cho biết.

3. Đấng phán xét.

“Đấng đương ngồi ở trên”chính là Chúa Giê-xu Christ, Đấng đã

được Cha ban quyền phán xét thế gian (Khải 20:11; Giăng 5:22).

Trên ngôi thẩm phán, Ngài oai nghiêm biết bao.  “Trước mặt Ngài

trời đất đều trốn hết, chẳng còn thấy chỗ nào cho nó nữa”.

4. Tiêu chuẩn đoán xét.

Trong Khải Huyền 20:12-13 nói đến Sách của sự sống và những

sách khác. Hai thứ sách nầy có nghĩa gì?

Sách của sự sống gọi là sách của Chiên Con, là sách của những

người thuộc con cái Đức Chúa Trời, được cứuchuộc bởi huyết Chiên

Con, được ghi tên từ trước buổi sáng thế do  sự lựa chọn bởi tình

yêu thương của Ngài. Quyển sách sự sống được mở ra trong phiên

toà cuối cùng. Những người ác chịu xét đoánkhông ai có tên trong

sách nầy vì Chúa biết rõ người thuộc về Ngài (Giăng 10:14).

Sách sự sống chỉ có một mà thôi, còn nhữngsách là chỉ về sự

ghi chép các việc làm của người ác. Vì sự phán xét của Chúa sẽ

được căn cứ tùy theo công việc làm của mỗingười lúc còn trong

xác thịt.

Sự mở ra của sách sự sống và các sách ghi công việc làm của

mỗi người cho thấy tánh chất nghiêm trọng của phiên tòa cuối

cùng, một sự luyện lọc giữa người ác và người công bình. Có thể

người ta trốn thoát khỏi lưới công lý của trần gian. Nhưng trong

ngày phán xét chung kết nầy không một ai cóthể lọt khỏi mạng

lưới công lý của Đức Chúa Trời.

5. Người chịu xét xử.

81

Người chịu xét xử gồm tất cả loài người từthời A-đam, là người

không được cứu. Theo lịnh của Chúa, biển sẽ  trả những người chết

mình chứa, âm phủ trả những người chết mình  có và tất cả được

sống lại rồi ứng hầu trước mặt Chúa. “Cả lớn và nhỏ” chỉ về người

trẻ tuổi lẫn người lớn tuổi, hoặc người sang trọng hay người nghèo

hèn, người tri thức hay người dốt nát đều được xét xử trên cùng

một tiêu chuẩn như nhau vì Đức Chúa Trời chẳng vị nể ai (Rô 2:11).

6. Kết cuộc của sự phán xét.

Sự phán xét cuối cùng có tánh cách chung kết, nghĩa là không

có sự xét xử thứ hai và lời thẩm phán trong ngày ấy sẽ không bao

giờ thay đổi. Vì không có cơ hội thứ hai trong cõi đời đời, nên mục

đích của sự phán xét không phải để quyết định số phận của tội

nhân bởi số phận họ đã được định rồi khi qua khỏi đời nầy (Giăng

3:36). Đó là một sự chính thức công bố của Quan tòa công bình về

nơi ở vĩnh viễn của người ác là hồ lửa đờiđời, tức là sự chết thứ hai

(Khải 20:15).

C. SỰ CHUNG KẾT CỦA THẾ GIỚI LOÀI NGƯỜI.

Ngày phán xét cuối cùng cũng là ngày đánh dấu chung kết của

nhân loại. Có sự chia cách vĩnh viễn giữa người công bình với người

ác. Họ vào hai nơi ở đời đời khác nhau. Trời mới đất mới, nơi vĩnh

sanh phước hạnh dành cho người công bình, cònhồ lửa, nơi vĩnh

hình dành cho người ác.

Trong ngày chung kết nầy, sự công nghĩa của Đức Chúa Trời

được chiếu rạng. Satan và kẻ ác phải đền trả cách xứng đáng về

việc ác của mình, còn người công bình sẽ được ban thưởng. Và

những thắc mắc của công bình trên cõi đời nầy: Tại sao người ác

hưng thạnh? Tại sao người nghĩa bị nạn, bị người ác gây họa, sẽ

được giải đáp cách thỏa mãn trong ngày chungkết ấy.

Tóm lược.

82

1. Ngày phán xét cuối cùng xảy ra sau thời đại Thiên hi niên, và

sau khi sa-tan bị bỏ vào hồ lửa.

2. Tòa lớn và trắng là nơi phán xét, và Đấng phán xét là Đức

Chúa Giê-xu.

3. Tiêu chuẩn của sự đoán xét căn cứ vào công việc của mỗi

người, tức phẩm hạnh của mỗi người, được ghi chép trong những

sách của Chúa.

4. Sự phán xét nầy dành cho người chẳng tin,gồm cả nhân loại

kể từ đời A-đam.

5. Kết cuộc của sự phán xét là tất cả người không có tên trong

sách sự sống đều đi vào hồ lửa đời đời.

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Xin đọc Khải Huyền 20:7-10 ghi nhận những sự kiện sau đây:

a. Biến cố nào xảy ra trong 1.000 năm bình an  và do ai chủ

động?

b. Biến cố nầy được chấm dứt như thế nào?

2. a. Tại sao Đức Chúa Trời phóng thích sa-tansau thời đại Thiên hi

niên?

b. Trong biến cố phản nghịch của sa-tan và các dân trên đất,

cho chúng ta học biết gì về quyền tể trị củaĐức Chúa Trời?

3. Xin đọc Khải Huyền 20:11-15 và tìm hiểu:

a. Thời điểm của sự phán xét (20:1-11).

b. Địa điểm của sự phán xét.

c. Đấng phán xét (Giăng 5:22).

d. Sách của sự sống và những sách có nghĩa  gì? Tại sao sách

nầy được dùng trong sự phán xét?

e. Những người chịu phán xét là ai?

g. Mục đích của sự phán xét là gì và kết quả cuối cùng như thế nào?

83

4. Tại sao phiên tòa cuối cùng nầy rất là nghiêm trọng?

5. Khải 20:11,14-15; 21:1; 2Phi 3:13. Trong ngày phán xét cuối cùng

cho thấy điểm chung kết của thế giới loài người là gì? Có sự phân

chia thế nào giữa người ác và người công bình sau khi bức màn

lịch sử của thế giới loài người kết thúc? Điều ghi nhận trên cho

chúng ta học biết gì về sự công bình của Đức Chúa Trời.

6. Xin tóm lược những lẽ thật của Kinh Thánhvề sự cuối cùng của

sa-tan và ngày phán xét cuối cùng của thế giới?

 

Chương trình thờ phượng Ban Nam Giới Chúa nhật 15.03.2015

Chương trình thờ phượng Ban Nam Giới Chúa nhật 15.03.2015

in NAM GIỚI on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 15.03.2015.

1. Đề tài: NƯỚC NGÀN NĂM BÌNH AN.

2. Kinh Thánh:Khải Huyền 19:11;20:6; Xa-cha-ri 8:4-5:20-22.

3. Câu gốc: “Từ nay nước của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và

Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời”(Khải 11:15b).

4. Đố Kinh Thánh: 2Sử Ký 9-12.

5. Thể loại: Thuyết trình.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 25.01.2015.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Hòa bình là mong ước sâu xa của loài người xưa nay. Trải qua

bao giai đoạn lịch sử, đã có nhiều chánh khách lỗi lạc từng ấp ủ

hoài bão thực hiện một thế giới đại đồng cho nhân loại. Nhưng

chiến tranh cứ mãi tiếp diễn không ngừng, và mỗi ngày càng thêm

khốc liệt hơn! Vậy hoà bình đến từ đâu?

Trở về với Kinh Thánh, một nước Thiên hi niên hòa bình đã được dự

ngôn gần hơn hai ngàn năm về trước. Như thế bao giờ nước hòa bình

lý tưởng nầy sẽ xuất hiện? Do ai thiết lập?Sự trì vì được đặt trên tiêu

chuẩn nào? Và thế giới sẽ ra sao trong thời đại hoàng kim ấy?

I. DẪN GIẢI.

A. DẪN CHỨNG VỀ NƯỚC THIÊN HI NIÊN.

69

Mặc dầu có một số người không tin có nước ngàn năm bình an,

như Calvin cho rằng đó là hạn chế quyền tể trị đời đời của Đấng

Christ. Tuy nhiên giáo lý Thiên hi niên là một thực sự vì những

chứng cớ sau đây:

1. Lời tiên tri trong Cựu Ước.

Ê-sai 2:2-4; 11:1-16; 60-65 đã mô tả cảnh trạng của nước hòa

bình trong sự trị vì vinh hiển của Đấng Mê-si khi Ngài hiện đến lần

thứ hai. Nhưng vì hiểu lầm lời tiên tri ấy, dân Do Thái đã đóng đinh

Đấng Mê-si khi Ngài hiện đến lần thứ nhất trong sự chết nhục nhã

trên thập tự giá!

2. Sự dạy dỗ của Tân Ước.

Trong Công Vụ 3:19-21 những chữ  “kỳ thơ thái đến từ Chúa”

hay  “kỳ muôn vật đổi mới”ám chỉ đến lời tiên tri về nước ngàn

năm của Đấng Christ. Trong Lu-ca 19:12-27, ẩn dụ về vị thái tử đi

phương xa nhận nước trở về tính sổ với đầy tớ mình, chỉ về Đấng

Christ được Đức Chúa Trời lập làm Vua trị vì nước Thiên hi niên và

đoán xét thế gian (Giăng 5:22). Khải Huyền 20:1-6 bày tỏ sự kiện

sa-tan bị giam giữ một ngàn năm bình an sau khiAn-ti-christ bị

diệt trừ. Trong khoảng thời gian ấy Đấng Christ trì vị các nước thế

gian với sự đồng trị của các thánh đồ Ngài.

3. Niềm tin của Hội Thánh đầu tiên.

Schaff, một sử gia Hội Thánh ghi rằng: Trước  giáo nghị hội

Nicée, trọng điểm của giáo lý lai thế được  gọi là thuyết Thiên hi

niên, chủ trương rằng Đấng Christ sẽ lấy đạiquyền, đại vinh hiện

ra cùng với các thánh đồ để trị vì trên đấttrước ngày phán xét

chung. Những giáo phụ danh tiếng như Papius, Justi Martyr, Irénée,

Tertullien đều công nhận lời nầy.

Sử gia Gibbon trong quyển:  “The decline and Fall of the Roman

Empire”, có ghi rằng: “Giáo lý về thời đại Thiên hi niên vốn xa xưa,

nhưng rất phổ thông. Bởi sự truyền lại liêntiếp qua các giáo phụ từ

70

Justin Martyr và Irénée, là hai nhân vật đã  từng gặp gỡ các giáo

phụ – môn đồ của các sứ đồ…”

B. NHỮNG BIẾN CỐ DẪN ĐẾN THỜI ĐẠI THIÊN HI NIÊN.

1. Thời điểm bắt đầu của nước Thiên hi niên.

Với những dẫn chứng trên cho thấy giáo lý về Thiên hi niên là

điều chắc chắn. Nhưng vấn đề là nước ấy sẽđược xuất hiện khi nào?

Có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm “Tiền Thiên hi niên”

cho rằng Đấng Christ sẽ đến trước thời đại ngàn năm bình an.

Quan điểm “Hậu Thiên hi niên” chủ trương ĐấngChrist sẽ đến sau

thời đại ngàn năm bình an vì nghĩ rằng thế giới nầy sẽ dần dần

được cải tiến về kinh tế, chính trị, và cải  thiện về đạo đức để đi

vào thời hoàng kim Thiên hi niên trước khi Đấng Christ tái lâm

đoán xét thế gian.

Phần lớn các nhà giải kinh Tin Lành đều tin thuyết Tiền Thiên hi

niên vì thuyết nầy thích hợp với sự dạy dỗ  của Kinh Thánh về

những điều sẽ xảy ra trước ngày hiện đến của Đấng Christ:

a. Sự hiện đến của An-ti-christ trước ngày Chúa tái lâm (2Tês

2:7-9): An-ti-christ sẽ xuất hiện trước thời đại Thiên hi niên, và

Chúa hiện đến hủy diệt nó, nghĩa là Ngài đến trước thời đại Thiên

hi niên (Khải 19:19-20; 20:1-5).

b. Sự băng hoại về đạo đức:  Tình trạng sa sút trong Hội

Thánh, sự bại hoại đạo đức trong xã hội loài người, sự bách hại

người tin, sự bất ổn trong các quốc gia. Đó là tình trạng “xáo trộn”,

được diễn tả trước ngày Chúa tái lâm chớ không phải tình trạng

thái bình trước ngày Chúa đến như thuyết HậuThiên hi niên chủ

trương (1Tim 4:1-3; Mat 24:9,29-31; Lu 21:25-27; 2Tês 1:7; Khải

7:14).

c. Hai kỳ sống lại: Một kỳ trước thời Thiên hi niên, và một sau

thời đại nầy. Tỏ rằng Chúa Giê-xu đến trước Thiên hi niên, và các

71

thánh đồ được sống lại và đồng trị với Ngài trong nước ngàn năm

bình an (Khải 20:2,5,12-13).

2. Chiến trận Ha-ma-ghê-đôn.

Ha-ma-ghê-đôn ám chỉ trận chiến lịch sử vĩ đại nhất, khủng

khiếp nhất sẽ xảy ra trước ngày Đấng Christ  tái lâm (Khải 16:12-16). Theo Vincent, Ha-ma-ghê-đôn có thể chỉ vềđồi Meggiddo, và

vùng phụ cận. Về địa lý, Meggiddo nằm trong đồng bằng

Esdraelon, ở về phía Tây sông Giô-đanh, thuộctrung tâm xứ

Palestine, cách Na-xa-rét khoảng 10 dặm về phía Nam; và cách

Điạ Trung Hải độ 15 dặm từ nội địa. Như thế  vùng chiến trận lớn

ấy sẽ chạy dài từ đồng bằng Esdraelon về phía Bắc, xuyên qua

Giê-ru-sa-lem, đến trũng Giô-sa-phát và giápvới Ê-đôm về phía

Nam. Địa điểm nầy đã từng xảy ra nhiều cuộc  chiến trong lịch sử

của Y-sơ-ra-ên, cũng là nơi được chọn cho những cuộc đấu sức trên

đất Palestine kể từ thời vua Assyria.

Theo sự bày tỏ trong Khải Huyền 16:12-16, Ha-ma-ghê-đôn là

cuộc chiến do sự dấy động của sa-tan và An-ti-christ, qui tụ tất cả

lực lượng của các cường quốc trên thế giớiđể chống nghịch Đức

Chúa Trời và bách hại tuyển dân Ngài. Đây  là cuộc chiến kết thúc

ngày Đức Giê-hô-va, tức thời kỳ đại nạn. Đây cũng là điểm hẹn

của các vua trên thế giới để chịu lấy sự đoán phạt khủng khiếp

nhất của Chúa về tội bội nghịch Ngài, bắt bớ các thánh đồ Ngài.

3. Sự đắc thắng của Đấng Christ (Khải 19:11-20:3).

Với sự chống nghịch của An-ti-christ, Đấng Christ hiện đến với đại

quyền, đại vinh để tiêu diệt chúng và dẹp sạch kẻ nghịch. Kết cuộc,

An-ti-christ, tiên tri giả bị bỏ vào hồ lửa và sa-tan bị nhốt một ngàn

năm trong vực thẳm để mở đầu cho thời đại Thiên hi niên.

C. SỰ TRỊ VÌ CỦA ĐẤNG CHRIST TRONG NƯỚC THIÊN HI NIÊN.

1. Chánh thể trị vì của Đấng Christ.

72

Theo nhà thần học Gacbelein, ngôi trị vì của Đấng Christ là Giê-ru-sa-lem mới trên trời, nơi Hội Thánh sẽ được đồng trị với Ngài.

Giê-ru-sa-lem xứ Do Thái sẽ trở thành thủ đô của nước ngàn năm

bình an (Xa 14:8,16-17).

Trong vương quốc Thiên hi niên, chánh thể “thần quyền” sẽ

được áp dụng. Tuy nhiên, theo Peters, trong chính thể thần quyền

có cả yếu tố quân chủ lẫn cộng hòa. Quân  chủ vì uy quyền tối cao

đều ở trong tay vua, và tất cả đều tùy thuộc vào đó, cộng hòa vì có

các cơ cấu duy trì quyền cá nhân từ thấp đến cao nhất. Sự kết hợp

hai yếu tố quân chủ và cộng hòa như thế sẽlà một chánh thể lý

tưởng đem phước hạnh cho con người. Chánh thểthần quyền đã

được Đức Chúa Trời chỉ định cho con người từ  lúc ban đầu, nhưng

con người đã bất phục Ngài (Sáng 3); và trong thời các quan xét

dân Ysơraên cũng đã thất bại với chánh thểnầy. Vì vậy trong nước

ngàn năm bình an, Đức Chúa Trời phục hồi chánh thể nầy qua

Đấng Christ, A-đam thứ hai. Ngàn năm dưới thểchế nầy cũng là

một thử nghiệm của Đức Chúa Trời xem con người có khả năng

chấp nhận một thể chế tương lai như thế trongNước vĩnh viễn của

Ngài không.

2. Đường lối trị vì.

Sự cai trị của Đấng Christ được đặt trên sự công bình, chánh trực,

là hai yếu tố phản chiếu bản tánh công nghĩa, thánh khiết của Ngài,

để trở thành nền tảng xây dựng vương quốc hoà bình (Ê-sai 9:6;

11:4-5). Trong thời trị vì của Đấng Christ  “sự công bình và sự bình

an đã hôn nhau”(Thi 85:10). Vì nếu không có công bình, cũng

không có hòa bình, và hòa bình nếu không đặt nền trên sự công

bình thì sẽ trở thành vô nghĩa. Sỡ dĩ thế giới hôm nay vắng bóng

hòa bình, vì công lý bị quyền lực kẻ ác bách hại. Nhưng khi Đấng

Christ đến, quyền lực kẻ ác bị diệt trừ, và  “mặt trời công bình sẽ

mọc lên”, tất nhiên hòa bình sẽ xuất hiện (Mal 4:2).  Vì lẽ cần nầy,

sự trị vì của Đấng Christ mang hai sắc thái đặc thù như sau:

73

(1) Sự công nghĩa đầy dẫy (Ê-sai 11:2-3). Hòabình sẽ trở

thành vô hiệu khi sự công nghĩa không có đủquyền năng thực thi

đúng mức.

(2) Chánh sách công nghĩa bất di bất dịch: Khải Huyền 19:15

bày tỏ Đấng Christ sẽ cai trị thế gian bằng cây gậy sắt.  “Cây gậy

sắt”tiêu biểu cho đường lối trị vì của Đấng Christ là đường lối cứng

rắn (chánh trực và ngay thẳng), bất di bất dịch của Ngài về sự

công nghĩa. Quyết không có sự nhượng bộ củacông lý cho sự bất

công. Người ác chắc sẽ bị tiêu diệt trước “cây gậy sắt”của Ngài.

Dưới sự trị vì của vua hoà bình, sẽ không còn có những nạn nhân

của những bất công xã hội, của người có thế lực trên người cô thế!

3. Những điều xảy ra trong sự thành lập nướcngàn năm.

Khi Đấng Christ đến lần thứ hai sẽ có những điều xảy ra như sau:

(1) Quốc gia Do Thái hoàn toàn được phục hồi(Ê-sai 35,60).

(2) Dân Do Thái được sự cứu rỗi của Chúa, được sự tẩy sạch và

được ban cho lòng mới với sự ngự trị của Đức Thánh Linh (Êxê

36:24-28; Giô 2:32; Giê 31:33-34). Họ sẽ giữ vai trò quan trọng trong

sự rao truyền sự công nghĩa của Đức Chúa Trời cho thế giới, và đem

sự cứu rỗi cho các dân (Xa 8:23; Ê-sai 44:8,21; 61:6,21). Giê-ru-sa-lem trở thành thủ đô hòa bình của thế giới,cũng là trung tâm thờ

phượng Đức Chúa Trời, nơi qui tụ các dân đến ra mắt Chúa và tìm

kiếm Ngài (Ê-sai 2:3-4; Xa 8:2-3;20-23). Hình ảnh nầy sẽ làm ứng

nghiệm lời hứa của Chúa với Áp-ra-ham trong  Sáng Thế Ký 12:1-3;

“Các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước”.

(3) Muôn dân đầu phục Đấng Christ (Xa 14:9; Ê-sai 9:6). Sau

khi mọi chấp chánh của thế gian bị diệt trừ,các dân sẽ thuận phục

Đấng Christ là Vua của các vua, Chúa của cácchúa.

4. Cảnh trạng của Nước Thiên hi niên.

74

Dưới sự trị vì của Đấng Christ, thế giới trong thời Thiên hi niên

được mô tả trong những điểm sau:

(1) Thế giới hòa bình (Mi 4:3; Ê-sai 2:4): Khí  giới chiến tranh

được biến thành công cụ hữu ích.

(2) Đạo Chúa được rao truyền và khắp đất đầy dẫy sự hiểu biết

Đức Chúa Trời (Phi 2:11; Ê-sai 45:23; 11:9; 52:7).

(3) Muôn vật được giải cứu khỏi sự rủa sả (Rô 8:20-21).

(4) Về thuộc linh, con người được tương giao với Chúa, được sự

hiện diện của Đức Thánh Linh và sự thông biết Ngài, về tinh thần,

được vui vẻ, tự do, không còn bị kẻ ác áp bức; về vật chất, được an

cư lạc nghiệp, và sống lâu, hạnh phúc (Ê-sai 2:4; 11:1-9; 35:5-6;

61:1-3; Xa 8:4-8).

Những điểm mô tả trên cho chúng ta thấy mộtbức ảnh đẹp tuyệt

vời của nước ngàn năm bình an mà chỉ có ĐứcChúa Trời mới thực

hiện được và đây là điều mà nhân loại đangmong mỏi đợi chờ.

Tóm lược.

1. Nước ngàn năm bình an là giáo lý được Kinh Thánh bày tỏ và

được thấy trong niềm tin của Cơ đốc nhân.

2. Nước Thiên hi niên được bắt đầu sau khi Đấng Christ tái lâm,

chiến thắng An-ti-christ và các vua thế gian,  hình phạt An-ti-christ

và tiên tri giả trong hồ lửa, giam giữ sa-tantrong vực sâu.

3. Trong nước Thiên hi niên, Hội Thánh được đồng trị với Đấng

Christ.

4. Chánh thể trong nước ngàn năm bình an là chánh thể thần

quyền và đường lối cai trị là công bình và chánh trực.

5. Trong thời Thiên hi niên, quốc gia Do Thái  được phục hồi

hoàn toàn, dân Do Thái được cứu và trở thành những người đem tin

mừng cho thế giới. Giê-ru-sa-lem sẽ trở thành thủ đô của nước

Thiên hi niên và trung tâm thờ phượng của thế giới.

75

6. Các dân trên đất đầu phục sự trị vì của  Chúa. Trong thời đại

Thiên hi niên, muôn vật được giải cứu, thế giới hoà bình, dân cư sống

tự do, hạnh phúc, vui vẻ, sống lâu, và đầy dẫy sự hiểu biết Chúa.

7. Mục đích của nước thời Thiên hi niên là chuẩn bị cho Nước

vinh hiển sau đó.

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Xin đọc những câu Kinh Thánh sau đây và tìm hiểu:

a. Ê-sai 53: Vị tiên tri nói về sự hiện đến của Đấng Mê-si trong

tư cách nào?

b. Ê-sai 2:2-4; 9:5-6; 11:1-6: Vị tiên tri nói về sự hiện đến lần

hai trong tư cách nào? Với mục đích gì?

c. Mi-chê 4:1-4; Xa-cha-ri 14:8-11: Lời tiên trinói gì về sự hiện

đến lần thứ hai của Chúa Giê-xu?

d. Công 3:19-21: Lời tiên tri của sứ đồ Phi-e-rơ chỉ về điều gì?

e. Khải Huyền 19:11-20:1-4: Sự hiện thấy của  Giăng về Đấng

Christ tái lâm và cai trị ngàn năm trên đất có liên quan thế nào với

các lời tiên tri trong Cựu Ước?

2. Sự liên quan trên chứng tỏ cho chúng ta về lẽ thật nào?

3. Xin ghi nhận các sự kiện xảy ra qua những câu Kinh Thánh sau

đây: (a) Khải 1:7; Ma-thi-ơ 24:30. (b) Khải 19:11-21. (c) Khải

30:1-3. (d) Khải 20:4-6. (e) Ma-thi-ơ 25:31-32.

4. Diễn tiến của các sự kiện xảy ra có ý nghĩa gì trong sự thiết lập

nước ngàn năm bình an?

5. Xin đọc những câu Kinh Thánh Ê-sai 9:5-6; 11:1-6; Khải Huyền

11:15 và tìm hiểu:

a. Đấng cai trị nước ngàn năm là ai?

b. Chính thể và chính sách hay đường lối cai trị của Đấng Christ

như thế nào?

76

c. Hai điều trên có liên hệ gì đến nền hòa  bình trong thời đại

Thiên hi niên? Xin giải thích.

6. Xin tìm hiểu:

a. Khải Huyền 11:15: Nước của Đấng Christ bao  gồm trong

phạm vi nào?

b. Khải Huyền 20:4-6: Ai sẽ được dự phần vớiĐấng Christ trong

sự cai trị nước ngàn năm bình an?

c. Ê-sai 54:1-3; A-mốt 9:11-15; Ê-xê-chi-ên 36:24-28: Theo tiên

tri, hai điều gì sẽ được ứng nghiệm cho dân Do Thái khi Đấng Christ

trị vì (về quốc gia Y-sơ-ra-ên và về đời sống thuộc linh của họ).

d. Xa-cha-ri 8:3,22-23; 14:16-17; Ê-sai 2:2-3: Trong nước ngàn

năm bình an, thành Giê-ru-sa-lem, và tuyển dân Do Thái giữ vai trò

quan trọng như thế nào? Vai trò nầy có nghĩa  gì đối với lời Đức

Chúa Trời hứa cùng Áp-ra-ham trong Sáng Thế Ký 12:1-3?

e. Ê-sai 2:4; 11:6-11; Xa-cha-ri 8:4-8,20-22; Rô-ma 8:10-20: Xin

mô tả cảnh trạng của Nước ngàn năm bình an,về muôn vật, về

loài người trong đời sống tâm linh (tôn giáo), tinh thần và vật chất.

7. Xin tóm lược những đặc điểm của nước ngàn năm bình an.

Những đặc điểm nầy của nước ngàn năm có liên quan thế nào

với nước vĩnh viễn sau đó?