Latest News From Our Blog

Bài học Kinh Thánh giáo viên Lớp ấu nhi (4-5 tuổi)

Bài học Kinh Thánh giáo viên Lớp ấu nhi (4-5 tuổi)

in ẤU NHI on 11 Tháng Hai, 2015

Chủ đề 1: Các Em Kính Yêu Đức Chúa Trời

Bài 1. SA-MU-ÊN SỐNG TRONG ĐỀN THỜ

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên đoạn 1:21-28; 3.
II. CÂU GỐC: “Sa-mu-ên trở nên khôn lớn, Đức Giê-hô-va ở cùng người” (1Sa-mu-ên 3:19).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em
– Biết: Sa-mu-ên từ thuở nhỏ đã sống trong đền thờ của Đức Giê-hô-va để hầu việc Ngài.
– Cảm nhận: Được hầu việc Chúa là một điều phước hạnh cho những ai yêu mến Ngài.
– Hành động: Hầu việc Chúa tùy theo lứa tuổi và khả năng của mình.
IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
* Chuẩn bị:
– Một hoặc hai con chim trong lồng.
* Thực hiện:
(Khi các em quan sát chim, hãy nói với các em): “Các em có nghe chim hót lần nào chưa?” (Khuyến khích các em nói lên đã từng nghe chim gì). “Em nói đúng đấy, Đức Chúa Trời tạo ra các loài chim để hót líu lo. Nhưng cô (thầy) biết rằng Đức Chúa Trời còn tạo ra con người, hát hay hơn cả loài chim. Em nào trong lớp mình biết hát ca ngợi Chúa?” (Cho cả lớp hát) “Ôi, cả lớp ta hát bằng giọng hay tuyệt!”
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào bài.
Các em ơi, các em nhìn thấy gì trên bức tranh nầy? (Để các em tự do phát biểu). Đúng rồi, có một ông lão tay cầm một cuộn sách, trước mặt ông là một cậu bé tay cầm ngọn đèn. Này các em, hãy thử đoán xem, cuộn sách trên tay ông lão là cuộn sách gì? Đúng rồi, là Kinh Thánh (Kinh Thánh ngày xưa được cuộn lại). Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời, dạy dỗ chúng ta phải biết yêu thương Đức Chúa Cha và mọi người, cho nên, mỗi ngày chúng ta đều phải đọc Kinh Thánh, mỗi Chúa nhật đều phải đến lớp Trường Chúa nhật học Lời của Chúa.
Hôm nay chúng ta sẽ nghe câu chuyện của cậu bé trong bức tranh, xem cậu đã yêu kính Đức Chúa Trời ra sao, đẹp lòng Ngài như thế nào.
2. Bài học.
Ngày xưa, có một người tên Ên-ca-na, là chồng của bà An-ne. Họ có nhiều của cải và đất đai. Lẽ ra cuộc sống của họ sẽ rất sung sướng, vui vẻ, nhưng rất tiếc là bà An-ne không sinh con được, nên ngày ngày bà thường buồn rầu và khóc. Ngày kia, An-ne quỳ trước mặt Đức Giê-hô-va trong đền thờ, cầu nguyện xin Ngài ban cho một đứa con trai và hứa nguyện rằng nếu Ngài nhậm lời thì bà sẽ dâng con ấy trọn đời để hầu việc Ngài.
Các em ơi! Các em thử đoán xem Đức Chúa Trời có nghe lời cầu xin của bà An-ne không? (Ngưng lại một chút). Đúng rồi, Đức Chúa Trời đã nghe lời cầu nguyện của bà, ban cho bà một bé trai kháu khỉnh. Ông bà đặt tên cho cậu là Sa-mu-ên.
Các em thân mến, các em còn nhớ bà An-ne đã hứa nguyện gì với Đức Chúa Trời không? Đúng rồi, bà hứa rằng khi Sa-mu-ên lớn lên, sẽ đưa cậu đến ở trong đền thờ để hầu việc Chúa. An-ne không quên lời hứa của mình, vì vậy, sáng sớm ngày hôm đó, An-ne nói với Sa-mu-ên: “Chúng ta hãy đến đền thờ để thờ phượng Chúa và con của chúng ta sẽ ở lại trong đền thờ”. Sa-mu-ên nghe vậy buồn lắm vì không muốn xa mẹ, cậu ôm mẹ mà khóc; nhưng bà An-ne khuyên con và hứa sẽ đến thăm con đều đặn. Thế là cậu bé Sa-mu-ên cùng với cha mẹ đi đến đền thờ. Thầy tế lễ Hê-li nhận cậu và hứa sẽ dạy dỗ cậu cách hầu việc Đức Chúa Trời.
Cậu bé Sa-mu-ên rất siêng năng, chịu khó. Mỗi sáng sớm cậu đều thay thầy tế lễ Hê-li mở cổng đền thờ cho dân sự đến cầu nguyện; buổi tối đóng cửa rồi mới đi ngủ. Mỗi vật dụng trên bàn thờ đều được Sa-mu-ên chùi rửa sạch sẽ và luôn được thắp sáng. Cậu còn quét dọn đền thờ và giúp đỡ cho ông Hê-li nhiều việc khác.
Mỗi tối, sau khi làm xong mọi việc, Sa-mu-ên cầu nguyện trước khi đi ngủ. Một tối nọ, khi vừa chợp mắt, cậu chợt nghe tiếng gọi: “Sa-mu-ên! Sa-mu-ên!” Cậu choàng tỉnh đáp: “Có con đây!” rồi lập tức chạy đến chỗ ông Hê-li. Hê-li bảo rằng: “Ta không có gọi con. Hãy đi ngủ lại đi!”
Đêm đó, Sa-mu-ên nghe gọi tên cậu ba lần nữa. Cả thầy tế lễ và Sa-mu-ên đều biết rằng chính Đức Chúa Trời đã gọi cậu. Cậu đã được trò chuyện cùng Chúa. Cậu là người siêng năng, vâng lời, nên khi vừa nghe tiếng gọi, đã lập tức trả lời, sẵn sàng làm bất cứ việc gì, cho nên cậu rất đẹp lòng Đức Chúa Trời.
3. Ứng dụng.
Các em có ngoan ngoãn, siêng năng và vâng lời như cậu bé Sa-mu-ên không? Các em còn nhỏ thì làm việc nhỏ. Các em có thể hầu việc Chúa bằng nhiều cách như phụ dọn bàn ghế trong lớp, quét lớp, dâng tiền, ca ngợi Chúa, mời bạn đến học lớp Trường Chúa nhật… Điều nào các em làm cũng là điều có ích và đẹp lòng Chúa, vui lòng cha mẹ cùng thầy cô.
C. GIỜ THỦ CÔNG.
Tô màu hình vẽ bài 1, tập học viên.

Chương trình thờ phượng Ban Nam Giới Chúa Nhật 4-1-2015

Chương trình thờ phượng Ban Nam Giới Chúa Nhật 4-1-2015

in NAM GIỚI on 11 Tháng Hai, 2015

Chúa nhật 04.01.2015.
1. Đề tài: SỰ CHẾT CỦA NGƯỜI TIN CHÚA.
2. Kinh Thánh: Rô 5:12-14; Hêb 9:27; 2Côr 5:1-10.
3. Câu gốc: “Từ rày phước thay cho những người chết là người chết trong Chúa! Đức Thánh Linh phán: Phải, vì những người ấy nghỉ ngơi khỏi sự khó nhọc, và việc làm mình theo sau” (Khải 14:13b).
4. Đố Kinh Thánh: 1Sử Ký 5-8.
5. Thể loại: Chia sẻ.
* CHỈ DẪN: Chia Sẻ.
1. Mời người chia sẻ từ 2 tuần trước.
2. Ghi ra giấy đề tài, phần Kinh Thánh làm nền, câu gốc, phần Kinh Thánh tham khảo và trao cho người chia sẻ để người ấy chia sẻ đúng nhu cầu và chương trình của ban Nam giới. Nếu cần, bạn cho mượn cả phần tài liệu tham khảo.
* TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Sống trên đời nầy, điều mà không ai có thể tránh được là sự chết. Nhưng có phải chết là hết và bên kia phần mộ chỉ là hư vô như người vô thần nghĩ không?
Cho dù có người phủ nhận sự bất diệt của linh hồn, nhưng trong tiềm thức, trong tín ngưỡng của con người nói chung đều chứng tỏ có sự thực hữu của đời sau, là điều Kinh Thánh quả quyết cách rõ ràng. Như thế sự chết của con người có nghĩa gì? Và sau khi chết con người sẽ đi về đâu?
Dựa vào Kinh Thánh, chúng ta học biết những vấn đề trên, đặc biệt về sự chết của người tin Chúa.
I. DẪN GIẢI.
A. ĐỊNH NGHĨA VỀ SỰ CHẾT.
– Với bác sĩ, bệnh nhân chết là khi tim ngừng đập và các bộ phận trong cơ thể ngừng hoạt động.
– Với người vô thần, con người chỉ có sự sống thể chất, cho nên chết là hết, chết có nghĩa là chấm dứt sự sống.
Nhưng Kinh Thánh cho biết gì về sự chết?
Theo Truyền Đạo 12:7 cho thấy, ý chính của sự chết được diễn tả trong hai chữ phân rẽ hay chia cách. Bản chất con người được kết hợp bởi hai yếu tố thể xác và linh hồn. Thể xác đến từ bụi đất và linh hồn đến từ Đức Chúa Trời. Vì thế, sự chết được Kinh Thánh nói đến trong ba hình thức sau:
(1) Sự chết thuộc thể: Là xác thịt bị phân rẽ với linh hồn (Rô 5:12; Truyền 12:7).
(2) Sự chết thuộc linh: Linh hồn bị phân cách với Đức Chúa Trời (Ê-sai 59:1; Êph 2:1).
(3) Sự chết đời đời hay sự chết thứ hai: Trong ngày sau rốt, người ác sẽ sống lại để linh hồn và thể xác chịu hình phạt đời đời trong hồ lửa, bị phân cách vĩnh viễn với Đức Chúa Trời (Khải 20:14).
Như thế người không tin Chúa chắc chắn phải trải qua ba sự chết: Hiện tại là chết tâm linh, rồi đến chết thuộc thể và sẽ đi vào sự chết đời đời. Nhưng người tin Chúa chỉ trải qua sự chết thân thể như người chẳng tin, vì đó là định luật chung cho loài người sa ngã trong dòng dõi của A-đam (Hêb 9:27). Mặc dầu sự chết thuộc thể là một phần của sự rủa sả trong án phạt của Đức Chúa Trời (Sáng 3:19), tuy nhiên, đối với người tin, sự chết không còn là án phạt của tội lỗi. Nhờ sự chết của Đấng Christ, hình án của tội lỗi trên người tin được cất khỏi (Giăng 3:36; 5:24). Dầu hiện tại nọc sự chết vẫn còn hoạt động trong loài người, nhưng sự chết chẳng có quyền gây hại trên người tin vì Đấng Christ đã phá hủy người cầm quyền của sự chết là ma quỉ. Đối với người tin, sự chết là giấc ngủ, một giai đoạn chờ đợi để được sự cứu chuộc của thân thể cách vinh hiển trong ngày Chúa Giê-xu trở lại (Hêb 2:14-16; Giăng 11:11,14; 1Côr 15:55-57; 1Tês 4:15).
Tóm lại, với người chẳng tin, sự chết là một hình án, là bước vào nơi đoán phạt của tội lỗi. Trái lại, sự chết của người tin có hai đặc điểm sau: (1) Sự chết không phải là hình án của tội lỗi, nhưng là cái cổng để bước vào sự sống với Chúa. (2) Sự chết chỉ là một giấc ngủ.
Chết không phải là hết vì sự bất diệt của linh hồn, và bên kia sự chết là cánh cửa hé mở cho thấy sự thực hữu của đời sau.
B. ĐỜI SAU CỦA NGƯỜI TIN CHÚA.
1. Nơi ở của người tin Chúa.
Trong Kinh Thánh có nói đến “âm phủ” (Hades). Chữ âm phủ theo tiếng Hy-bá-lai là Shéol, và tiếng Hy-lạp là Hadès chỉ chung về chỗ ở của người chết, tức là người trong tình trạng linh hồn bị phân rẽ với thể xác. Theo sự bày tỏ trong Lu-ca 16:22-23, chúng ta được biết người tin Chúa trong thời Cựu Ước khi qua đời thì vào âm phủ. Nơi ấy được chia làm hai chỗ cách biệt. Một là nơi khổ hình dành cho người ác, tạm gọi là “địa ngục”; và một nơi gọi là “lòng Áp-ra-ham”, mà người Do Thái thường gọi đó là Lạc viên hay Ba-ra-đi dành cho người công bình. Căn cứ vào những câu Kinh Thánh Ê-phê-sô 4:8; Lu-ca 23:42-43; 2Cô-rinh-tô 5:1-8, các nhà giải kinh cho rằng từ khi Đấng Christ phục sinh và thăng thiên, thì Lạc viên của Đức Chúa Trời ở trong lòng Áp-ra-ham cũng đã được cất lên với Ngài. Từ đó Lạc viên có nghĩa là nơi ở của Chúa. Như thế trong thời Tân Ước, người tin Chúa qua đời không phải đi xuống âm phủ nữa, nhưng được cất lên chốn Ba-ra-đi với Chúa. Như Lời Chúa Giê-xu hứa với tên cướp trong giờ phút hấp hối tin nhận Ngài.
2. Cảnh trạng của người qua đời trong nơi Lạc viên.
a. Ở trong cảnh sống thật, nghĩa là có sự cảm biết: Kinh Thánh cho biết Đức Chúa Trời là Chúa của người sống (Mat 22:32), và trong Khải Huyền 6:9-11 nói đến những linh hồn của người bị chết vì danh Chúa yêu cầu Ngài báo thù vì sự đổ huyết của họ. Điều nầy cho thấy linh hồn của người tin Chúa qua đời được sống với Chúa chớ không phải như chủ trương của giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm, cho rằng bất luận người tin hay người chẳng tin khi qua đời thì linh hồn chẳng có cảm biết, cứ ngủ mê man chờ ngày phán xét của Chúa.
b. Có sự nhận biết và trò chuyện với nhau: Như trong chuyện người giàu có và La-xa-rơ trong âm phủ, chúng ta thấy người giàu có nhận biết Áp-ra-ham, nhận biết La-xa-rơ, và họ nói chuyện với nhau (Lu-ca 16:23-31).
c. Có sự hiểu biết hơn: Theo 1Cô-rinh-tô 13:12, khi được sống với Chúa và ở trong sự hiện diện của Ngài, sự hiểu biết Chúa của người tin sẽ đầy trọn hơn.
d. Được nghỉ ngơi và hưởng phước: Người tin Chúa qua đời được nghỉ ngơi và phước hạnh (Khải Huyền 6:11; 14:13).
e. Trong tình trạng chưa đầy trọn: Mặc dầu nơi Lạc viên, người qua đời an nghỉ phước hạnh trong sự hiện diện của Chúa, nhưng đây chỉ là cảnh trạng tạm cư của người tin Chúa để chờ đợi sự cứu chuộc của thân thể, nhận sự ban thưởng của Chúa và sự sống đời đời trong Nước vinh hiển của Ngài. Điều nầy sẽ được thể hiện cách trọn vẹn cho người tin trong ngày Đấng Christ tái lâm.
C. NIỀM TIN CỦA CHÚNG TA VỀ SỰ CHẾT.
Với sự bày tỏ của Kinh Thánh, chúng ta:
1. Phủ nhận các tà thuyết về sự chết.
Một trong các giáo thuyết sai lầm là ngục luyện tội. Chúng ta không nhận giáo thuyết nầy vì những lý do sau đây:
a. Không có nền tảng của Kinh Thánh: Không có nơi nào trong Kinh Thánh nói cách trực tiếp về ngục luyện tội, không có dẫn chứng nào của Kinh Thánh về việc nhờ lễ Mi-sa để giải tội cho người chết nơi ngục luyện tội, hay sự luyện lọc tội lỗi bằng lửa cháy phừng phừng!
b. Chối bỏ lẽ thật về sự cứu rỗi của Đấng Christ: Thuyết ngục luyện tội đã đánh mất những giáo lý quan trọng của sự cứu rỗi:
– Huyết của Chúa Giê-xu có linh nghiệm tẩy sạch mọi tội lỗi của tội nhân (1Giăng 1:7; Hêb 9:14).
– Được sự cứu rỗi là hoàn toàn nhờ ân điển của Chúa và bởi đức tin (Êph 2:8).
– Đời nầy là cơ hội nhận sự cứu rỗi (Lu 16:26).
Nhưng thuyết ngục luyện tội đã chối bỏ những giáo lý trên. Cậy vào nghi lễ báp-tem và dựa vào công đức riêng để xem ai được vào Thiên đàng hay phải vào ngục luyện tội, cũng như cậy lễ Mi-sa, sự đọc kinh cầu nguyện của giáo hội để giải tội cho người chết là điều trái với sự dạy dỗ của Kinh Thánh.
c. Vượt trên quyền của Chúa: Thuyết ngục luyện tội tạo cho giáo hội có uy quyền lớn: Quyền giải tội. Quyền ấy đã đem lại cho giáo hội nguồn lợi lớn! Chỉ có Đấng Christ là đầu của Hội Thánh, và sự tha thứ tội là do huyết Ngài. Tạ ơn Chúa, bởi ân điển Đức Chúa Trời, Ngài không “bán” nhưng “ban” sự cứu rỗi cho chúng ta cách không điều kiện.
Vì những lý do trên, chúng ta không tin có ngục luyện tội. Chúng ta cũng không tin sự cầu nguyện cho người chết.
2. Sẵn sống, sẵn chết.
Vì biết sự chết chỉ là giấc ngủ tạm thời, và biết rõ nơi chúng ta sẽ đi đến, cho nên trong niềm tin nơi Chúa, chúng ta hãy sống cho Chúa, hết sức làm đẹp lòng Chúa, và cũng sẵn sàng chết vì danh Ngài (2Côr 5:8-9; Phil 1:21-26).
3. Bình an bước qua sự chết.
Chúng ta có sợ hãi khi bước qua sự chết không?
Phao-lô là người đã một lần “được đem lên đến chốn Ba-ra-đi” (2Côr 12:4). Nên nếu chọn giữa sự sống và sự chết, Phao-lô nói rằng: “…muốn đi ở với Đấng Christ, là điều rất tốt hơn” (Phil 1:23). Không có gì phước hạnh hơn cho người được sống với Chúa. Hãy biết rằng Chúa Giê-xu đang đứng bên hữu Đức Chúa Trời chờ đón chúng ta và khi chúng ta lìa đời chắc sẽ được tiếp đi với Ngài (Công 7:56,60). Chúa cũng đã hứa ở cùng chúng ta khi chúng ta đi trong trũng bóng chết (Thi 23:4). Vậy chúng ta hãy có lòng bình an trong Ngài. Với niềm tin và hy vọng nhìn xuyên qua hoàng hôn của sự chết, chúng ta thấy một bình minh tươi sáng của sự sống bất diệt trong Cứu Chúa phục sinh.
Tóm lược.
(1) Chết là sự phân rẽ. Có ba hình thức của sự chết trong con người phạm tội: Chết thể xác, chết tâm linh, và chết đời đời.
(2) Chết không phải là hết, bên kia sự chết còn có đời sau.
(3) Đối với Cơ Đốc nhân, sự chết của thân thể không phải là một hình án của tội lỗi, nhưng đó chỉ là một giấc ngủ. Sau khi chết, linh hồn người tin Chúa sẽ được cất lên chốn Lạc viên trên trời. Được ở với Chúa, được sống trong sự hiện diện của Chúa, được hiểu biết Chúa hơn, có sự cảm biết và nhận biết nhau, được nghỉ ngơi và hưởng phước. Đây là giai đoạn có thể gọi là “tạm cư” chờ đợi ngày tái lâm của Đấng Christ để thân thể được cứu chuộc, được vào sự sống đời đời trong Nước Vĩnh Sanh của Đức Chúa Trời. Vì thế, sự qua đời của người tin Chúa được Kinh Thánh bày tỏ là điều quí báu, phước hạnh trước mặt Đức Giê-hô-va (Thi 116:15; Khải 14:13).
II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.
1. Xin đọc những câu Kinh Thánh sau đây và tìm hiểu.
a. Sáng Thế Ký 3:19; Truyền Đạo 12:7: Điểm chính của ý nghĩa về sự chết có thể được diễn tả trong hai chữ nào?
b. Theo ý nghĩa trên, sự chết được Kinh Thánh diễn tả trong ba hình thức nào? Rô 5:12; Truyền 12:7. Ê-sai 59:2; Êph 2:1. Khải 20:14.
2. Tìm hiểu ý nghĩa sự chết của người tín hữu qua những câu Kinh Thánh sau đây:
a. Rô-ma 5:12; Giăng 5:24. Sự chết của người tin Chúa có phải là sự đoán phạt của tội lỗi không? Tại sao?
b. 1Cô-rinh-tô 11:30-32: Tại sao sự chết giáng trên người tin Chúa phạm tội?
c. Giăng 11:11,14, 1Tês 4:15: Với Cơ Đốc nhân, sự chết được gọi là gì? Tại sao?
3. Qua sự ghi nhận trên, chúng ta tìm thấy trong sự chết của người tin Chúa có những đặc điểm nào?
4. Xin tìm hiểu ý nghĩa những chữ sau đây:
a. Âm phủ trong Lu-ca 16:23.
b. Ba-ra-đi trong Lu-ca 23:42-43; 16:22.
5. Xin đọc những câu Kinh Thánh sau đây và tìm hiểu:
a. Công 7:55-56; 59-60: Khi qua đời người tin Chúa được ai tiếp đi?
b. Lu-ca 16:22; 23:42-43: Đâu là nơi ở của người tin Chúa khi qua đời? So sánh nơi ở nầy với cảnh sống hiện tại? (2Côr 5:1-8; Khải 2:7).
6. Xin đọc những câu Kinh Thánh sau đây và tìm hiểu người qua đời ở trong cảnh trạng nào?
a. 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:9,10; Ma-thi-ơ 22:32: Được sống cảm biết hay linh hồn ngủ mê?
b. Khải Huyền 14:13: Được yên nghỉ phước hạnh hay sợ hãi?
c. Lu-ca 16:23: Trong cõi đời sau, người ta có sự nhận biết nhau không và nhận biết như thế nào?
d. 1Cô-rinh-tô 13:12: Có sự tăng trưởng về sự hiểu biết Chúa trong người Cơ Đốc sau khi qua đời không?
7. Qua ghi nhận trên, xin tóm tắt những đặc điểm về nơi và cảnh trạng của người tin Chúa sau khi qua đời.
8. Qua những đặc điểm trên cho chúng ta tìm thấy chân lý gì về sự chết của người tin Chúa? (Thi 116:15; Khải 14:12).
9. Xin đọc những câu Kinh Thánh sau đây và tìm hiểu:
a. Phi-líp 1:21-26: Mong ước hơn hết của Phao-lô là gì? Tại sao ông hoãn sự mong ước ấy?
b. 2Cô-rinh-tô 5:8-9: Phao-lô khuyên tín hữu có lòng tin cậy gì và phải sống thế nào trong đời nầy?
c. Chúng ta học được gì về thái độ đối với sự sống, và sự chết trong niềm tin của Cơ Đốc nhân?
10. Có ngục luyện tội không? Vì sao?

Chương trình thờ phượng ban phụ nữ Chúa Nhật 4-1-2015-

Chương trình thờ phượng ban phụ nữ Chúa Nhật 4-1-2015-

in PHỤ NỮ on 11 Tháng Hai, 2015

Chúa nhật 04.01.2015.
1. Đề tài: XUÂN AN BÌNH.
2. Kinh Thánh: Thi Thiên 91.
3. Câu gốc: “Tôi nói về Đức Giê-hô-va rằng: Ngài là nơi nương náu tôi, và là đồn lũy tôi; cũng là Đức Chúa Trời tôi, tôi tin cậy nơi Ngài” (Thi 91:2).
4. Đố Kinh Thánh: Thi 85-87.
5. Thể loại: Ca ngợi – Cảm tạ – Bài ca mới.
* CHỈ DẪN: Ca ngợi – Cảm tạ – Bài ca mới.
1. Tất cả các ban viên đều có quyền dự phần: Ca ngợi cảm tạ Chúa về những ơn phước Ngài ban; hát hay tập cho các bạn một bài hát mới hoặc tham gia đủ ba tiết mục.
2. Ghi danh với người hướng dẫn chương trình thờ phượng.
3. Có thể đơn ca, song ca, tốp ca hay mời cả ban cùng hát.
4. Không cười chê những người hát không hay.
5. Nếu không làm chứng thì nên bày tỏ lý do tôn vinh Chúa bài thánh ca đó. Khi làm chứng, xin trình bày cách thành thật. Nếu bài làm chứng cảm động, nên cầu nguyện ngay.
6. Ủy viên âm nhạc và sinh hoạt chuẩn bị một số bài hát mới tập cho ban viên.
* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.
SAY NẮNG.
– Đề phòng: Không tắm nắng quá lâu, đầu để trần.
– Cấp cứu khi chờ bác sĩ đến.
+ Đặt nạn nhân ở chỗ thoáng khí, đầu và vai cao hơn thân người (nếu mặt nạn nhân bị tái xanh thì để đầu và vai thấp).
+ Phun nước lạnh lên người nạn nhân. Nếu có túi chườm nước đá đặt lên đầu càng tốt.
+ Làm cho nạn nhân toát mồ hôi bằng cách xát mạnh các đầu ngón tay, bắp chân, đùi và thân người.
+ Cho nạn nhân uống nhiều nước trà loãng có pha chút muối hoặc nước có ga, từng ngụm nhỏ một. Không cho đường vào nước.
+ Nếu da bị phồng dộp, cần ngâm nạn nhân vào trong bồn tắm, nước lạnh.

Video Trại hè Nam Giới 2013 (Phần 3)

in Video Clips on 10 Tháng Hai, 2015

Video Trại hè Nam Giới 2013 (Phần 2)

in Video Clips on 10 Tháng Hai, 2015

Video Trại hè Nam Giới 2013 (Phần 1)

in Video Clips on 10 Tháng Hai, 2015

Sundar Singh

in DANH NHÂN on 10 Tháng Hai, 2015

Sundar Singh
Sundar là con trai út của một gia đình quí tộc ở Ấn Độ. Gia đình, giòng tộc ông rất giàu có. Ông lớn lên được cha gửi vào trường Tin lành để học. Sundar có nhiều ưu tư về tôn giáo. Một hôm, Sundar được giáo viên của mình nói về Chúa Giê-xu và biếu cho Sundar một quyển Kinh Thánh Tân ước. Sundar rất ghét Tin lành và chống đối, nhưng những lời làm chứng của giáo viên khiến em suy nghĩ và bị dằn vặt khủng khiếp trong tâm hồn. Sundar cảm thấy tâm hồn mình bất an và như có một gánh nặng bao trùm tâm trí em. Em không chịu nổi tình trạng này. Em nhất quyết vào phòng riêng giam mình trong phòng vì nỗi sầu khổ và bị dằn vặt về tội lỗi. Em đã đến với tôn giáo của mình là đạo Singh để mong tìm được giải thoát cho tâm hồn. Nhưng gánh nặng ấy cứ đè mãi trên em và cuối cùng em đã đến với Chúa Giê-xu. Em quỳ gối thưa với Ngài rằng: “Nếu thật có Chúa Giê-xu xin bày tỏ Ngài cho con biết”. Đến đêm thứ ba, em thấy ánh sáng sáng rực phòng em và nghe có tiếng phán êm dịu rằng: “Ta là Giê-xu đây”. Em quỳ gối ăn năn tội lỗi và tiếp nhận Chúa Giê-xu vào lòng làm Cứu Chúa của mình. Lạ thay! Em thấy gánh nặng trong tâm hồn không còn và có một niềm vui kỳ lạ xâm chiếm lòng em. Em vui mừng quá đỗi và không thể nín lặng em chạy vào cho cha em hay là mình không còn sầu khổ nữa và mình đã tin Chúa Giê-xu. Ngài đã ban cho em lòng bình an như thế nào. Cha của em sửng sốt vì nghe con báo tin đã tin Chúa Giê-xu, cha của em đâu biết được em cũng đã ghét Tin lành và đã đốt Kinh Thánh. Em mong tìm ra chân lý và giam mình trong phòng và muốn ra đường rầy xe lửa để tự tử. Bây giờ em cảm thấy niềm vui tràn ngập và muốn chia sẻ niềm vui đó cho cha. Cha em cự tuyệt và nhất quyết bắt Sundar phải bỏ Chúa. Vốn một gia đình sùng kính đạo Singh nên cha em cố gắng dùng mọi biện pháp để Sundar phải bỏ Chúa. Sundar có một ông chú rất giàu có, ông đem Sundar xuống một cái hầm và giở rương vàng bạc, châu báu và nói với Sundar rằng: “Nếu cháu bỏ Cơ Đốc giáo, chú sẽ cho cháu hết gia tài này”. Nhưng Sundar nhất định từ chối và cương quyết không từ bỏ Chúa Giê-xu.Người cha bèn đem Sundar đến vị tiểu vương để mong sẽ nhờ uy quyền mà Sundar sẽ bỏ Chúa. Nhưng vẫn không có kết quả.Cuối cùng gia đình hiệp lại đãi bữa ăn cuối cùng và đuổi Sundar đi. Sundar đi tàu lửa đến những người bạn và các giáo sĩ. Nhưng Sundar đã bị trúng độc của gia đình. Em đến được trường học của em và bác sĩ được mời đến nhưng ông lắc đầu, bó tay trước một thứ độc dược cực mạnh này. Bác sĩ nói: “Thuốc độc này ai uống phải thì phải chết mà thôi”. Bác sĩ cũng buồn bã ra về và ông nói tiếp: “Ngày mai tôi sẽ đến đưa xác em”. Nhưng Sundar tin rằng Chúa sẽ cứu mình thoát chết. Ngày hôm sau, bác sĩ trở lại và kinh ngạc thấy Sundar không chết mà sức khỏe hồi phục. Bác sĩ thấy quyền năng kỳ diệu đó, ông đã tiếp nhận Chúa làm Cứu Chúa của mình.Sau đó Sundar được tiếp tục học và học về Chúa. Ông ra đi giảng Tin lành của Chúa ở Ấn Độ và ở Tây Tạng. Ông cũng bận một áo vàng như các tu sĩ Ấn Độ để đi giảng Tin lành. Một số người nghe và yêu mến ông. Nhưng nhiều người chống đối. Sundar bắt đầu cuộc hành trình đến Tây Tạng và phải qua dãy Hy-mã-lạp-sơn đầy nguy hiểm và cướp bóc dọc đường. Nhưng ông quyết băng qua dãy núi đó để vào tận nơi mà ít ai dám đến vì đường đi quá khó khăn và hiểm trở. Một hôm ông đi cùng với một người dẫn đường và phải băng qua một đoạn đường có bão tuyết. Ông đang đii thì nghe có tiếng người rên rỉ ở dưới lớp tuyết. Ông quyết định dừng lại để cứu người bị nạn nhưng người dẫn đường không bằng lòng và hối ông phải đi gấp, nếu không trời tối chưa tới nơi phải trọ, chắc chết dọc đường. Sundar dừng lại cứu người bị nạn, còn người dẫn đường tiếp tục đi.Sundar cõng người bị nạn và cả hai nương nhau và vì cố gắng cõng người bị nạn và cả hai đã chuyền hơi ấm cho nhau và cuối cùng họ đã đến nơi trọ bình an, con người dẫn đường đã chết dọc đường vì bị lạnh cóng.Có lần Sundar bị cướp đón đường nhưng ông không sợ hãi mà giảng Tin lành cho bọn cướp, họ chịu sự cảm động vì thấy Sundar không sợ bọn họ mà còn làm chứng về Chúa Giê-xu cho họ. Cuối cùng bọn cướp đã bỏ đi và không cướp bóc dân làng, đó là do tình yêu của Chúa đụng đến tấm lòng họ. Nhiều nơi biết Sundar nên các đạo sĩ Tây Tạng sợ họ bị mất ảnh hưởng của mình nên tìm cách trục xuất và hãm hại Sundar. Một hôm, Sundar giảng Tin lành ở một làng nọ thì bị các đạo sĩ Tây Tạng bắt và giao cho vị đạo sĩ trưởng. Ông ta ra lệnh bỏ Sundar xuống giếng và ở dưới đó có biết bao là đầu lâu. Họ thách Sundar xem Đức Chúa Trời của ông có giải cứu ông không? Sundar nằm dưới giếng sâu không biết đã mấy ngày. Ông cầu nguyện xin Chúa giải cứu con, vừa đói, vừa khát nhưng Sundar tin rằng Chúa có chương trình tốt đẹp cho mình. Một hôm, ông nghe như có ai trên miệng giếng và đang mở khóa, miếng sắt miệng giếng được nhắc lên và có sợi dây chuyền xuống giếng và bảo: “Sundar hãy nắm chặt lấy dây, ông thấy mình được nhấc bổng lên, không khí bên trên làm cho ông khỏe lại. Người đó cho ông ăn và bảo ông hãy đi đi. Thế là hôm sau, ông vào làng tiếp tục giảng Tin lành của Chúa. Vị đạo sĩ trưởng nghe Sundar đang giảng Tin lành thì tưởng có người phản mình, lấy cắp chìa khóa, nhưng chìa khóa vẫn còn nguyên ở đó. Ông kêu Sundar đến và hỏi. Sau đó, ông sợ hãi và nghĩ là vị thần linh của Sundar đã giải cứu ông ta và không khéo vị thần linh ấy giáng họa trên họ nên đuổi Sundar đi nơi khác.Một lần khác ông đang giảng Tin lành ở một làng nọ thì bị bắt và người ta đã bó ông vào da trâu tươi và may lại rồi đem phơi nắng ông. Da trâu phơi nó sẽ khô và co lại làm cho nạn nhân sẽ bị chết một cách đau đớn. Nhưng lạ thay! Họ thấy Sundar vẫn còn sống và một lần nữa lại có người đang đêm đến cắt dây và để ông đi. Vị đạo sĩ Tin lành này vẫn trung tín với Chúa, rao giảng Tin lành của Chúa và kinh nghiệm quyền năng của Chúa cho đời sống mình. Ông trở về Ấn Độ và vì những lần gặp thử thách bị lạnh buốt của cơn bão tuyết nên sức lực của ông kém đi. Nhưng Sundar thật sung sướng vì cha ông đã tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa và giúp ông tài chánh để đi thăm bạn bè, tiếp tục giảng Tin lành. Dầu sức yếu nhưng ông quyết định đi Tây Tạng một lần nữa và ông đã mấ tích luôn không ai biết Sundar đã sống hay chết và làm được những gì sau lần đi cuối cùng đó. Sundar đã biết chắc Đấng mình tin và phó thác cả cuộc đời mình cho Đấng đó vì biết rằng sự hoạn nạn tạm và nhẹ này không đáng so sánh với sự vinh hiển hầu đến, mão triều thiên vinh hiển Chúa dành cho Sundar nơi Thiên đàng. Chúa Giê-xu phán: “Ai hầu việc Ta thì Cha Ta ắt tôn quý người” (Giăng 12:26) và những kẻ dắt đem nhiều linh hồn về với Chúa sẽ sáng láng như các ngôi sao đời đời mãi mãi.Qua gương sống và hầu việc Chúa của Sundar nhiều người được cứu và được biến đổi đến nỗi kẻ cướp cũng được tình yêu Chúa bắt phục. Còn đời sống chúng ta thì sao? Chúng ta có là nguồn phước cho kẻ khác để tái diễn cuộc đời Chúa Giê-xu trên đất cho nhiều người biết Chúa và chạy đến với Ngài không? Cầu xin Chúa dạy dỗ và hướng dẫn chúng ta để chúng ta sống một cuộc đời tận trung, trung tín với Chúa như vị thánh Sundar không? Không có gì khó với Đức Chúa Trời dù một người cha sẵn sàng đầu độc con trai mình để trở lại tin Chúa. Xin Chúa cho chúng ta sửa soạn để gặp Đức Chúa Trời mình như Sundar. Amen.

Chương trình thờ phượng Ban Thanh Niên CN 4/1/2015

Chương trình thờ phượng Ban Thanh Niên CN 4/1/2015

in Thanh niên on 5 Tháng Hai, 2015

Chúa nhật 04.01.2015.
1. Đề tài: NƯỚC NGÀN NĂM BÌNH AN.
2. Kinh Thánh: Khải Huyền 19:11; 20:6; Xa-cha-ri 8:4-5:20-22.
3. Câu gốc: “Từ nay nước của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời” (Khải 11:15b).

5. Thể loại: Thuyết trình.
* CHỈ DẪN: Thuyết trình.
1. Giao đề tài thuyết trình cho một nhóm trước nhiều tuần lễ.
2. Nhóm sẽ họp lại để cùng nghiên cứu đề tài: “Vấn đề gia đình không con”.
3. Nhóm cử một nhóm viên đảm trách thuyết trình. Cả nhóm sẽ có trách nhiệm cung cấp thêm tài liệu. Người thuyết trình sẽ dựa vào tài liệu để soạn.
4. Soạn xong, người thuyết trình sẽ trình bày những ý chính trước nhóm để lấy ý chung. Tránh đưa ra những ý kiến riêng.
5. Sau giờ thuyết trình, các nhóm khác sẽ đặt câu hỏi, cả nhóm chịu trách nhiệm đề tài sẽ trả lời.
* TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Hòa bình là mong ước sâu xa của loài người xưa nay. Trải qua bao giai đoạn lịch sử, đã có nhiều chính khách lỗi lạc từng ấp ủ hoài bão thực hiện một thế giới bình đẳng cho nhân loại. Nhưng chiến tranh cứ mãi tiếp diễn không ngừng, và mỗi ngày càng thêm khốc liệt hơn! Vậy hoa bình đến từ đâu?
Trở về với Kinh Thánh, một nước Thiên hi niên hòa bình đã được dự ngôn gần hơn hai ngàn năm về trước. Như thế bao giờ nước hòa bình lý tưởng nầy sẽ xuất hiện? Do ai thiết lập? Sự trị vì được đặt trên tiêu chuẩn nào? Và thế giới sẽ ra sao trong thời đại hoàng kim ấy?
I. DẪN GIẢI.
A. DẪN CHỨNG VỀ NƯỚC THIÊN HI NIÊN.
Mặc dầu có một số người không tin có nước ngàn năm bình an, như Calvin cho rằng đó là hạn chế quyền tể trị đời đời của Đấng Christ. Tuy nhiên giáo lý Thiên hi niên là thực sự vì những chứng cớ sau đây:
1. Lời tiên tri trong Cựu Ước.
Ê-sai 2:2-4; 11:1-16, 60-65 đã mô tả cảnh trạng của nước hòa bình trong sự trị vì vinh hiển của Đấng Mê-si khi Ngài hiện đến lần thứ hai. Nhưng vì hiểu lầm lời tiên tri ấy, dân Do Thái đã đóng đinh Đấng Mê-si khi Ngài hiện đến lần thứ nhất trong sự chết nhục nhã trên thập tự giá!
2. Sự dạy dỗ của Tân Ước.
Trong Công Vụ 3:19-21 những chữ “kỳ thơ thái đến từ Chúa” hay “kỳ muôn vật đổi mới” ám chỉ đến lời tiên tri về nước ngàn năm của Đấng Christ. Trong Lu-ca 19:12-27, ẩn dụ về vị thái tử đi phương xa trở về tính sổ với đầy tớ mình, chỉ về Đấng Christ được Đức Chúa Trời lập làm Vua trị vì nước Thiên hi niên và đoán xét thế gian (Giăng 5:22). Khải Huyền 20:1-6 bày tỏ sự kiện sa-tan bị giam giữ một ngàn năm bình an sau khi An-ti-christ bị diệt. Trong khoảng thời gian ấy, Đấng Christ trị vì các nước thế gian với sự đồng trị của các thánh đồ Ngài.
3. Niềm tin của Hội Thánh đầu tiên.
Schaff, một sử gia Hội Thánh ghi rằng: Trước giáo hội nghị Nicée, trọng điểm của giáo lý lai thế được gọi là thuyết Thiên hi niên, chủ trương rằng Đấng Christ sẽ lấy đại quyền, đại vinh hiện ra cùng với các thánh đồ để trị vì trên đất trước ngày phán xét chung. Những giáo phụ danh tiếng như Papius, Justi Martyr, Irénée, Tertullien đều công nhận lời nầy.
Sử gia Gibbon trong quyển: “The decline and Fall of the Roman Empire” (Sự suy tàn và sụp đổ của đế quốc La-mã), có ghi rằng: “Giáo lý về thời đại Thiên hi niên vốn xa xưa, nhưng rất phổ thông. Bởi sự truyền lại liên tiếp qua các giáo phụ từ Justin Martyr và Irénée, là hai nhân vật đã từng gặp gỡ các giáo phụ – môn đồ của các sứ đồ…”
B. NHỮNG BIẾN CỐ DẪN ĐẾN THỜI ĐẠI THIÊN HI NIÊN.
1. Thời điểm bắt đầu của nước Thiên hi niên.
Với những dẫn chứng trên cho thấy giáo lý về Thiên hi niên là điều chắc chắn. Nhưng vấn đề là nước ấy sẽ được xuất hiện khi nào?
Có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm “Tiền Thiên hi niên” cho rằng Đấng Christ sẽ đến trước thời đại ngàn năm bình an. Quan điểm “Hậu Thiên hi niên” chủ trương Đấng Christ sẽ đến sau thời đại ngàn năm bình an vì nghĩ rằng thế giới nầy sẽ dần dần được cải tiến về kinh tế, chính trị, và cải thiện về đạo đức để đi vào thời hoàng kim Thiên hi niên trước khi Đấng Christ tái lâm đoán xét thế gian.
Phần lớn các nhà giải kinh Tin Lành đều tin thuyết Tiền Thiên hi niên vì thuyết nầy thích hợp với sự dạy dỗ của Kinh Thánh về những điều sẽ xảy ra trước ngày hiện đến của Đấng Christ:
a. Sự hiện đến của Antichrist trước ngày Chúa tái lâm (2Tê-sa-lô-ni 2:7-9): Antichrist sẽ xuất hiện trước thời đại Thiên hi niên, và Chúa hiện đến hủy diệt nó, nghĩa là Ngài đến trước thời đại Thiên hi niên (Khải 19:19-20; 20:1-5).
b. Sự băng hoại về đạo đức: Tình trạng sa sút trong Hội Thánh, sự bại hoại đạo đức trong xã hội loài người, sự bách hại người tin, sự bất ổn trong các quốc gia. Đó là tình trạng “xáo trộn”, được diễn tả trước ngày Chúa tái lâm chớ không phải tình trạng thái bình trước ngày Chúa đến như thuyết Hậu Thiên hi niên chủ trương (1Tim 4:1-3; Ma-thi-ơ 24:9, 29-31; Lu-ca 21:25-27; 2Tê-sa-lô-ni-ca 1:7; Khải 7:14).
c. Hai kỳ sống lại: Một kỳ trước thời Thiên hi niên, và một sau thời đại nầy. Tỏ rằng Chúa Giê-xu đến trước Thiên hi niên, và các thánh đồ được sống lại và đồng trị với Ngài trong nước ngàn năm bình an (Khải 20:2,5,12-13).
2. Chiến trận Ha-ma-ghê-đôn.
Ha-ma-ghê-đôn ám chỉ trận chiến lịch sử vĩ đại nhất, khủng khiếp nhất sẽ xảy ra trước ngày Đấng Christ tái lâm (Khải 16:12-16). Theo Vincent, Ha-ma-ghê-đôn có thể chỉ về đồi Meggiddo, và vùng phụ cận. Về địa lý, Meggiddo nằm trong đồng bằng Esdraelon, ở về phía Tây sông Giô-đanh, thuộc trung tâm xứ Palestine, cách Na-xa-rét khoảng 10 dặm về phía Nam; và cách Đia Trung Hải độ 15 dặm từ nội địa. Như thế, vùng chiến trận lớn ấy sẽ chạy dài từ đồng bằng Esdraelon về phía Bắc, xuyên qua Giê-ru-sa-lem, đến trũng Giô-sa-phát và giáp với Ê-đôm về phía Nam. Địa điểm nầy đã từng xảy ra nhiều cuộc chiến trong lịch sử của Y-sơ-ra-ên, cũng là nơi được chọn cho những cuộc đấu sức trên đất Palestine kể từ thời vua A-sy-ria.
Theo sự bày tỏ trong Khải Huyền 16:12-16, Ha-ma-ghê-đôn là cuộc chiến do sự dấy động của Sa-tan và An-ti-christ, qui tụ tất cả lực lượng của các cường quốc trên thế giới để chống nghịch Đức Chúa Trời và bách hại tuyển dân Ngài. Đây là cuộc chiến kết thúc ngày Đức Giê-hô-va, tức thời kỳ đại nạn. Đây cũng là điểm hẹn của các vua trên thế giới để chịu lấy sự đoán phạt khủng khiếp nhất của Chúa về tội bội nghịch Ngài, bắt bớ các thánh đồ Ngài.
3. Sự đắc thắng của Đấng Christ (Khải 19:11-20:3).
Với sự chống nghịch của An-ti-christ, Đấng Christ hiện đến với đại quyền, đại vinh để tiêu diệt chúng và dẹp sạch kẻ nghịch. Kết cuộc, An-ti-christ, tiên tri giả bị bỏ vào hồ lửa và Sa-tan bị nhốt 1.000 năm trong vực thẳm để mở đầu cho thời đại Thiên hi niên.
C. SỰ TRỊ VÌ CỦA ĐẤNG CHRIST TRONG NƯỚC THIÊN HI NIÊN.
1. Chánh thể trị vì của Đấng Christ.
Theo nhà thần học Gacbelein, ngôi trị vì của Đấng Christ là Giê-ru-sa-lem mới trên trời, nơi Hội Thánh sẽ được đồng trị với Ngài. Giê-ru-sa-lem xứ Do Thái sẽ trở thành thủ đô của nước ngàn năm bình an (Xa-cha-ri 14:8, 16-17).
Trong vương quốc Thiên hi niên, chánh thể “thần quyền” sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, theo Peters, trong chính thể thần quyền có cả yếu tố quân chủ lẫn cộng hòa. Quân chủ vì uy quyền tối cao đều ở trong tay vua, và tất cả đều tùy thuộc vào đó. Cộng hòa vì có các cơ cấu duy trì quyền cá nhân từ thấp đến cao nhất. Sự kết hợp hai yếu tố quân chủ và cộng hòa như thế sẽ là một chánh thể lý tưởng đem phước hạnh cho con người. Chánh thể thần quyền đã được Đức Chúa Trời chỉ định cho con người từ lúc ban đầu, nhưng con người đã bất phục Ngài (Sáng 3); và trong thời các quan xét, dân Y-sơ-ra-ên cũng đã thất bại với chánh thể nầy. Vì vậy trong nước ngàn năm bình an, Đức Chúa Trời phục hồi chánh thể nầy qua Đấng Christ. Ngàn năm dưới thể chế nầy cũng là một thử nghiệm của Đức Chúa Trời xem con người có khả năng chấp nhận một thể chế tương lai như thế trong Nước vĩnh hằng của Ngài không.
2. Đường lối trị vì.
Sự cai trị của Đấng Christ được đặt trên sự công bình, chánh trực, là hai yếu tố phản chiếu bản tánh công nghĩa, thánh khiết của Ngài, để trở thành nền tảng xây dựng vương quốc hoa bình (Ê-sai 9:6; 11:4-5). Trong thời trị vì của Đấng Christ “sự công bình và sự bình an đã hôn nhau” (Thi 85:10). Vì nếu không có công bình, cũng không có hòa bình, và hòa bình nếu không đặt nền trên sự công bình thì sẽ trở thành vô nghĩa. Sở dĩ thế giới hôm nay vắng bóng hòa bình, vì công lý bị quyền lực kẻ ác bách hại. Nhưng khi Đấng Christ đến, quyền lực kẻ ác bị diệt trừ, và “mặt trời công bình sẽ mọc lên”, tất nhiên hòa bình sẽ xuất hiện (Ma-la-chi 4:2). Vì lẽ cần nầy, sự trị vì của Đấng Christ mang hai sắc thái đặc thù như sau:
(1) Sự công nghĩa đầy dẫy (Ê-sai 11:2-3). Hòa bình sẽ trở thành vô hiệu khi sự công nghĩa không có đủ quyền năng thực thi đúng mức.
(2) Chính sách công nghĩa bất di bất dịch: Khải Huyền 19:15 bày tỏ Đấng Christ sẽ cai trị thế gian bằng cây gậy sắt. “Cây gậy sắt” tiêu biểu cho đường lối trị vì của Đấng Christ là đường lối cứng rắn (chánh trực và ngay thẳng), bất di bất dịch của Ngài về sự công nghĩa. Quyết không có sự nhượng bộ của công lý cho sự bất công. Người ác chắc sẽ bị tiêu diệt trước “cây gậy sắt” của Ngài.
Dưới sự trị vì của vua hòa bình, sẽ không còn có những nạn nhân của những bất công xã hội, của người có thế lực trên người yếu thế!
3. Những điều xảy ra trong sự thành lập nước ngàn năm.
Khi Đấng Christ đến lần hai, sẽ có những điều xảy ra như sau:
(1) Quốc gia Do Thái hoàn toàn được phục hồi (Ê-sai 35, 60).
(2) Dân Do Thái được sự cứu rỗi của Chúa, được sự tẩy sạch và được ban cho lòng mới với sự ngự trị của Đức Thánh Linh (Ê-xê 36:24-28; Gio-ên 2:32; Giê-rê-mi 31:33-34). Họ sẽ giữ vai trò quan trọng trong việc rao truyền sự công nghĩa của Đức Chúa Trời cho thế giới, và đem sự cứu rỗi cho các dân (Xa-cha-ri 8:23; Ê-sai 44:8, 21; 61:6, 21). Giê-ru-sa-lem trở thành thủ đô hòa bình của thế giới, cũng là trung tâm thờ phượng Đức Chúa Trời, nơi qui tụ các dân đến ra mắt Chúa và tìm kiếm Ngài (Ê-sai 2:3-4; Xa-cha-ri 8:2-3, 20-23). Hình ảnh nầy sẽ làm ứng nghiệm lời hứa của Chúa với Áp-ra-ham trong Sáng Thế Ký 12:1-3 “Các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước”.
(3) Muôn dân đầu phục Đấng Christ (Xa-cha-ri 14:9; Ê-sai 9:6). Sau khi mọi chấp chánh của thế gian bị diệt trừ, các dân sẽ thuận phục Đấng Christ là Vua của các vua, Chúa của các chúa.
4. Cảnh trạng của Nước Thiên hi niên.
Dưới sự trị vì của Đấng Christ, thế giới trong thời Thiên hi niên được mô tả trong những điểm sau:
(1) Thế giới hòa bình (Mi-chê 4:3; Ê-sai 2:4): Khí giới chiến tranh được biến thành công cụ hữu ích.
(2) Đạo Chúa được rao truyền và khắp đất đầy dẫy sự hiểu biết Đức Chúa Trời (Phi-líp 2:11; Ê-sai 45:23; 11:9; 52:7).
(3) Muôn vật được giải cứu khỏi sự rủa sả (Rô-ma 8:20-21).
(4) Về thuộc linh, con người được tương giao với Chúa, được sự hiện diện của Đức Thánh Linh và sự thông biết Ngài. Về tinh thần, được vui vẻ, tự do, không còn bị kẻ ác áp bức. Về vật chất, được an cư lạc nghiệp, và sống lâu, hạnh phúc (Ê-sai 2:4; 11:1-9; 35:5-6; 61:1-3; Xa-cha-ri 8:4-8).
Những điểm mô tả trên cho chúng ta thấy một bức tranh tuyệt vời về nước ngàn năm bình an mà chỉ có Đức Chúa Trời mới thực hiện được, và đây là điều mà nhân loại đang mong mỏi đợi chờ.
Tóm lược.
1. Nước ngàn năm bình an là giáo lý được Kinh Thánh bày tỏ và được thấy trong niềm tin của Cơ Đốc nhân.
2. Nước Thiên hi niên được bắt đầu sau khi Đấng Christ tái lâm, chiến thắng An-ti-christ và các vua thế gian, hình phạt An-ti-christ và tiên tri giả trong hồ lửa, giam giữ sa-tan trong vực sâu.
3. Trong nước Thiên hi niên, Hội Thánh được đồng trị với Đấng Christ.
4. Chánh thể trong nước ngàn năm bình an là chánh thể thần quyền và đường lối cai trị là công bình và chánh trực.
5. Trong thời Thiên hi niên, quốc gia Do Thái được phục hồi hoàn toàn, dân Do Thái được cứu và trở thành những người đem tin mừng cho thế giới. Giê-ru-sa-lem sẽ trở thành thủ đô của nước Thiên hi niên và trung tâm thờ phượng của thế giới.
6. Các dân trên đất đầu phục sự trị vì của Chúa. Trong thời đại Thiên hi niên, muôn vật được giải cứu, thế giới hòa bình, dân cư sống tự do, hạnh phúc, vui vẻ, sống lâu, và đầy dẫy sự hiểu biết Chúa.
7. Mục đích của nước thời Thiên hi niên là chuẩn bị cho Nước vinh hiển sau đó.
II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.
1. Xin đọc những câu Kinh Thánh sau đây và tìm hiểu:
a. Ê-sai 53: Vị tiên tri nói về sự hiện đến của Đấng Mê-si trong tư cách nào?
b. Ê-sai 2:2-4; 9:5-6; 11:1-6: Vị tiên tri nói về sự hiện đến lần hai trong tư cách nào? Với mục đích gì?
c. Mi-chê 4:1-4; Xa-cha-ri 14:8-11: Lời tiên tri nói gì về sự hiện đến lần thứ hai của Chúa Giê-xu?
d. Công Vụ 3:19-21: Lời tiên tri của sứ đồ Phi-e-rơ chỉ về điều gì?
e. Khải Huyền 19:11-20:1-4: Sự hiện thấy của Giăng về Đấng Christ tái lâm, và cai trị ngàn năm trên đất có liên quan thế nào với các lời tiên tri trong Cựu Ước?
2. Sự liên quan trên chứng tỏ cho chúng ta về lẽ thật nào?
3. Xin ghi nhận các sự kiện xảy ra qua những câu Kinh Thánh sau đây: (a) Khải Huyền 1:7; Ma-thi-ơ 24:30. (b) Khải Huyền 19:11-21. (c) Khải Huyền 30:1-3. (d) Khải Huyền 20:4-6. (e) Ma-thi-ơ 25:31-32.
4. Diễn tiến của các sự kiện xảy ra có ý nghĩa gì trong sự thiết lập nước ngàn năm bình an?
5. Xin đọc những câu Kinh Thánh Ê-sai 9:5-6; 11:1-6; Khải Huyền 11:15 và tìm hiểu:
a. Đấng cai trị nước ngàn năm là ai?
b. Chính thể và chính sách hay đường lối cai trị của Đấng Christ như thế nào?
c. Hai điều trên có liên hệ gì đến nền hòa bình trong thời đại Thiên hi niên? Xin giải thích.
6. Xin tìm hiểu:
a. Khải Huyền 11:15: Nước của Đấng Christ bao gồm trong phạm vi nào?
b. Khải Huyền 20:4-6: Ai sẽ được dự phần với Đấng Christ trong sự cai trị nước ngàn năm bình an?
c. Ê-sai 54:1-3; A-mốt 9:11-15; Ê-xê-chi-ên 36:24-28: Theo tiên tri, hai điều gì sẽ được ứng nghiệm cho dân Do Thái khi Đấng Christ trị vì (về quốc gia Y-sơ-ra-ên và về đời sống thuộc linh của họ).
d. Xa-cha-ri 8:3, 22-23; 14:16-17; Ê-sai 2:2-3: Trong Nước ngàn năm bình an, thành Giê-ru-sa-lem, và tuyển dân Do Thái giữ vai trò quan trọng như thế nào? Vai trò nầy có nghĩa gì đối với Lời Đức Chúa Trời hứa cùng Áp-ra-ham trong Sáng Thế Ký 12:1-3?
e. Ê-sai 2:4; 11:6-11; Xa-cha-ri 8:4-8, 20-22; Rô-ma 8:10-20: Xin mô tả cảnh trạng của Nước ngàn năm bình an, về muôn vật, về loài người trong đời sống tâm linh (tôn giáo), tinh thần và vật chất.
7. Xin tóm lược những đặc điểm của Nước ngàn năm bình an. Những đặc điểm nầy của Nước ngàn năm có liên quan thế nào với nước vĩnh viễn sau đó?

CẦU THAY & CẢM TẠ  Số 1 – Tháng 12/2014

CẦU THAY & CẢM TẠ Số 1 – Tháng 12/2014

in CẢM TẠ & CẦU THAY on 4 Tháng Hai, 2015

Kính thưa quý Đầy Tớ Chúa:

Ngay sau khi Hội Đồng Quản Nhiệm chấm dứt (25-27/11/2014), chúng tôi gồm có bà MS Trần Thị Trung, MSNC Giàng A Pảo, MSNC Giàng Quang Sở và MS Đoàn Anh Tuấn quyết định thành lập Nhóm Cầu Nguyện. Mỗi tuần chúng tôi kiêng ăn cầu nguyện một ngày – thứ Hai, từ sáng đến 5:00 giờ chiều. Chúng tôi kêu gọi quý Đầy Tớ Chúa cùng tham gia. Quý vị có thể chọn ngày thuận tiện cho mình hoặc kiêng ăn cầu nguyện từ sáng đến 12:00 giờ trưa.

Mục đích của chúng tôi:

Thành lập một mạng lưới cầu nguyện trong toàn Hội Thánh Truyền Giảng Phúc Âm.
Cầu nguyện cho sự phục hưng của tất cả các Hội Thánh trong HTTGPÂ và Việt Nam. Lịch sử Phấn Hưng cho thấy rằng tất cả những cuộc phục hưng đều bắt đầu bằng sự cầu nguyện.
Cầu nguyện cho quý Đầy Tớ Chúa có ơn, năng quyền và sự xức dầu của Đức Thánh Linh để hầu việc Chúa cách kết quả, đưa dẫn nhiều người trở về với Ngài, Hội Thánh được gây dựng và phát triển mạnh mẽ.
Cầu nguyện cho tất cả những nhu cầu của các con cái Chúa từ thuộc linh đến thuộc thể. Sự chữa lành về tâm linh bao giờ cũng quan trọng hơn thuộc thể.
Mỗi tháng chúng tôi sẽ tường trình với quý Đầy Tớ Chúa về những vấn đề cần cầu thay và nhất là những lời làm chứng, cảm tạ Chúa đã đáp lời như thế nào.
Để lời cầu nguyện của chúng ta được Chúa nhậm lời, chúng tôi xin ghi lại ít nhất 7 điểm sau mà Kinh Thánh dạy bảo:

1. Cầu Nguyện Với Một Đức Tin Mạnh Mẽ (Không Nghi Ngờ Quyền Năng Của Chúa).

“Nhưng phải lấy đức tin mà cầu xin, chớ nghi ngờ; vì kẻ hay nghi ngờ giống như sóng biển, bị gió động và đưa đi đây đi đó. Người như thế chớ nên tưởng mình lãnh được vật chi từ nơi Chúa” (Gia-cơ 1:6-7).

“Bởi vậy ta nói cùng các ngươi: Mọi điều các ngươi xin trong lúc cầu nguyện, hãy tin đã được, tất điều đó sẽ ban cho các ngươi” (Mác 11:24).

2. Cầu Nguyện Với Một Tấm Lòng Trong Sạch.
“Nếu lòng tôi có chú về tội ác, ắt Chúa chẳng nghe tôi” (Thi Thiên 66:18).

“Nầy, tay Đức Giê-hô-va chẳng trở nên ngắn mà không cứu được; tai Ngài cũng chẳng nặng nề mà không nghe được đâu. Nhưng ấy là sự gian ác các ngươi làm xa cách mình với Đức Chúa Trời; và tội lỗi các ngươi đã che khuất mặt Ngài khỏi các ngươi, đến nỗi Ngài không nghe các ngươi nữa” (Ê-sai 59:1-2). Vì vậy, trước khi cầu nguyện cho người có nan đề, chúng tôi hỏi họ hai vấn đề quan trọng: (1) Ông bà có tin Chúa chữa lành không? (2) Nếu có tội lỗi nào, ông bà hãy xưng tội, ăn năn với Chúa ngay trong giờ phút nầy. Sau đó, chúng tôi yêu cầu họ cầu nguyện trước, rồi mới đến chúng tôi.

3. Cầu Nguyện Theo Ý Chúa.
Không cầu xin theo ý riêng:“Anh em cầu xin mà không nhận lãnh được vì cầu xin trái lẽ, để dùng trong tư dục mình” (Gia-cơ 4:3). Nhưng phải cầu xin theo ý Chúa:“Nầy là điều chúng ta dạn dĩ ở trước mặt Chúa, nếu chúng ta theo ý muốn Ngài mà cầu xin (bất cứ) việc gì, thì Ngài nghe chúng ta”(I Giăng 5:14). “Ví bằng các ngươi cứ ở trong Ta, và những lời Ta ở trong các ngươi, hãy cầu xin mọi điều mình muốn, thì sẽ được điều đó” (Giăng 15:7).

4. Cầu Nguyện Nhân Danh Đức Chúa Giê-xu Christ.
“Trong ngày đó (sau khi Chúa thăng thiêng), các ngươi sẽ nhân danh Ta mà cầu xin” (Giăng 16:26).

“Vậy những kẻ tin sẽ được các dấu lạ nầy: Họ sẽ nhân danh Ta đuổi quỷ; dùng tiếng mới mà nói; bắt rắn trong tay; nếu uống giống chi độc, cũng chẳng hại gì; (họ sẽ nhân danh Ta) đặt tay trên kẻ đau, thì kẻ đau sẽ được lành” (Mác 16:17-18).

Sứ đồ Phi-e-rơ và Giăng, khi chữa lành người què tại Cửa Đẹp, đã áp dụng điều Chúa dạy:“Nhân danh Đức Chúa Giê-xu Christ ở Na-xa-rét, hãy đứng dậy và bước đi” (Công Vụ 3:6).

Danh Chúa Giê-xu là danh trên hết mọi danh, danh Ngài có một uy quyền rất lớn lao đến nỗi khi nghe đến danh Chúa ma quỷ, bệnh tật… đều phải chạy xa (Phi-líp 2:9-11).

5. Cầu Nguyện Kiêng Ăn.
Trong sách Mác 9:14-29, các môn đồ không đuổi quỷ được vì không những thiếu đức tin mà còn thiếu cả sự kiêng ăn cầu nguyện.“Đức Chúa Giê-xu bèn đáp rằng: Hỡi dòng dõi chẳng tin kia, ta sẽ ở cùng các ngươi cho đến chừng nào?” (Mác 9:19). “Ngài đáp rằng: Nếu không cầu nguyện và kiêng ăn, thì chẳng ai đuổi thứ quỉ ấy ra được” (Câu 29, xem thêm Ma-thi-ơ 17:21). Vì vậy, mỗi chúng ta cần phải kiêng ăn cầu nguyện.

6. Cầu Nguyện Kiên Trì, Nhẫn Nại, Không Bỏ Cuộc.
“Đoạn, Chúa phán thêm rằng: Các ngươi có nghe lời quan án không công bình đó đã nói chăng? Vậy, có lẽ nào Đức Chúa Trời chẳng xét lẽ công bình cho những người đã được chọn, là kẻ đêm ngày kêu xin Ngài, mà lại chậm chạp đến cứu họ sao! Ta nói cùng các ngươi, Ngài sẽ vội vàng xét lẽ công bình cho họ” (Lu-ca 18:6-8; xem thêm Lu-ca 11:1-13).

7. Cầu Nguyện Với Tinh Thần Ca Ngợi, Cảm Tạ Chúa.
“Đức Giê-hô-va đã ban cho, Đức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Đức Giê-hô-va” (Gióp 1:21).

“Lối nữa đêm, Phao-lô và Si-la đang cầu nguyện, hát ngợi khen Đức Chúa Trời; và những tù phạm đều nghe. Thình lình, có cơn động đất rất lớn, đến nỗi nền ngục rúng động; cùng một lúc, các cửa mở ra, xiềng tù phạm thảy đều tháo cả” (Công Vụ 16:25-26). Vì vậy khi cầu nguyện chữa bệnh hoặc đuổi quỷ, các Cơ Đốc nhân thường ca ngợi Chúa những bài Thánh Ca như Lớn Bấy Duy Ngài, Quyền Trong Huyết…Và họ đã thật sự chứng kiến, kinh nghiệm quyền năng lớn lao của Chúa trong sự ca ngợi, cảm tạ như Gióp, Phi-e-rơ, Giăng… đã làm năm xưa.

Nguyện xin Đức Chúa Trời lắng nghe, đáp lời và làm trổi hơn điều chúng ta ao ước và cầu xin.