Latest News From Our Blog

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN. Chúa nhật 31.5.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN. Chúa nhật 31.5.2015

in Thanh niên on 2 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 31.05.2015.

1. Đề tài: HÃY TƯỞNG NHỚ ĐẤNG TẠO HÓA.

2. Kinh Thánh: Truyền Đạo 12:1-7.

3. Câu gốc: “Trong buổi còn thơ ấu hãy tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa ngươi” (Truyền 12:1a).

4. Đố Kinh Thánh: Không đố Kinh Thánh.

5. Thể loại: Truyền giảng.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 01.02.2015.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

HÃY TƯỞNG NHỚ ĐẤNG TẠO HÓA.

Tục ngữ ta có câu “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào giếng”, câu ấy dạy ta đừng vong ân bội nghĩa. Song ngoài công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dục như núi như sông ra, thì còn có ơn cao sâu dài rộng hơn cả; đó là ơn của Đấng Tạo Hóa mà mỗi chúng ta cần phải tưởng nhớ.

I. ĐẤNG TẠO HÓA LÀ AI?

Kinh Thánh minh chứng Đấng Tạo Hóa là Đức Chúa Trời (Sáng 1:1; 5:1-2 và Giăng 1:3). Ngài là Đức Chúa Trời:

– Tự Hữu Hằng Hữu, trước mặt Ngài chỉ có hiện tại vì cả cõi đời đời bày ra ở trước mặt Ngài.

– Toàn Năng, Toàn Tri, Toàn Tại, Toàn Ái, Thánh Sạch và Công Bình. Ngài là Đấng vô đối, dựng nên muôn vật một cách huyền diệu và lớn lao. Muôn vật được Ngài bảo tồn, cai trị cho đến đời đời. Đấng ấy rất đáng cho chúng ta tưởng nhớ và tôn thờ là dường nào!

II. TƯỞNG NHỚ ĐẤNG TẠO HÓA LÚC NÀO?

Kinh Thánh cho biết tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa khi còn thơ ấu. Trong đời con người có rất nhiều việc nhưng việc trước nhất là tưởng nhớ đến Đấng Tạo Hóa. Đời người chia ra nhiều giai đoạn như: Thời thơ ấu, niên thiếu, trưởng thành, lão thành; thì ngay giai đoạn thứ nhất, phải nghĩ đến Đấng Tạo Hóa mình bằng cách dâng tuổi thanh xuân của mình lên cho Chúa. Nếu ai chưa tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa như vậy thì nên bắt đầu ngay từ bây giờ.

Tại sao phải bắt đầu từ thời thơ ấu? Kinh Thánh chép: “Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo; dầu khi nó trở về già, cũng không hề lìa khỏi đó” (Châm 22:6). Tấm lòng trẻ thơ mềm mại, trong sạch, chưa hoen ố tội trần như người lớn. Tuổi thơ còn có nhiều thì giờ hơn để hầu việc Chúa, còn sức lực đầy đủ hơn để phục vụ Ngài.

Hễ chúng ta kính mến ai thì muốn dâng tặng cho người ấy món quà quý nhất, tốt đẹp nhất. Vì vậy, ta cũng nên dâng cho Đức Chúa Trời một của lễ dường ấy để tỏ lòng kính mến Ngài như dân Do Thái xưa kia dâng cho Chúa con vật đầu lòng trong bầy chiên, bò, lừa, lạc đà… của mình. Các con chiên họ dâng làm của lễ cũng phải lựa con toàn vẹn, tốt nhất, được chứng nhận của thầy tế lễ.

Một lý do nữa là không phải ai cũng đến tuổi già mới chết mà tuổi nào cũng có thể chết được cả. “Lại hãy tưởng nhớ Đấng Tạo Hoá trước khi dây bạc đứt, và chén vàng bể, trước khi vò vỡ ra bên suối, và bánh xe gãy ra bên giếng, và bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ, và thần linh trở về nơi Đức Chúa Trời, là Đấng đã ban nó” (Truyền 12:6-7). Vì vậy, nếu như trong tuổi thơ ấu không tìm kiếm Đấng Tạo Hoá của mình thì khi qua đời sẽ mất cơ hội được vào trong nước vinh hiển của Ngài, mất cơ hội được sống đời đời trong cõi phước hạnh!

III. TƯỞNG NHỚ ĐẤNG TẠO HOÁ CÁCH NÀO?

Có rất nhiều cách tưởng nhớ không đẹp ý Chúa như trường hợp trong Mác 7:6-7 và 1Tim 4:1-3.

Chúa Giê-xu dạy: “Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy” (Giăng 4:23-24). Vậy, cách tưởng nhớ đẹp lòng Chúa là:

1. Tưởng nhớ bằng tâm thần.

Con người có 3 phần, phần tâm thần là phần cao trọng hơn cả. Bởi phần tâm thần giao thông với Đức Chúa Trời, thờ phượng Ngài, tôn vinh Ngài, nhận được từ nơi Ngài sự sống, sự vinh hiển. Hiện nay tâm thần người ta đã chết vì cớ tội lỗi, nên phải tin Chúa Giê-xu mới được tha tội hầu cho tâm thần được cứu mà thờ phượng Chúa. “Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình… Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng giàu lòng thương xót, vì cớ lòng yêu thương lớn Ngài đem mà yêu chúng ta, nên đang khi chúng ta chết vì tội mình, thì Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ – ấy là nhờ ân điển mà anh em được cứu” (Êph 2:1,4,5).

2. Tưởng nhớ bằng lẽ thật.

Lẽ thật là điều con người quan tâm như trường hợp quan tổng trấn Phi-lát đã hỏi Chúa Giê-xu khi nghe Ngài nói đến lẽ thật (Giăng 18:38). Lẽ thật là gì? Lẽ thật là chân lý. Không có gì qua được chân lý, mà chân lý là gì trong khi “lòng người ta là dối trá hơn mọi vật và rất là xấu xa”? (Giê-rê-mi 17:9).

Kinh Thánh cho biết, Chúa Giê-xu đã tự xưng Ngài là lẽ thật, tức Ngài là chân lý. “Vậy, Đức Chúa Giê-xu đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật và sự sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha” (Giăng 14:6).

Lời của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh là lẽ thật, là chân lý (Giăng 17:17).

Ta phải tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa bằng lẽ thật nghĩa là phải thờ phượng Đức Chúa Trời bằng cách sống theo gương Chúa Giê-xu, sống làm theo lẽ thật trong Kinh Thánh.

* Kết luận: Thưa quý vị! Quý vị đã tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa chưa? Nếu quý vị chưa tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa khi còn thơ ấu thì ngay giờ phút nầy quý vị có thể mở lòng mình ra tiếp nhận Ngài, bằng cách dâng cho Ngài trọn cuộc đời mình. Ngài sẽ làm Chủ cuộc đời quý vị, và hướng dẫn quý vị cách thờ phượng Ngài bằng tâm thần và lẽ thật. Đó là cách quý vị tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa mà Chúa đẹp lòng.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN. Chúa nhật 24.5.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN. Chúa nhật 24.5.2015

in Thanh niên on 2 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 24.05.2015.

1. Đề tài: LỄ NGŨ TUẦN.

2. Kinh Thánh: Công Vụ 2:1-13.

3. Câu gốc: “Khi đã cầu nguyện, thì nơi nhóm lại rúng động; ai nấy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, giảng đạo Đức Chúa Trời cách dạn dĩ” (Công 4:31).

4. Đố Kinh Thánh: Ô-sê 9-13.

5. Thể loại: Họp bạn – Đố Kinh Thánh.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 22.02.2015.

 

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN. Chúa nhật 17.5.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN. Chúa nhật 17.5.2015

in Thanh niên on 2 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 17.05.2015.

1. Đề tài:       LỜI KÊU GỌI TỈNH THỨC.

2. Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 24:36-42; 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:4-10.

3. Câu gốc: “Sự cuối cùng của muôn vật đã gần; vậy hãy khôn ngoan tỉnh thức mà cầu nguyện” (1Phi 4:7).

4. Đố Kinh Thánh: Ô-sê 4-8.

5. Thể loại: Học Kinh Thánh nhóm.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 11.01.2015.

Dựa theo Mat 24:36-42 và 1Tês 5:4-10 soạn một số câu hỏi cho giờ học Kinh Thánh.

(1.1) “Ngày và giờ đó” là ngày và giờ gì?

(1.2) Tại sao ngày và giờ đó “chỉ một mình Cha biết mà thôi”?

(1.3) Biết rõ điều nầy, bạn sẽ làm gì khi có người nói với bạn là họ biết tính ngày giờ Chúa trở lại?

(2.1) Chúa dùng hình ảnh nào ví sánh với ngày “Con Người đến”?

(2.2) Tại sao Chúa dùng hình ảnh nầy để ví sánh?

(2.3) Biết được điều nầy bạn có sự chuẩn bị gì cho ngày “Con Người đến”?

(3.1) Chúa ví chúng ta là con cái của sự sáng, vậy chúng ta phải làm gì?

(3.2) Tại sao chúng ta phải làm như vậy?

(3.3) Vì sao bạn biết mình đã sống đúng (hay chưa đúng) là “con cái của sự sáng và con của ban ngày”?

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Chúng ta đang ở trong thời kỳ mà Kinh Thánh cảnh cáo “sự cuối cùng của muôn vật đã gần”. Những biến chuyển của lịch sử thế giới cho chúng ta thấy càng rõ hơn về thời điểm sắp đến của ngày chung kết ấy. Đối với người chẳng tin, họ xem nhẹ lời cảnh cáo của Kinh Thánh. Tuy nhiên với chúng ta là người có niềm tin, vấn đề không phải là có sự tận cùng của thế giới hay Chúa có tái lâm không, nhưng điểm quan trọng là chúng ta có tỉnh thức trông đợi ngày Chúa trở lại không? Tại sao? Thế nào để chúng ta chuẩn bị đời sống sẵn sàng đón tiếp Chúa?

I. DẪN GIẢI.

A. LÝ DO CỦA SỰ TỈNH THỨC.

Động từ “tỉnh thức” trong nguyên văn Hy-lạp là gregoreò, một từ đặc biệt ám chỉ về sự đề cao cảnh giác. Nói đến sự tái lâm của Chúa Giê-xu, Kinh Thánh đã nhiều lần nhắc nhở, cảnh cáo con cái Chúa “Hãy tỉnh thức”. Tại sao?

1. Vì sự hiện đến của Ngài là chắc chắn.

Chính Chúa Giê-xu đã dự ngôn về sự tái lâm của Ngài là chắc thật: “Trời đất sẽ qua, nhưng lời Ta nói chẳng bao giờ qua đi” (Mat 24:35). Sứ đồ Phi-e-rơ cũng đã xác nhận: “Chúa không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu…” (2Phi 3:9).

2. Vì ngày Chúa tái lâm sắp đến.

Trong 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:5, Phao-lô nhắc nhở con cái Chúa rằng: “Anh em đều là con của sự sáng và con của ban ngày”. Cho nên là con cái bước đi trong sự sáng của Chúa, tức là người trong sự tỉnh thức, chúng ta không thể không cảm nhận được những “báo động” về ngày tái lâm của Chúa. Có những dấu hiệu chúng ta đã và đang thấy trước mắt như điều Kinh Thánh đã nói trước là sẽ xảy ra trước ngày Chúa đến như chiến tranh, đói kém, động đất, tội lỗi gia tăng, sự dấy lên của nhiều tiên tri giả, Christ giả (Mat 24:6-13).

Khi nói đến sự tái lâm, Chúa Giê-xu dùng thí dụ về cây vả (Mat 24:32). Cây vả là loài cây ăn trái quan trọng đứng vào hàng thứ ba trong xứ Palestine, sau cây nho và cây ô-li-ve. Theo chu kỳ, cây vả ra lá vào mùa hè. Vì vậy, sự đâm chồi của cây vả là một dấu hiệu cho biết mùa hè sắp tới. Trong Kinh Thánh, cây vả thường dùng chỉ bóng về dân Y-sơ-ra-ên, tuyển dân của Chúa. Vì chối bỏ Đấng Christ, nên họ bị Ngài đoán phạt phải mất xứ sở và tản lạc khắp nơi trên đất kể từ biến cố hủy diệt thành Giê-ru-sa-lem vào năm 70 S.C. Nhưng theo sự bày tỏ của lời tiên tri trong Cựu Ước, thì quốc gia Y-sơ-ra-ên sẽ hoàn toàn được hồi phục, dân Y-sơ-ra-ên sẽ được giải cứu khi Đấng Mê-si-a hiện đến lần thứ hai. Nhìn vào sự lập quốc cách lạ lùng của dân Do Thái sau đệ nhị thế chiến, những sự kiện về sự hồi hương của dân Do Thái, và những diễn biến đang xảy ra tại quốc gia nầy, trong ánh sáng của lời tiên tri, chúng ta thấy dấu hiệu “mùa hạ” sắp tới, nghĩa là ngày Chúa đã kề bên!

3. Vì giờ Chúa đến là điều kín nhiệm (Mat 24:36).

Có những dấu hiệu cho chúng ta biết ngày Chúa tái lâm sắp đến, sự cuối cùng của muôn vật đã gần. Tuy nhiên, ngày giờ Chúa đến là kín nhiệm “…chẳng có ai biết chi cả, thiên sứ trên trời hay là Con cũng vậy, song chỉ môt mình Cha biết mà thôi”. Cho nên ai cố xác định ngày giờ Chúa tái lâm là một nhầm lẫn lớn, như Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm đã có lần tuyên bố Chúa Giê-xu tái lâm vào năm 1844!

4. Vì sự tái lâm của Chúa Giê-xu là lẽ trông cậy nhất của người tin Chúa.

Vì thì giờ tái lâm của Chúa là điều kín nhiệm, và thình lình “như người trộm trong ban đêm”, và nhanh chóng “như chớp phát ra từ phương đông” (1Tês 5:2; Mat 24:27), nên nếu tỉnh thức, thì sự ấy không phải là quá bất ngờ cho chúng ta (1Tês 5:4-5). Chúng ta cần tỉnh thức để sẵn sàng được tiếp đi với Chúa mà không bị bỏ lại (Mat 24:40-42).

B. TỈNH THỨC VỚI SỰ CHUẨN BỊ SẴN SÀNG.

Sự tỉnh thức cần được bày tỏ trong hai phương diện: Tiêu cực với lòng kiên nhẫn chờ đợi, và tích cực với sự chuẩn bị đời sống sẵn sàng đón Chúa. Những điều quan trọng nào cần được chuẩn bị cho mỗi đời sống chúng ta?

1. Phải được tái sanh.

Khi Chúa Giê-xu dạy môn đồ lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng chờ đón sự tái lâm của Ngài, Ngài kể một ẩn dụ về mười người nữ đồng trinh (Mat 25:1-13). Trong ẩn dụ nầy, mười người nữ đồng trinh chỉ về Hội Thánh, chàng rể chỉ về Chúa Giê-xu là Tân Lang của Hội Thánh, và dầu chỉ về Đức Thánh Linh. Trong mười người nữ đồng trinh có năm người dại, là người không chuẩn bị dầu đón chàng rể, và năm người khôn là người chuẩn bị dầu đón chàng rể. Năm người dại và năm người khôn tiêu biểu cho hai hạng người trong Hội Thánh hữu hình. Nghĩa là trong Hội Thánh Chúa, có những người tín đồ thật, tức là những người được tái sanh bởi Đức Thánh Linh, có sự ngự trị của Ngài trong đời sống; nhưng cũng có những người mang danh tín đồ, nhưng thực sự đời sống không có Đức Thánh Linh, không có sự tái sanh bởi Ngài. Vì lẽ đó, chắc họ sẽ không được nhận vào tiệc cưới Chiên Con, vì cớ không thuộc về Ngài “… Song nếu ai không có Thánh Linh của Đấng Christ, thì người ấy chẳng thuộc về Ngài” (Rô-ma 8:9).

Như vậy trong sự chuẩn bị đón Chúa, chúng ta cần kiểm điểm lại đời sống mình thật có Đức Thánh Linh hay chỉ như đèn mà không có dầu? Chúng ta có biết chắc mình đã được tái sanh và trở nên con cái của Đức Chúa Trời không? Nếu chưa, hãy mở lòng tiếp nhận Chúa Giê-xu để được nhận lãnh sự ban cho của Đức Thánh Linh trước khi cửa ân điển đóng lại, và không còn có cơ hội nữa. Như năm người nữ dại kia đợi đến lúc chàng rể đến, rồi mới chạy mua dầu, thì đã quá trễ.

2. Phải giữ mình trong sạch khỏi mọi sự ô uế của thế gian.

Hội Thánh được gọi là “Tân nương” của Đấng Christ. “Cô dâu” lý tưởng nầy khi gặp “Tân Lang” phải là cô dâu thánh sạch, không vết, không tì, không chỗ trách được trước mặt Ngài (Êph 5:27). Điều nầy có nghĩa trong sự chuẩn bị đón Chúa, mỗi ngày chúng ta nhờ Đức Thánh Linh thánh hóa đời sống và giữ vẹn khỏi mọi ô uế của thế gian (Rô 12:2).

c. Phải trung tín hầu việc Chúa.

Trong ẩn dụ về ta lâng, người chủ chỉ về Đức Chúa Trời, các đầy tớ chỉ về tín đồ, tức chúng ta (Mat 25:14-30). Ta lâng là một đơn vị tiền tệ, trọng lượng. Một ta lâng có trị giá một ngàn mỹ kim. Chữ ta lâng được dùng trong ẩn dụ nầy có thể làm biểu tượng chỉ về tất cả những gì Đức Chúa Trời ban cho chúng ta để được sử dụng cho danh Ngài. Thật ra tất cả mọi điều chúng ta có đều đến từ Đức Chúa Trời. Như vậy các ta lâng chủ giao cho đầy tớ trong ẩn dụ có thể bao gồm tài năng, ân tứ, thì giờ, sự hiểu biết, kinh nghiệm, của cải v.v..

Tóm lược qua ẩn dụ nầy bày tỏ hai ý chính sau đây:

(1) Đức Chúa Trời giao cho mỗi chúng ta một số ta lâng khác nhau. Nhận được nhiều hay ít ta lâng không quan trọng. Điểm quan trọng là trung tín sử dụng ta lâng ấy cách có ích lợi theo ý muốn và mục đích của Chúa.

(2) Mỗi người có trách nhiệm với ta lâng mình nhận trong ngày Chúa trở lại. Sự ban thưởng sẽ dành cho người trung tín, tức là người vâng lời Chúa sử dụng ta lâng theo ý chỉ của Ngài ban cho. Trái lại người không trung tín sẽ bị đoán phạt.

Những sự chuẩn bị trên có ý nghĩa gì?

– Với đời sống: Cần được tái sanh bởi Đức Thánh Linh để chúng ta được nhận vào trong Nước Chúa. Với đời sống thánh sạch, chúng ta được gặp Chúa trong sự vinh hiển và vui mừng. Với đời sống trung tín hầu việc, chúng ta gặp Chúa trong sự ban thưởng.

C. LỜI CẢNH CÁO.

Trong lời khuyên tỉnh thức trước sự tái lâm của Chúa, Kinh Thánh cũng có lời cảnh cáo chúng ta:

1. Coi chừng sự nguội lạnh (Mat 24:12).

“Lại vì cớ tội ác sẽ thêm nhiều, thì lòng yêu mến của phần nhiều người sẽ nguội dần”.

Với sự cảnh cáo nầy, chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta giữ lòng kính mến Chúa lúc ban đầu, và đầy dẫy trong chúng ta tình yêu thương của Chúa để sốt sắng hầu việc Ngài cách trung thành (1Phi 4:8-9).

2. Coi chừng sự lôi cuốn, ru ngủ của vật chất (Lu 17:26-29,32; 21:34).

Loài người bị hủy diệt trong thời Nô-ê, sự sụp đổ của thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ, sự trở thành tượng muối của vợ Lót là những tấm gương cảnh cáo chúng ta về cuộc sống đam mê các thú vui, vật chất của trần gian!

Với sự cảnh cáo nầy, hãy nhờ Đức Thánh Linh giúp chúng ta bước theo sự dẫn dắt của Chúa trước hết, và thỏa lòng với đời sống “đủ ăn đủ mặc” (Gal 5:16; Mat 6:33; 1Tim 6:6-8).

3. Coi chừng sự quyến dụ của các tiên tri giả (Mat 24:11).

Hãy nhờ Đức Thánh Linh soi sáng chúng ta học biết lẽ thật Kinh Thánh, hầu giữ vững đức tin về sự cứu rỗi của chúng ta (Công 17:10-11).

Tóm lược với những điều cảnh cáo trên, chúng ta “…hãy dè giữ, mặc áo giáp bằng đức tin và lòng yêu thương, lấy sự trông cậy về sự cứu rỗi làm mão trụ” (1Tês 5:8).

Tóm lược.

1. Những lý do cần tỉnh thức đối với sự tái lâm của Chúa:

a. Vì Chúa chắc sẽ trở lại.

b. Vì ngày tái lâm của Chúa sắp gần.

c. Vì thì giờ Chúa đến là điều kín nhiệm.

d. Vì sự tái lâm của Chúa là lẽ trông cậy lớn của chúng ta.

2. Trong sự tỉnh thức, đời sống cần được chuẩn bị sẵn sàng với sự tái sanh, nên thánh, và sự trung tín hầu việc Chúa.

3. Trong sự tỉnh thức chúng ta cũng hãy coi chừng sự cám dỗ của tội lỗi, sự lôi cuốn của thế giới vật chất, và sự quyến dụ của tà thuyết giả dối.

Vậy chúng ta hãy nhờ Đức Thánh Linh chuẩn bị cho mình đời sống sẵn sàng đón tiếp Chúa bằng sự mặc lấy lòng yêu thương, đức tin, thánh sạch, và tấm lòng trung thành sốt sắng phục vụ Chúa. Với tinh thần tỉnh thức theo như lời khuyên dạy của Kinh Thánh: “Sự cuối cùng của muôn vật đã gần. Vậy hãy khôn ngoan tỉnh thức mà cầu nguyện” (1Phi 4:7), xin mỗi người trong chúng ta đặt câu hỏi nầy cho chính mình: Nếu Chúa đến hôm nay, thì tôi có sẵn sàng đón tiếp Chúa không?

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. a. Ma-thi-ơ 24:35; 2Cô-rinh-tô 3:9: Chúa Giê-xu có sự xác nhận thế nào đối với lời tiên tri về sự tái lâm của Ngài?

b. Trong Ma-thi-ơ 24:6-14:32, Chúa Giê-xu nói đến những dấu hiệu nào? Và những dấu hiệu nầy ám chỉ về ai? Và cho điều gì?

c. Ma-thi-ơ 24:36: Có thể xác định được thì giờ tái lâm của Chúa không? Tại sao?

d. 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:2; Ma-thi-ơ 24:27,40-42. Sự hiện đến của Chúa Giê-xu được Kinh Thánh diễn tả như thế nào? Và khi Chúa đến có phải tất cả người mang danh là “tín đồ” được tiếp đi với Chúa không?

2. Xin tóm tắt những điểm cần thiết phải tỉnh thức trông đợi Chúa?

3. Ma-thi-ơ 25:1-3: Xin tìm hiểu những biểu tượng sau đây chỉ điều gì?

– Mười người nữ đồng trinh, chàng rể, năm người dại và năm người khôn, dầu, đèn.

4. a. Tại sao năm người dại không được tiếp nhận vào tiệc cưới?

b. Tại sao họ không có dầu?

c. Ý nghĩa của ẩn dụ nầy là gì? Theo ý nghĩa nầy chúng ta cần chuẩn bị gì cho đời sống mình (Giăng 3:1-5; Rô 8:9).

5. Ê-phê-sô 5:25-27; Rô-ma 12:2; 13;11-14: Đời sống chúng ta cần phải được chuẩn bị thế nào khi gặp Chúa? Tại sao?

6. Xin đọc Ma-thi-ơ 25:14-30, và tìm hiểu những biểu tượng sau đây ám chỉ về ai và cho điều gì?

– Người chủ, đầy tớ, ta lâng.

7. Trong ẩn dụ về ta lâng xin tìm hiểu:

a. Trên tiêu chuẩn nào người chủ ban thưởng và quở phạt đầy tớ.

b. Ý nghĩa chính của ẩn dụ nầy là gì?

c. Theo ý nghĩa nầy, đời sống chúng ta cần được chuẩn bị thế nào? (1Phi 4:9-10).

8. Xin đọc những câu Kinh Thánh sau đây: Ma-thi-ơ 24:11-12; Lu-ca 17:26-32; 21:34-36, 1Phi-e-rơ 4:7-10 và ghi nhận:

a. Những điều nào chúng ta nên coi chừng, và không nên làm?

b. Những điều nào chúng ta nên làm?

9. 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:8; 1Phi-e-rơ 4:7: Làm sao chúng ta giữ vững trước những điều Kinh Thánh cảnh cáo? Xin cắt nghĩa tại sao đó là cách hữu hiệu nhất.

10. Xin tóm lược những điểm quan trọng về:

a. Lẽ cần của sự tỉnh thức.

b. Những điều cần chuẩn bị cho đời sống.

c. Những điều nên đề phòng và những điều nên làm trong sự tỉnh thức.

11. Đời sống bạn đang có Đức Thánh Linh ngự trị? Làm sao bạn biết?

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN Chúa nhật 10.5.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN Chúa nhật 10.5.2015

in Thanh niên on 2 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 10.05.2015.

1. Đề tài: LỄ MẪU THÂN.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 101.

3. Câu gốc: “Tôi sẽ ăn ở cách khôn ngoan trong đường trọn vẹn; ồ! Chúa chừng nào sẽ đến cùng tôi? Tôi sẽ lấy lòng trọn vẹn mà ăn ở trong nhà tôi” (Thi 101:2).

4. Đố Kinh Thánh: Đa-ni-ên 11 – Ô-sê 3.

5. Thể loại: Kịch 5’.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 22.03.2015.

* CÂU CHUYỆN THAM KHẢO.

PHƯỚC CHO NGƯỜI HIẾU KÍNH CHA MẸ.

Federick, vua nước Prussia xưa là một vị vua rất thương dân. Một hôm ông bấm chuông gọi người hầu, nhưng không thấy anh vào. Ông liền bước ra để tìm. Ông thấy anh đang úp mặt ngủ mê. Ông rón rén lại gần và thấy có một bức thơ ở túi anh lộ ra ngoài. Ông tọc mạch rút nhẹ ra xem. Đây là bức thư của mẹ anh gởi đến cám ơn anh lâu nay đã nhịn ăn mặc tiêu pha gởi một phần lương mình về nuôi bà.

Sau khi đọc xong, vua bước nhẹ về phòng lấy một túi bạc đầy, rón rén nhét vào túi anh với cả bức thư mẹ anh nữa. Xong, ông bước vào phòng nhấn chuông mạnh hơn. Anh hầu phòng tỉnh dậy sợ hãi chạy ra trình diện. Vua nói: Chà, anh ngủ ngon quá!

Anh hầu chẳng biết chữa lỗi ra sao, nên bối rối bỏ tay vào túi. Tay anh đụng vào bức thư và túi bạc. Anh móc túi bạc ra và tái mặt khóc oà, không nói được một lời. Vua hỏi: Sao, có điều gì vậy?

Anh tâu: Kính tâu hoàng thượng!

Rồi sấp mình dưới chân vua và tâu thêm: Tâu có người muốn hại con. Con chẳng hiểu biết gì về túi bạc nầy cả. Con vừa rờ phải trong túi con đây.

Vua đáp: Hỡi người bạn trẻ ơi! Thường thường Đức Chúa Trời cũng thi hành công việc lớn lao cho chúng ta trong khi chúng ta ngủ chứ… Anh hãy gởi số bạc đó cho mẹ anh và thay tôi chào thăm mẹ anh, và nói rằng tôi sẽ chăm nom cả mẹ anh và anh nữa.

Con cháu biết hiếu kính và tôn trọng cha mẹ thì Chúa không bỏ đâu. Chúa thường ban thưởng những người con, cháu biết tưởng nhớ, giúp đỡ ông bà, cha mẹ. Con cháu ngỗ nghịch không vâng lời cha mẹ, bất hiếu thì bị Chúa rủa sả (Ê-phê-sô 6:1-3).

PHẦN THƯỞNG CỦA NGƯỜI HIẾU KÍNH CHA MẸ.

Vua Gustave III của Thụy Điển xưa, ngày kia một mình cỡi ngựa ngang qua một làng quê gần kinh đô. Vua khát nước mà bầu nước đem theo đã hết, lại không có quân hầu đi theo nên không sao có nước uống. Bỗng vua thấy có một cô gái đang múc nước ở một giếng nước bên đường, vua bèn thúc ngựa chạy đến xin nước uống. Cô thiếu nữ nghe xin vội vàng đổ vò nước mời vua uống. Uống xong, vua nói: Cám ơn cô cho tôi uống nước. Nếu cô bằng lòng theo tôi về Stockhom, tôi sẽ cho cô một địa vị tốt đẹp hơn.

Cô gái đáp: Thưa ông, tôi không thể nhận lời đề nghị của ông được. Tôi không có ý leo lên địa vị cao hơn địa vị mà Chúa đã cho tôi. Vả lại, tôi không muốn đi đâu xa đây cả.

Vua ngạc nhiên hỏi: Sao vậy cô?

Cô gái thưa: Vì mẹ tôi nghèo và bệnh hoạn chẳng có ai giúp đỡ, yên ủi trong cơn đau đớn, buồn thảm. Tôi không thể rời bỏ mẹ tôi được. Không có gì có thể khiến tôi bỏ phận sự làm con đối với mẹ tôi được.

Vua hỏi: Hiện thời mẹ cô ở đâu?

Cô đáp: Thưa, ở trong cái chòi kia!

Cô vừa nói vừa chỉ vào cái lều lụp xụp, tồi tàn. Vua xin phép theo cô đến thăm. Khi vua bước vào, thấy một bà già tàn tật ngồi trên một cái giường rơm rất thương tâm, vua nói: Thưa bà, tôi rất buồn khi thấy bà trong cảnh đau yếu đáng thương thế nầy.

Bà cụ nói: Thưa ông, tôi thật đáng thương, nhưng tôi vẫn quan tâm, thương xót đứa con gái đã làm việc mệt nhọc để nuôi tôi và giúp tôi không thiếu thứ gì. Nó an ủi tôi nhiều lắm. Cầu xin Chúa nhớ đến điều lành mà con tôi đã làm cho tôi.

Nói xong, bà lấy tay lau nước mắt. Vua Gustave vô cùng xúc động. Chưa khi nào vua cảm động bằng lần nầy khi nghe lời nói của bà và lòng hiếu thảo của người con gái. Vua liền rút ra một túi bạc đặt vào tay thiếu nữ và nói: Hãy tiếp tục săn sóc và chăm nom mẹ cô. Tôi sẽ sớm giúp cô hiệu quả hơn để cô có thể săn sóc mẹ cô tốt hơn. Tôi xin từ giã cô. Cô hãy tin tưởng vào lời hứa của vua cô nhé!

Thế rồi sau khi về hoàng cung ở Stockhom, vua liền cấp cho mẹ cô gái một trợ cấp trọn đời, và khi mẹ cô qua đời, cô vẫn tiếp tục được thừa hưởng nữa.

MẸ ƠI! CON CHỈ CẦN MẸ.

Một cô bé nọ bị tàn tật lâu năm và phải ở mãi trong nhà. Thế nhưng mẹ cô bé lại là một người đàn bà ham vui. Bà không thích ở nhà mãi với con mình nên thuê một người vú em về chăm sóc cô bé. Bà đi du lịch khắp nơi và thỉnh thoảng gởi quà về cho con mình. Đôi khi bà gởi sách vở hoặc hình ảnh và cũng có khi gởi đồ nữ trang nữa.

Vào ngày sinh nhật của cô bé, bà gởi về tặng cho con một lọ cắm hoa của Ý rất đẹp. Khi người vú em mang tới, cô bé nhìn chiếc lọ rồi bảo: Cất đi, cất đi! Đừng gởi quà về cho con nữa! Con không cần sách vở, không cần hình ảnh hoặc lọ hoa đâu. Mẹ ơi, con chỉ cần mẹ thôi!

Rồi cô òa lên khóc nức nở.

Biết bao người tin Chúa nhưng cứ đòi giàu sang, may mắn, đòi ơn phước nầy nọ, cứ đòi mãi. Cho đến khi nào chúng ta cảm biết rằng “Tôi chỉ cần một mình Chúa thôi”, lúc đó đức tin chúng ta mới trưởng thành và ơn phước của Chúa tự nhiên sẽ theo chúng ta, như Đa-vít đã nói “Phước hạnh và sự thương xót sẽ theo tôi” (Thi 23:6).

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN CHÚA NHẬT 03.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN CHÚA NHẬT 03.5.2015.

in Thanh niên on 2 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 03.05.2015.

1. Đề tài:       NƯỚC VINH HIỂN ĐỜI ĐỜI.

2. Kinh Thánh: 2Phi-e-rơ 3:9-14; Khải Huyền 21:1-8.

3. Câu gốc: “Vả, theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở” (2Phi 3:13).

4. Đố Kinh Thánh: Đa-ni-ên 6-10.

5. Thể loại: Phỏng vấn.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 15.02.2015.

* GỢI Ý PHỎNG VẤN.

(Sau khi người hướng dẫn giới thiệu thể loại chương trình thờ phượng, phóng viên từ dưới phòng nhóm đi lên và Phi-e-rơ từ ngoài bước vào).

– Phóng viên: Dạ xin kính chào cụ Phi-e-rơ!

– Phi-e-rơ: Chào các cháu!

– PV: Chúng cháu rất vui vì được cụ đến thăm hôm nay. Thay cho các bạn thanh niên trong Hội Thánh, cháu xin có lời chào mừng và hoan nghênh cụ. Nhân buổi gặp gỡ nầy cụ có thể giúp chúng cháu tìm hiểu về Nước vinh hiển đời đời xảy ra trong tương lai không thưa cụ?

– Phi-e-rơ: Được, các cháu cứ hỏi, ta sẽ giúp các cháu trong khả năng của ta.

– PV: Xin cụ vui lòng cho chúng cháu biết vì sao Chúa chưa trở lại?

– Phi-e-rơ: Theo 2Phi-e-rơ 3:9 cho biết lý do Chúa chưa trở lại là vì cớ chờ đợi người có tội ăn năn, chớ chẳng phải Ngài không trở lại.

– PV: Thưa cụ, có hình ảnh nào để minh chứng chắc chắn Chúa sẽ trở lại để chúng cháu giúp đỡ những người còn nghi ngờ hoặc hờ hững với sự tái lâm?

– Phi-e-rơ: Các cháu có thể dùng nhiều lời tiên tri của Chúa Giê-xu, các tiên tri, và các sứ đồ được chép trong Kinh Thánh để dẫn chứng trong khi nói chuyện với những người vô tín. Các cháu cũng có thể dùng hình ảnh cơn nước lụt trong thời Nô-ê để minh chứng Đức Chúa Trời đã hủy diệt thế giới loài người gian ác bằng cơn nước lụt.

– PV: Cám ơn cụ về sự giúp đỡ nầy. Thưa cụ, trong ngày cuối cùng Đức Chúa Trời sẽ hủy diệt thế giới tội lỗi nầy như thế nào?

– Phi-e-rơ: Theo Lời Chúa, trời đất vẫn được giữ nguyên để dành cho lửa trong ngày phán xét sau cùng. Sự phán quyết của Kinh Thánh là lời cảnh cáo người vô tín và nhắc nhở những ai còn nghi ngờ về sự tái lâm của Đấng Christ.

– PV: Cụ có thể mô tả rõ ràng về ngày tận cùng của muôn vật không thưa cụ?

– Phi-e-rơ: Lời Chúa chép: “Các thể chất bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả… các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán” (2Phi 3:10,12).

– PV: Thưa cụ, khi nào Chúa dựng nên trời mới, đất mới và dựng nên như thế nào?

– Phi-e-rơ: Phía sau của sự tiêu hủy thế giới cũ đầy tội lỗi, một khung cảnh huy hoàng tinh khiết của trời mới, đất mới hiện ra. Sự dựng nên mới nầy đã được tiên tri Ê-sai dự ngôn và trong sự hiện thấy của sứ đồ Giăng (Ê-sai 66:22; Khải 21:1).

– PV: Thưa cụ, tại sao Đức Chúa Trời tiêu hủy công việc sáng tạo, là công việc mà trước kia Ngài phán thật rất “tốt lành” và dựng nên trời mới, đất mới?

– Phi-e-rơ: Mọi công việc Ngài làm đều rất toàn hảo. Nhưng tiếc thay vì sự xâm nhập của tội lỗi, vì sự bất tuân của loài người nên con người không những chịu sự đoán phạt của Đức Chúa Trời mà còn gây ảnh hưởng tai hại cho mặt đất. Chính vì vậy, Đức Chúa Trời đốt cháy trời đất trong ngày phán xét cuối cùng để thanh lọc người ác, tẩy sạch vật sáng tạo vì đã bị uế nhiễm bởi tội lỗi.

– PV: Xin cụ vui lòng cho chúng cháu biết thêm về Nước vinh hiển.

-Phi-e-rơ: Nước vinh hiển là Nước toàn thiện của Ngài trên đất. Là nơi “sự công bình ăn ở”, nơi không có bóng của tội lỗi, nơi dành cho người được chuộc bởi ân điển Ngài (2Phi 3:13).

– PV: Thưa cụ, vậy là cuộc sống của con người nơi Nước vinh hiển khác hẳn cuộc sống nơi thế giới cũ tội lỗi phải không cụ?

– Phi-e-rơ: Các cháu nói rất đúng. Sự khác biệt nầy có thể thấy rõ trong những điểm sau đây:

– Trong thế giới cũ con người bị bịnh tật, sự chết, nước mắt, buồn rầu, đau đớn, tội lỗi, và cách xa Đức Chúa Trời.

– Nhưng trong Nước vinh hiển con người được sự sống đời đời, vui mừng, thánh khiết, phước hạnh trong sự hiện diện của Đức Chúa Trơ-i.

– PV: Cám ơn cụ đã giúp chúng cháu hiểu rõ hơn về Nước vinh hiển trong tương lai. Biết rõ điều nầy chúng cháu hứa sẽ giúp người khác hiểu biết về Nước vinh hiển và có sự ước ao vào sống trong Nước vinh hiển.

NHD: Thưa các bạn! Chúng ta vừa nghe cụ Phi-e-rơ giãi bày về Nước vinh hiển trong tương lai. Nguyện Chúa Thánh Linh ban năng lực để các bạn làm trọn những điều mình hứa nguyện với Chúa qua bài học nầy. Mời các bạn đứng lên và mời cụ Phi-e-rơ cầu nguyện cho chúng cháu.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Thế giới chúng ta đang sống là thế giới đầy dẫy nan đề vượt quá tầm tay của con người. Mặc dầu sự tiến bộ của khoa học hiện đại có thể giải quyết được một số vấn đề nhất thời của nhân loại nhưng con người không có cách nào để ngăn chặn sức lan tràn của tội lỗi đang bành trướng mỗi ngày một thêm. Sự băng hoại đạo đức bên trong lòng người đã đến mức độ trầm trọng. Đó là nguyên nhân của bạođộng, xáo trộn không ngừng mà chúng ta thấy khắp nơi trong xã hội loài người. Như thế tình trạng nầy cứ tiếp diễn mãi theo sự xoay vần của trái đất và bất biến với thời gian không? Thế giới loài người sẽ đi về đâu?

Kinh Thánh đã nói đến sự bắt đầu của thế giới, và cũng nói đến ngày cuối cùng của muôn vật. Điều nầy sẽ xảy ra như thế nào? Bên kia sự tận cùng là gì? Và có mục đích gì trong chương trình sáng tạo và cứu rỗi của Đức Chúa Trời đối với loài người trên đất?

I. DẪN GIẢI.

A. SỰ CUỐI CÙNG CỦA MUÔN VẬT.

1. Nền tảng Kinh Thánh về ngày tận thế.

Ngày tận thế là điều chắc chắn theo như lời tiên tri trong Kinh Thánh.

– Ma-thi-ơ 24:3-14: Chính Chúa Giê-xu đã bày tỏ cho môn đồ biết những biến cố sẽ xảy ra dẫn đến ngày tận thế.

– 1Phi-e-rơ 4:7: Sứ đồ Phi-e-rơ cũng đã cảnh tỉnh con cái Chúa về sự cuối cùng của muôn vật hầu gần.

– 2Phi-e-rơ 3:3-9: Chúa không chậm trễ về sự hiện đến của Ngài. Lý do Ngài chưa đến là vì cớ chờ đợi người có tội ăn năn, chớ không có nghĩa Ngài sẽ không trở lại để thi hành sự đoán phạt thế gian. Trong thời Nô-ê, thế giới loài người đã có lần bị hủy diệt bằng cơn nước lụt. Tuy nhiên, trời đất theo lời Chúa vẫn được giữ nguyên để dành cho lửa trong ngày phán xét sau cùng của nhân loại. Sự phán quyết của Kinh Thánh là lời cảnh cáo người vô tín khinh lờn về ngày chung kết của thế gian, và nhắc nhở những ai còn nghi ngờ về sự tái lâm của Đấng Christ.

2. Thời điểm và diễn tiến về sự tận cùng của muôn vật.

Theo các diễn tiến nói đến trong Khải Huyền 20:7,11, thì biến cố của ngày tận thế sẽ xảy ra sau thời đại Thiên hi niên, và trước ngày phán xét cuối cùng của thế giới. “Bấy giờ tôi thấy một tòa lớn và trắng cùng Đấng đương ngồi ở trên; trước mặt Ngài trời đất đều trốn hết” (c.11).

Sự tận cùng của muôn vật được mô tả trong biến động với tiếng vang rền của các từng trời, sự đốt cháy của lửa và hết thảy đều bị thiêu hủy: “Các thể chất bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả… các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán” (2Phi 3:10,12).

B. SỰ DỰNG NÊN TRỜI MỚI ĐẤT MỚI.

Phía sau của sự tiêu hủy thế giới cũ đầy tội lỗi, một khung cảnh huy hoàng tinh khiết của trời mới đất mới hiện ra. Sự dựng nên mới nầy đã được tiên tri Ê-sai dự ngôn và trong sự hiện thấy của sứ đồ Giăng (Ê-sai 66:22; Khải 21:1).

Trong Sáng Thế Ký 1:1-3; Giăng 1:3, bày tỏ sự dựng nên muôn vật là công việc của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Và trong sự làm mới muôn vật cũng là công việc của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Trong Khải Huyền 21:6, Đức Chúa Trời được xưng bằng danh hiệu “An-pha và Ô-mê-ga”, là danh hiệu cũng được dùng cho Đức Chúa Con. Điều nầy cho thấy sự bình quyền và đồng công của Đức Chúa Trời Ba Ngôi.

Nói đến sự dựng nên mới, có thể một câu hỏi được nêu lên: Tại sao Đức Chúa Trời tiêu hủy công việc sáng tạo trước kia, là công việc mà Ngài phán thật rất “tốt lành” và dựng nên trời đất mới? Chúng ta có thể tìm thấy trong những lý do sau đây:

Đức Chúa Trời là Đấng Toàn thiện, Toàn mỹ. Mọi công việc Ngài làm đều toàn hảo. Nhưng tiếc thay vì sự xâm nhập của tội lỗi. Ở trên trời với sự dấy loạn của Luxiphe đã kéo theo một số thiên sứ, kết hợp thành nước của sa-tan chống nghịch với Đức Chúa Trời (Êph 6:12). Ở dưới đất, sa-tan cám dỗ loài người bất phục Đức Chúa Trời, sự phạm tội của loài người chẳng những chuốc lấy sự đoán phạt của Đức Chúa Trời, lại còn gây ảnh hưởng tai hại cho mặt đất (Sáng 3:17-19). Cho nên với sự đốt cháy trời đất trong ngày phán xét cuối cùng, Đức Chúa Trời có mục đích thanh lọc người ác, tẩy sạch vật sáng tạo vì đã bị uế nhiễm bởi tội lỗi và dựng nên mới là để bắt đầu cho Nước vĩnh viễn, toàn thiện của Ngài trên đất, nơi “sự công bình ăn ở”, nơi không có bóng của tội lỗi, dành cho người được chuộc bởi ân điển Ngài (2Phi 3:13).

C. THÀNH GIÊ-RU-SA-LEM MỚI.

Trong cảnh trời mới, đất mới, thành Giê-ru-sa-lem mới cũng được xuất hiện. Tính từ “mới” diễn tả trọn vẹn sự toàn hảo, trong sạch của nước vinh hiển đời đời. Danh hiệu Giê-ru-sa-lem mới còn được gọi là “Thành của Đức Chúa Trời”, “thành thánh”, “vợ mới cưới là vợ Chiên Con” (Khải 3:12; 21:1,9). Những danh hiệu nầy có thể bao gồm hai ý như sau: (1) Giê-ru-sa-lem mới nói về thủ đô của nước Đức Chúa Trời, với sự ngự trị của Ngài ở giữa dân sự Ngài (Khải 21:3). (2) Giê-ru-sa-lem mới ám chỉ người, một tập thể của những người được chuộc, tức là Hội Thánh của Đấng Christ. Trong ý nghĩa nầy, Giê-ru-sa-lem mới cũng được gọi là “Giê-ru-sa-lem ở trên cao” (Ga-la-ti 4:26).

Theo Khải Huyền 21:9-22:5, Giê-ru-sa-lem mới được diễn tả như sau: Là một thành hình vuông lập phương, có cạnh dài khoảng 1.500 dặm, chiếm diện tích 2.250.000 dặm vuông. Thành có một bức tường cao lớn, với 12 cửa, mỗi cửa làm bằng hột châu nguyên khối. Các cửa được sắp theo bốn hướng; ba cửa phía Đông, ba cửa phía Tây, ba cửa phía Nam và ba cửa phía Bắc. Mỗi cửa đề tên một chi phái Y-sơ-ra-ên. Tường thành được đặt trên 12 nền, trên đó có đề tên 12 sứ đồ. Mỗi nền được trang điểm bằng một thứ ngọc quí như bích ngọc, đá lam bửu, lục mã não, lục cẩm, hồng mã não, hoàng ngọc, ngọc hoàng bích, ngọc thủy thương, ngọc hồng bích, ngọc phỉ túy, hồng bửu, tử bửu. Đường phố lót bằng vàng ròng. Ở giữa thành và trên hai bờ sông có cây sự sống trổ mỗi tháng một mùa. Thành không cần mặt trời vì Chiên Con là sự sáng của thành.

Thành Giê-ru-sa-lem mới theo sự diễn tả trên cho chúng ta thấy có những đặc điểm và ý nghĩa sau đây:

(1) Đây là một thành thực sự.

(2) Đây là thành thánh từ trời, ở nơi Đức Chúa Trời hiện xuống, là thành mà các nhà giải kinh cho là nơi Chúa Giê-xu phán hứa với môn đồ trước khi Ngài về trời (Giăng 14:3).

(3) Đây là thành có sự ngự trị của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Đức Cha là Đền thờ của thành, Đức Con là Sự sáng của thành và Đức Thánh Linh là Sự sống của thành.

(4) Thành của sự cứu rỗi và sự cứu rỗi đến từ tuyển dân Y-sơ-ra-ên. Tên 12 chi phái ghi mỗi cửa tiêu biểu cho tuyển dân Y-sơ-ra-ên. Hạt châu làm cửa chỉ về Chúa Giê-xu, Đấng được sanh ra trong dòng dõi Đa-vít, là “Cửa” dẫn vào sự cứu rỗi (Giăng 4:22; 10:9).

(5) Một thành bao la rộng lớn như được mô tả trong kích thước (Khải 21:16).

(6) Một thành hoàn hảo. Kiểu hình vuông lập phương, Kinh Thánh thường dùng làm tiêu biểu cho sự hoàn hảo trọn vẹn (Xuất 27:1; 30:2; 1Các 6:20).

(7) Một thành được xây trên nền xinh đẹp vô cùng (Khải 21:18-19). Nền chỉ về các sứ đồ trong sự xây dựng Hội Thánh trên lẽ thật của Tin Lành (Êph 2:20).

(8) Một thành của vua vinh hiển, rực rỡ, vinh quang như được diễn tả trong chất liệu kiến trúc bằng vàng ròng (Khải 21:18).

(9) Cây sự sống của vườn Ê-đen mà loài người đã đánh mất được tìm lại trong thành Giê-ru-sa-lem mới.

(10) Dân sự của thành Giê-ru-sa-lem mới là người có tên trong sách sự sống, tức là người được cứu chuộc bởi huyết của Đấng Christ.

Qua những đặc điểm trên cho thấy người trong trời mới đất mới và Giê-ru-sa-lem mới khác hẳn với cảnh trạng của người trong thế giới cũ. Sự khác biệt nầy có thể thấy rõ trong những điểm sau đây:

– Trong thế giới cũ: Bệnh tật, sự chết, nước mắt, buồn rầu, đau đớn, tội lỗi, và cách xa Đức Chúa Trời.

– Trong thành Giê-ru-sa-lem mới: Sự sống đời đời, vui mừng, thánh khiết, phước hạnh, không có ban đêm, và ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời mãi mãi.

Khi cảnh trời mới đất mới xuất hiện, chúng ta nghe có tiếng phán của Đức Chúa Trời “Xong rồi” (Khải 21:6). Lời phán nầy có thể xem như một lời tuyên bố về sự hoàn thành chương trình vĩ đại của Đức Chúa Trời trong công cuộc sáng tạo và cứu chuộc loài người. Và sự lập nước vĩnh viễn cho người được chuộc là cứu cánh cuối cùng của chương trình cứu rỗi của Ngài.

Một tuyệt điểm của tình yêu thương Ngài được chiếu sáng trong quang cảnh rực rỡ của thành Giê-ru-sa-lem mới, với những người được chuộc bởi ân điển Ngài qua sự xả thân của Đấng Christ.

Một câu hỏi có thể nêu lên là: Khi nước Thiên hi niên đi vào nước vĩnh viễn, nghĩa là từ vương quốc của Đấng Christ đến vương quốc của Đức Chúa Trời theo điều nói đến trong 1Cô-rinh-tô 15:24-28, thì quyền trị vì của Đấng Christ có chấm dứt không hay vẫn tiếp tục?

Theo sự bình giải của Me Alaim, vấn đề trên có thể hiểu như sau:

(1) Khi kẻ thù sau cùng của Đức Chúa Trời là Sa-tan đặt dưới chân của Đấng Christ, Vua Trung Bảo, bấy giờ mục đích của nước Thiên hi niên hay vương quốc trung bảo sẽ được trọn.

(2) Lúc đó Đấng Christ sẽ trao vương quốc trung bảo cho Đức Chúa Trời để trở thành vương quốc vĩnh viễn. Không có sự phân chia nào giữa hai vương quốc nầy (1Côr 15:24-26).

(3) Đây không có nghĩa chấm dứt quyền tể trị của Đấng Christ. Ngài chỉ dừng chức vụ trung bảo, nhưng sẽ tiếp tục trị vì với Chúa Cha trong cõi đời đời. Vinh dự của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh được thấy rõ trong vương quốc thần quyền vĩnh viễn, một sự hiệp một trọn vẹn trong sự tể trị muôn vật (Khải 21:10; 22:1-5; Giăng 17:23).

Tóm lược.

1. Trong ngày cuối cùng của thế giới, trời đất sẽ bị thiêu hủy bằng lửa. Trời mới đất mới sẽ được dựng nên để làm nơi ở vĩnh viễn cho người công bình.

2. Giê-ru-sa-lem mới là thủ đô của Nước vĩnh viễn đời đời. Đây là thành thánh, từ trời giáng xuống với sự ngự trị của Ba Ngôi Đức Chúa Trời, đầy dẫy vinh hiển, rực rỡ oai nghiêm.

3. Trong thành Giê-ru-sa-lem mới không còn có sự chết, nước mắt và đau khổ.

4. Chỉ có người được ghi tên trong sách sự sống của Chiên Con mới được nhận làm công dân của Nước vĩnh viễn.

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. a. Ma-thi-ơ 24:3-14: Chúa Giê-xu cho môn đồ biết trước điều gì sẽ xảy đến cho thế giới?

b. 1Phi-e-rơ 4:7: Sứ đồ Phi-e-rơ nhắc con cái Chúa điều gì?

c. 2Phi-e-rơ 3:9-12; Khải Huyền 20:7,11: Sự cuối cùng của muôn vật sẽ được xảy ra khi nào? Tại sao chúng ta biết điều nầy là chắc chắn?

2. Xin tóm lược những điểm quan trọng làm dẫn chứng cho người không tin có sự tận thế hay còn nghi ngờ về lời hứa của Chúa (2Phi 3:3-7).

3. a. Ê-sai 66:22; Khải Huyền 21:1: Sau sự tiêu hủy muôn vật sẽ có điều gì?

b. Ê-sai 65:17; Khải Huyền 21:6 so sánh với Sáng Thế Ký 1:1; Giăng 1:3: Trời mới đất mới sẽ do ai dựng nên?

4. Sáng 3:17-19,22-24; 6:5-6; 2Phi-e-rơ 3:12-13: Tại sao thế giới bị hủy diệt và sự dựng nên trời mới và đất mới nhằm mục đích gì?

5. a. Khải Huyền 21:3; 3:12; 21:9: Thành Giê-ru-sa-lem mới còn được gọi bằng những danh hiệu nào khác và có nghĩa gì?

b. Khải Huyền 22:3,10,22-23: Trong thành Giê-ru-sa-lem mới có sự hiện diện của ai?

c. Khải Huyền 21:9-22:5. Cho biết về sự xây cất, kích thước của thành Giê-ru-sa-lem. Quang cảnh nầy có ý nghĩa gì?

d. Khải Huyền 22:8,27. Điều kiện nào để được trở thành công dân của thành Giê-ru-sa-lem mới?

6. a. Xin tóm lược những đặc điểm của thành Giê-ru-sa-lem mới.

b. Người ở trong thành Giê-ru-sa-lem mới được hưởng những phước hạnh gì? So sánh người trong thành Giê-ru-sa-lem mới với thế giới cũ (Khải 21:3-4,23-27).

7. a. Khải Huyền 21:6: Đức Chúa Trời xưng Ngài trong danh hiệu nào? Và danh hiệu nầy cũng được ai xưng nữa? (Khải 1:17; 22:13. Điều nầy có nghĩa gì?

b. Lời phán của Đức Chúa Trời “xong rồi” trong Khải Huyền 21:1-6, có nghĩa gì đối với chương trình sáng tạo và cứu chuộc của Ngài?

8. Bạn có đủ điều kiện được nhận vào Nước vinh hiển đời đời không? Vì sao bạn biềt?

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 28.6.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 28.6.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 28.06.2015

(Kỷ Niệm 104 Năm Tin Lành Đến Việt Nam).

1. Đề tài: TỪ TỐI QUA SÁNG.

2. Kinh Thánh: Giăng 1:5; 4:22-24; 5:24.

3. Câu gốc: “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài” (Giăng 1:12).

4. Đố Kinh Thánh: Châm 4-6.

5. Thể loại: Thuyết trình.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn thuyết trình.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Tin Lành được truyền đến Việt Nam đã 103 năm qua. Ban đầu, từ một nhóm người ít ỏi, bé nhỏ, Hội Thánh đã tiến nhanh đến chỗ có thể kết hợp được một tập thể rộng rãi, đông đảo như ngày nay. Một câu hỏi cho người quan tâm là: Các tôi con Chúa trong giai đoạn đầu đã hoạt động như thế nào để Hội Thánh được phát triển và trưởng thành? Để biết được điều này chúng ta phải quay về với quá khứ qua tập hồi ký “Bốn mươi sáu năm chức vụ”, của cụ cố Mục sư Lê Văn Thái để biết rõ và dâng lời tạ ơn Đức Chúa Trời về những điều kỳ diệu Ngài làm cho Hội Thánh tại Việt Nam.

Vì thì giờ có hạn, xin được giới thiệu chương đầu tiên của sách:

TỪ TỐI QUA SÁNG.

Tin Lành đã được truyền giảng tại Đà Nẵng từ năm 1911. Nhưng lúc bấy giờ mọi người trong gia đình chúng tôi đều ở trong sự tối tăm đúng như Lời Kinh Thánh đã chép: “Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hề nhận lấy sự sáng” (Giăng 1:5).

I. GIAI ĐOẠN CHỐNG ĐỐI CƠ ĐỐC GIÁO.

…Xin nói rõ là gia đình chúng tôi lúc bấy giờ theo thuyết thờ ông bà, một hình thức tôn giáo mang tính chất thuần túy Đông Phương. Tôi nhận thấy mình có nhiệm vụ bảo vệ những truyền thống tinh thần của dân tộc, nên mỗi khi nghe người rao giảng đạo Gia-tô, phân phát sách báo Gia-tô hoặc gặp phải những người theo đạo Gia-tô, tôi liền chống trả mãnh liệt. Tôi đã áp dụng mọi phương tiện để đối phó ngay cả việc ném đá vào đầu các giáo sĩ tôi cũng không từ nan.

Chẳng những thế thôi, ròng rã mấy năm, tôi vẫn cứ theo tranh luận với các giáo sĩ và phá tán những người rao truyền Tin Lành…

Nhưng lạ lùng thay, ân điển và lòng yêu thương vô lượng của Chúa đã chuẩn bị cứu tôi. Khởi điểm khiến tôi đi sâu vào việc nghiên cứu chân lý Tin Lành và tìm được ơn cứu rỗi, là do vấn đề đã được một ông truyền đạo nêu lên: “Tin đạo Tin Lành bỏ ông bỏ bà, hay không theo đạo Tin Lành bỏ ông bà?” Vấn đề có vẻ thích thú. Tôi bắt đầu suy nghĩ, cố tìm những luận cứ vững chắc, sắc bén ngõ hầu có thể bẻ gãy dễ dàng những lý lẽ của “đối phương”. Tôi tin chắc tôi sẽ thắng.

Một đêm kia, tại tòa giảng Hải Châu ông truyền đạo nầy lại tuyên bố cách quả quyết: “Ai không theo Tin Lành, không tin nhận Đức Chúa Giê-xu, không thờ Đức Chúa Trời là bỏ ông bà”. Để chứng minh, ông đọc luôn một câu chữ Hán: “Mộc hữu bổn, thủy hữu nguyên, nhân sanh hồ tổ”. Rồi ông lớn tiếng giải thích: “Cây có cội, nước có nguồn, người có tông có tổ”. Cây không cội, nước không nguồn, người không tông tổ thì sao gọi là có ông bà được? Đức Chúa Trời dựng nên loài người, nhưng người không thờ phượng Ngài. Kinh Thánh chép rằng: “Đức Chúa Trời dựng nên loài người… Ngài dựng nên người nam cùng người nữ” (Sáng 1:27). Không tin nhận Đức Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời và không tin theo Tin Lành của Ngài thì khác nào cây mất cội, nước mất nguồn, người mất ông bà! Ông cứ theo cái đà ấy mà giải thích thao thao bất tuyệt. Rồi ông lại đặt câu hỏi: “Quý vị biết mình thờ ông bà mấy đời không?” Chúng tôi chưa kịp phản ứng thì ông lại bắt sang vấn đề phổ hệ thờ ông bà, cách biên mục lục trên bài vị đặt ở bàn thờ để thờ Ngũ – Đại – Mai – Thần – Chủ, tức là ông Cao, Tằng, Tổ, Khảo, Hiển. Ông giải thích: Khi có một người trong tộc qua đời, muốn giữ cho đúng câu Ngũ Đại Mai Thần Chủ phải sửa lại bài vị, tức nhiên là phải xóa tên ông Cao, đem tên ông Tằng đặt vào chỗ ông Cao, đem tên ông Tổ đặt vào chỗ ông Tằng, đem tên ông Khảo vào chỗ ông Tổ, đem tên ông Hiển vào chỗ ông Khảo và biên tên ông mới qua đời đặt vào chỗ ông Hiển. Như vậy là bỏ ông bà chớ không phải thờ ông bà. Nhìn vào thính giả ông tiếp tục đặt một câu hỏi khác: “Như vậy, muốn thờ ông bà phải làm sao?” Rồi ông lại giải thích: “Muốn thờ ông bà cho thật đúng nghĩa phải giữ nguồn, tìm gốc, tưởng nhớ và tôn kính Đấng sinh thành mình mãi mãi. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa dựng nên loài người, nên hễ ai tìm kiếm Ngài tức là tìm nguồn, tìm gốc, tưởng nhớ và tôn kính Đấng sinh thành mình mãi mãi. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hoá dựng nên loài người, nên hễ ai tìm kiếm Ngài tức là tìm nguồn, giữ gốc, là thờ Tông, thờ Tổ vậy”.

Ngồi trong nhà nghe giảng những lời nầy, đầu tôi nóng bừng lên. Tâm can tôi sục sôi như lửa bốc, vì mọi người trong gia đình tôi đều theo thuyết thờ ông bà rất mực cung kính. Không ai có quyền xúc phạm đến một hình thức thờ phượng đã ăn sâu vào lòng dân tộc, phỉ báng đạo giáo của tổ tiên là một điều sỉ nhục không thể tha thứ được. Sự căm tức của tôi càng lúc càng lên cao. Tôi muốn đứng lên tranh luận với ông truyền đạo nầy, nhưng tôi ngần ngại không biết ông trưng dẫn có đúng hay không. Nếu đúng thì sao? Tôi tự nhủ không cần phải gấp, đợi giảng xong về hỏi lại ông thân tôi xem gia đình chúng tôi thờ ông bà được mấy đời, rồi sẽ “chỉnh” ông ta sau.

Về đến nhà, ông thân tôi đã đi ngủ. Nhưng không thể đợi đến sáng hôm sau được, tôi bèn đánh thức ông cụ dậy và hỏi ngay: “Thưa thầy, gia đình chúng ta thờ ông bà được mấy đời?” Ông thân tôi vừa lấy làm lạ vừa khó chịu hỏi lại: “Mầy làm cái gì mà gấp quá vậy?” Tôi bèn thuật lại cho ông cụ nghe tất cả những điều ông truyền đạo đã giảng giải về sự thờ cúng tổ tiên. Cụ bảo: “Tao không nhớ phổ hệ gia đình ta ghi chép phải thờ ông bà mấy đời. Chờ ít lâu nữa sẽ có ngày Giỗ Tổ tại Huế, về xem mới biết được”.

…Sau khi ông thân tôi đi dự ngày Giỗ Tổ ở Huế về, có đem theo bản Sao Lục Phổ Hệ tộc Lê Văn của chúng tôi… Sau khi nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy điều ông truyền đạo nói về việc biên bài vị đặt trên bàn thờ, về Ngũ Đại Mai Thần Chủ là đúng, nhưng đối với bản gia phả của đại gia đình chúng tôi thì là sai. Gia phả tộc Lê Văn chúng tôi ghi mười đời chứ không phải năm đời như ông truyền đạo đã nói.

Thế là chúng tôi tin chắc mình có những lý lẽ vững chắc để đánh đổ ông truyền đạo. Tôi liền sửa soạn những câu hỏi “hóc búa” và đi ngay đến nhà giảng. Khi gặp ông truyền đạo tôi liền vào đề ngay: “Thưa ông, ông nói theo đạo Tin Lành, nhận Đức Chúa Giê-xu và thờ Đức Chúa Trời là có nguồn gốc, có căn nguyên là tìm được Tông, được Tổ, tại sao không thấy người Tin Lành đặt bàn thờ để thờ phượng? Ông truyền đạo liền giở quyển sách đang cầm trên tay ra, và đọc cho tôi nghe một câu như thế nầy: “Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết… Khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm  thần và lẽ thật mà thờ phượng… Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ phượng Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy” (Giăng 4:22-24). Ông nhắc lại những điểm quan trọng, nào là “các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết”, nào là “phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy”. Rồi ông vặn lại tôi: “Vấn đề là không phải đặt ra bàn thờ và bày lễ vật cúng tế, mà là hiểu biết, tôn kính, vâng giữ lời giáo huấn. Thờ phượng thật là lấy tâm thần lẽ thật mà thờ, tôn kính và làm theo lời răn dạy của đấng mình thờ, thầy có thờ như vậy hay không?” Tôi không trả lời nhưng lại hỏi một câu hỏi khác: “Ông nói Đức Chúa Trời dựng nên vạn vật, dựng nên loài người, như vậy thì ai dựng nên Đức Chúa Trời?” Ông truyền đạo lại giở và đọc một câu khác trong quyển sách đang còn cầm nơi tay: “Đức Chúa Trời phán rằng: Ta là Đấng Tự Hữu, Hằng Hữu” (Xuất 3:14). Để tôi có thể hiểu rõ hơn, ông giải thích: “Tự hữu, hằng hữu nghĩa là Ngài tự nhiên mà có, có từ trước vô cùng và nhất là còn đến đời đời vô cùng. Bởi đó, Ngài là Chủ tể của trời đất, muôn vật. Ngài dựng nên trời đất muôn vật, nhưng không ai dựng nên Ngài cả, vì như tôi đã nói (lời ông truyền đạo) sự hiện hữu của Ngài ở ngoài thời gian”.

Tôi lại đặt câu hỏi thứ ba: “Ông bảo là thờ ông bà theo mục lục của bài vị thì chỉ có năm đời thôi, nhưng sự thật gia phả của tộc tôi ghi tới mười đời kia mà?” Sau câu hỏi nầy tôi đinh ninh ông truyền đạo sẽ bí lối và không thể nào trả lời được. Tôi tin chắc thể nào tôi cũng thắng. Nhưng ông truyền đạo tươi cười và hỏi lại tôi một câu: “Được rồi, gia đình thầy thờ mười đời vậy thì cái ông thứ mười một ở đâu?” Tôi không trả lời được. Tôi không ngờ ông truyền đạo đã đưa tôi vào cái thế “kẹt” như vậy. Phải, còn ông thứ mười một ở đâu? Tôi bàng hoàng cả người đành phải im lặng ra về…

Từ đó, tôi cứ băn khoăn mãi… Tâm hồn tôi luôn luôn bị giày vò câu thúc đối với những vấn đề mà ông truyền đạo đã đặt ra. Đâu là sự thật, đâu là chân lý? Tôi bắt đầu suy nghĩ, cố gắng đi sâu vào giòng sinh hóa của vũ trụ và vạn vật. Nếu có ông tổ thứ mười thì phải có ông thứ mười một rồi đến cao hơn, đến dòng giống đến dân tộc và nhân loại. Như vậy phải có một Đấng dựng nên loài người, Đấng ấy chính là Đức Chúa Trời của đạo Gia-tô (Giê-xu). Khi đặt đến ý nghĩa Đức Chúa Trời là nguồn gốc của muôn loài vạn vật, linh hồn tôi như đang nhận được ánh sáng của chân lý cứu rỗi nhưng trong chính giờ phút ấy, bằng một tâm linh bàng hoàng xúc động, tôi nhận thấy quá khứ mình như trở lộn về với một bản ngã trần trụi đầy dẫy những ô uế xấu xa, giả dối, ôm ấp những dục vọng và tội lỗi thấp hèn. Làm thế nào có thể thờ phượng Đức Chúa Trời cho được? Tôi hết sức lo âu gần như hoảng hốt trong trạng thái tinh thần đau khổ và căng thẳng cùng tột ấy. Tôi tự hỏi: Phải làm sao để được hòa thuận cùng Đức Chúa Trời?

Ánh sáng của chân lý đã đến với tôi, sau những năm tháng dò dẫm trong bóng tối. Vào mùa xuân năm 1919, tại nhà giảng Hải Châu (Đà Nẵng), tôi đã quỳ gối tin nhận Đức Chúa Giê-xu là Cứu Chúa của đời mình, vì Ngài đã gánh vác tội lỗi tôi và chết trên thập tự giá vì cớ tôi.

Lúc ấy có giáo sĩ E.F. Irwin là người mấy năm trước đã bị tôi ném đá, chứng kiến.

II. NHỮNG BƯỚC CHẬP CHỮNG TRONG ÁNH SÁNG CỦA LỜI SỰ SỐNG.

Tôi thật sự trở nên một người mới trong Chúa. Gã thanh niên lúc trước ương ngạnh, thường hay làm ồn ào giữa đám đông, khuấy rối, cản trở bằng mọi cách không cho người khác vào nghe giảng hoặc cãi vả, la lối làm mất trật tự mỗi khi rao giảng xong – bây giờ trở nên sốt sắng đến dự các buổi giảng Tin Lành – thường ngồi ở hàng ghế thứ hai trong các buổi nhóm cầu nguyện hoặc thờ phượng. Gã thanh niên đó chính là tôi. Tay tôi không còn lăm le những viên đá nữa, nhưng chỉ có một quyển Tin Lành Giăng lúc nào cũng kề cận bên mình (vì lúc bấy giờ những sách khác chưa được phiên dịch sang tiếng Việt).

Từ ngày công khai tin nhận Chúa, tôi được người ta gán cho một cái tên mới: “Thầy Gia-tô”, “Anh Gia-tô”, có khi “Thằng Gia-tô”. Tại miền Trung, lúc bấy giờ người ta gọi các giáo sĩ giảng Tin lành là ông Gia-tô… người theo đạo Tin lành là người Gia-tô, bởi Giê-xu Christ được dịch sang Hán văn là Gia-tô Cơ Đốc…

Tại miền Bắc, trái lại người ta gọi đạo Tin Lành là Đạo Rối. Đi đến đâu cũng đều nghe dân chúng áp dụng một lối gọi như vậy. Nguyên nhân có lẽ do ác ý của một nhóm người bảo thủ, có thành kiến, muốn đánh lạc chân lý của Tin Lành, dùng hai chữ “Đạo Rối” để xuyên tạc gây một tiếng vang không tốt đối với đạo Chúa giữa các giới đồng bào chăng?

Khác với đồng bào miền Trung và miền Bắc, đồng bào miền Nam gọi đạo Tin Lành là “đạo Hoa Kỳ”. Không hiểu bởi lý do nào mà họ đã “Mỹ hóa” đạo Chúa như vậy, mặc dầu những tấm bảng treo trước phòng giảng đều được đề là Hội Thánh Tin Lành… Có lẽ họ thấy phần đông các giáo sĩ giảng Tin Lành đều là người Hoa Kỳ, nên đã gọi như vậy cũng nên.

Ngay từ buổi đầu, việc xưng hô danh hiệu của Tin Lành đã gặp nhiều khó khăn. Ba miền dùng ba từ ngữ khác nhau, mà mỗi từ ngữ đều mang tính chất khinh thường hoặc châm biếm, xuyên tạc sự thật. Những người có ác ý với giáo hội Tin Lành lợi dụng triệt để tình trạng bất lợi ấy để gieo rắc nghi ngờ, chia rẽ nhằm mục đích bất chính là ngăn trở công việc đầu tiên của Chúa ở Việt Nam. Nhưng Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã sắp đặt cách lạ lùng cho Hội Thánh Ngài, “Hội Thánh chỉ có một Thánh Linh”, Đức Chúa Trời tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy đều được ích chung” (1Côr 12:7; 2Côr 12:4).

1. Tạm Rời Gia Đình.

Bây giờ tôi xin trở lại những ngày đầu tiên tôi mới tin nhận Chúa. Thật, khi đức tin vừa chớm nở và niềm hy vọng đang lên, thì những sự bắt bớ cũng từ khắp các nơi tràn về nhằm ngăn trở và phá tan những mầm mống ấy.

Sự bắt bớ khởi đi từ những bạn bè của tôi lúc trước đã từng sống chung trong tính hư tật xấu, đến những người trong họ, ngoài làng. Tôi đi đâu cũng nghe người ta xầm xì to nhỏ: “…Thật tội nghiệp cho cái gia đình đó. Tội nghiệp cho ông cụ già có hai thằng con trai bất hiếu, chúng theo đạo hết, sau nầy ai cúng giỗ ông bà? Nhà vô phước!” Đó là đại khái những câu nói thường nhật nơi cửa miệng của những người trong thành phố hoặc trong xóm tôi ở.

…Bởi đó, ngoài việc gia tăng thì giờ cầu nguyện đặc biệt xin Chúa cứu ông thân tôi và gia đình… Tôi thiết tha xin Chúa giúp tôi tạm rời khỏi gia đình ít lâu. Trước là để tránh sự bắt bớ của bạn hữu, xóm làng, sau để khỏi phải nhìn nét mặt buồn phiền của ông thân tôi. Nhiều đêm nước mắt tôi hòa với mồ hôi trong những giờ cầu nguyện. Trước khi đi, tôi lặp đi lặp lại câu nầy với Chúa: “Xin Chúa giúp đỡ con, gìn giữ và dẫn dắt con trong lúc còn tuổi trẻ phải lìa gia đình để giữ vững đức tin”.

…Tôi xuống tàu thủy ở bến Đà Nẵng đi Huế. Mặc dầu ở Huế có nhiều bà con, nhưng tôi không đến nhà một người nào cả. Tôi cương quyết chỉ nhờ cậy sự giúp đỡ của Chúa và theo sự dẫn dắt của Ngài mà thôi. Lên khỏi tàu, trong khi rảo bước đi về hướng chợ Đông Ba, thì một người lạ đến bắt tay niềm nở mời tôi về nhà chơi. Vừa theo người ấy, tôi vừa suy nghĩ không biết ông ta là ai. Về đến nhà, nhờ sự giải thích của ông, tôi mới biết ông là một nhà thầu khoán. Ông có một người cháu đã làm việc với ông thân tôi nhiều năm nên rất quen biết tôi. Khi thầu được công trường… họ đã viết thư cho người vào Đà Nẵng gọi tôi. Khi gặp tôi tại Huế, họ tưởng là tôi đã nhận được thư rồi, nên đón tiếp rất niềm nở. Lúc bấy giờ tôi chỉ nói được một câu: “Cám ơn Chúa” vì tôi biết rằng: “Đức Giê-hô-va chỉ dẫn các bước của người” (Châm 16:9b).

…Chúa không chỉ giúp tôi giải quyết được những khó khăn của vấn đề tài chánh, nhưng Ngài còn cho tôi có cơ hội phát triển sung túc nữa là khác. Sau giờ làm việc, tôi vẫn cầu nguyện và xem đi xem lại quyển Tin Lành Giăng… Tâm linh tôi buồn bã trước những vui thú của đời nầy và luôn luôn cảm thấy cô quạnh giữa một xã hội náo nhiệt. Do đó, tôi quyết định rời bỏ công trường mà công việc làm ăn đang thịnh vượng để đi tìm một công trường khác – công trường thuộc linh.

Tôi sắp đặt công việc trao trả cho chủ thầu và trở lại quê nhà sau gần một năm xa cách. Chúa giúp đỡ tôi thi hành mọi sự đều được may mắn. Chúa nhìn thấy mọi ước vọng của lòng tôi… Chúa biết lòng tôi tha thiết muốn đưa nhiều người đến với Ngài. Chúa biết tôi nặng lòng với công trường thuộc linh hơn là công trường thế gian, nên khi tôi đi cũng như lúc tôi về Ngài đều giúp đỡ tôi luôn luôn được may mắn và dễ dàng.

2. Học Phước Am Yếu Chỉ.

Bước đầu trong cuộc hành trình theo Đức Chúa Giê-xu của tôi là trở lại học “Phước âm yếu chỉ” để chịu báp-tem… Tôi muốn được tha tội. Tôi ham thích sự ban cho của Đức Chúa Trời, bởi đó, hằng tuần tôi đều để thì giờ đi học giáo lý.

…Sau khi chịu báp-tem… có một việc xảy đến nhằm thử thách đức tin chúng tôi… Chúng tôi thường đi với các giáo sĩ để giúp đỡ sắp xếp buổi nhóm và làm chứng cho người chưa biết Chúa. Một tối nọ, vừa ra đến giữa sông thì giông tố nổi lên, nước tràn vào đò, mọi người đều sợ hãi. Trong đêm tối có những tiếng kêu la thất thanh. Phần đông những người đi chuyến đò nầy đều chưa tin Chúa. Chúng tôi khuyên ai ngồi chỗ nào cứ ngồi yên chỗ nấy. Riêng tín đồ thì cầu nguyện và hát thánh ca.

Khi chúng tôi đang hát, thì nghe tiếng của những người chèo đò la hoảng: “Chết rồi, đứt một quai chèo rồi!” Nhưng chúng tôi cứ hát cho đến khi đò tấp vào bờ, cách xa đến độ hơn trăm thước. Thuyền đầy ắp nước gần chìm. Mọi người chúng tôi đều ướt như chuột, nhưng tạ ơn Chúa gìn giữ, tất cả đều bình an. Sau đó có bốn người đi chung chuyến đò ấy đã trở lại tin nhận Chúa. Thật Chúa dùng cơn bão làm tăng thêm đức tin chúng tôi và làm sáng danh Ngài.

3. Một Người Tin Cả Nhà Được Cứu.

Tháng 5 năm 1924 có một Hội đồng nhóm tại Đà Nẵng, được mệnh danh là Hội đồng Phục hưng lần thứ nhất. Diễn giả chính là Mục sư Hoàng Nguyên Tố, người Trung Hoa…

Từ trước tới nay, ngoài sự khẩn thiết cầu xin Chúa cứu ông thân chúng tôi và gia đình, chúng tôi còn nhờ Hội Thánh và các ông bà đã tin Chúa tìm đủ cách để dẫn dắt gia đình chúng tôi trở lại với Chúa. Nhân lúc có Hội đồng… chúng tôi nhờ một người quen mời ông thân tôi đi nghe. Cám ơn Chúa, ông cụ nhận lời…

Sau giờ giảng, chúng tôi cùng ông cụ về nhà ăn cơm tối. Trong bữa ăn, chúng tôi cố tình nhắc lại bài giảng để dọ ý ông cụ thế nào? Ông cụ gật đầu tỏ ý thán phục: “Họ nói phải lắm”. Nghe câu ấy chúng tôi rất mừng rỡ nên hỏi lại: “Thưa, thầy đã nhận là họ nói phải lắm, vậy thầy tưởng có nên làm theo không?” Ông cụ suy nghĩ hồi lâu mới lên tiếng: “Làm theo cách nào?” Chúng tôi trình bày thêm để ông cụ được rõ là bất cứ ai hễ tin nhận Đức Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa thì tội lỗi được tha và linh hồn được cứu. Sau đó, chúng tôi cũng đọc cho ông cụ nghe lời Chúa phán: “Nếu các ngươi chẳng tin Ta là Đấng đó, thì chắc sẽ chết trong tội lỗi các ngươi” (Giăng 8:24). Ngài đã nói cách quả quyết cùng mọi người rằng: “Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, ai nghe lời Ta mà tin Đấng đã sai Ta, thì được sự sống đời đời, và không đến sự phán xét, song vượt khỏi sự chết mà đến sự sống” (Giăng 5:24). Đó là một sự kiện chắc chắn, vì “hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài” (Giăng 1:12).

Cụ lại hỏi: “Tin là làm sao?” Chúng tôi giải thích: Tin là lấy lòng thành kính quỳ gối xuống cầu nguyện, nhận mình là người có tội, và bằng lòng tiếp nhận Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa để tội ấy được tha và nhận lãnh sự yêu thương của Đức Chúa Trời. Cụ bằng lòng quỳ gối giữa nhà. Anh tôi là Mục sư Lê Hoàng Long và tôi cầu nguyện cho cụ tin nhận Chúa.

Sau khi cầu nguyện và hát ngợi khen, chúng tôi nhìn thấy nét mặt cụ rạng rỡ và đôi mắt sáng ngời. Cụ muốn nghe nói thêm về chuyện Kinh Thánh. Chúng tôi liền phân tích để ông cụ rõ về câu chuyện thế nào là thờ phượng thật và thế nào là không thật mà Chúa Giê-xu đã nói với người đàn bà Sa-ma-ri. Chúng tôi nhắc lại câu: “Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy”, để xin cụ cất bỏ bàn thờ trong nhà đi. Cụ tươi cười bảo: “Bay muốn làm gì thì làm”. Chúng tôi hết sức ngợi khen Chúa và bắt tay vào việc ngay. Tất cả những đồ thờ phượng bằng gỗ trên ba bàn thờ lớn giữa ba căn nhà đều được dọn ra ngoài sân. Nội trong đêm đó chúng tôi đập bể và đốt hết, đến hơn mười hai giờ khuya mới xong. Trở vào nhà chúng tôi sung sướng cầu nguyện tạ ơn Chúa. Đó là lần cầu nguyện đầu tiên trong gia đình không bị ngăn trở bởi bàn thờ. Ha-lê-lu-gia!

Đức tin của ông thân chúng tôi ngày càng thêm mạnh mẽ, dù gặp nhiều khó khăn thử thách, nhưng vẫn cứ kiên định cho đến khi về nước Chúa.

Tiếp theo đó bà kế mẫu của chúng tôi cũng đã tin nhận Chúa qua một cơn bạo bệnh. Sau khi đã uống nhiều thuốc của hai ông đông y, bà được đưa vào bệnh viện để được chữa bằng thuốc tây, nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Tất cả mọi người trong gia đình đều thất vọng. Trong khi đó thì chúng tôi âm thầm cầu xin Chúa cứu mẹ chúng tôi. Quả thật bởi ơn của Chúa, bà được chữa lành một cách lạ lùng. Do đó bà vui lòng tin nhận Chúa. Bởi phép lạ ấy, có mấy người trong họ ngoại chúng tôi thức tỉnh ăn năn. Các chị và các em chúng tôi cũng vậy, đều lần lượt trở lại với Chúa và dâng mình hầu việc Ngài, cho đến ngày nay vẫn còn đứng vững trong chức vụ cách đầy ơn. Thật đúng như Lời Chúa phán: “Một người tin cả nhà được cứu”.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Xi ra.

Xi đánh giày nhỡ bị khô, bạn có thể làm cho nó mềm lại bằng một trong các cách sau đây:

+ Cho sữa tươi nóng hay nước cốt chanh tươi vào.

+ Cho một ít dầu lửa hay dầu nhựa thông vào.

 

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 21.6.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 21.6.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 21.06.2015 (Lễ Phụ thân).

1. Đề tài: VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CHA.

2. Kinh Thánh: Sáng 21:8; Xuất 20:5; 21:22; 34:7; Giô 4:6,21,22; 29:6; Phục 6:4-9; 7:3; Ô-suê 11:3.

3. Câu gốc: “Các lời mà ta truyền cho ngươi ngày nay sẽ ở tại trong lòng ngươi; khá ân cần dạy dỗ điều đó cho con cái ngươi” (Phục 6:6-7a).

4. Đố Kinh Thánh: Châm 1-3.

5. Thể loại: Chia sẻ.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CHA.

Chúa nhật thứ ba tháng sáu hằng năm là ngày lễ Phụ thân. Lễ Phụ thân là ngày để con cái nghĩ đến công ơn của người cha hầu tri ân và sống xứng đáng với danh phận làm con. Đây cũng là ngày giúp cho người cha ý thức vai trò mình trong gia đình để sống yêu thương và chu toàn trách nhiệm đối với con cái.

Người Việt ta quan niệm:

Con có cha như nhà có nóc

Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.

Hoặc:

Còn cha gót đỏ như son

Mai sau cha chết gót con đen sì.

Và:

Bạc bảy đâu sánh vàng mười

Mồ côi đâu sánh cùng người có cha.

Đọc Kinh Thánh chúng ta sẽ thấy Lời Chúa viết về người cha nhiều hơn người mẹ. Điều này bày tỏ rằng người cha được Chúa ban địa vị thật cao trọng. Trở thành người cha chẳng những là một đặc ân cao quí Chúa cho, mà cũng là trách nhiệm lớn nhất của con người.

Nhân ngày lễ Phụ thân năm nay, chúng ta cùng tìm biết về “Vai trò của người cha trong Cựu Ước”.

1. Trách Nhiệm Đối Với Con Khi Chưa Sinh.

Trong Cựu Ước, người cha có trách nhiệm bảo vệ đứa con chưa chào đời của mình. Khi có một người gây thương tích cho một phụ nữ đang mang thai khiến sẩy thai, thì người gây thương tích phảibồi thường theo mức chồng phụ nữ nầy ấn định (Xuất 21:22).

2. Trách Nhiệm Sau Khi Con Ra Đời.

Theo luật lệ về sinh đẻ, người cha chịu trách nhiệm làm lễ cắt bì cho con trai vào ngày thứ tám (Lê-vi 12:3); phải phú dâng cho Đức Chúa Trời con trưởng nam của mình (Xuất 22:29). Khi con lớn lên, người cha sẽ tập cho con đi, cầm cánh tay mà dìu nó (Ô-sê 11:3). Lúc con đến ngày dứt sữa, người cha đặt tiệc ăn mừng (Sáng 21:8).

3. Trách Nhiệm Dạy Dỗ Con Cái.

Người cha có trách nhiệm dạy dỗ con cái. Người phải ân cần dạy dỗ cho con khi ở nhà, lúc ra ngoài, khi đi ngủ, lúc thức dậy (Phục 6:4-9). Người cha phải ghi tạc những mệnh lệnh Chúa vào lòng dạ, khắc vào thẻ bài đeo nơi tay và đeo trước trán. Rồi đem những mệnh lệnh nầy dạy cho con cái am tường (Phục 11:18-21). Người cha cũng dạy cho con về ý nghĩa các ngày lễ (Xuất 12:26-27; 13:8,14; Phục 6:20-25); và dạy cho chúng biết về lịch sử cuộc giải cứu và sự thành tín của Đức Chúa Trời đối với các bậc cha ông (Giô 4:6,21-22).

Sự dạy dỗ của người cha rất quan trọng, nên tác giả sách Châm Ngôn đã nhiều lần nhắc nhở các con cái phải nghe theo lời người cha khuyên dạy (Châm 1:8-9; 4:1; 6:20-22; 13:1; 15:5).

4. Trách Nhiệm Thực Thi Kỷ Luật.

Người cha có trách nhiệm giáo huấn và hướng dẫn con cái sống theo kỷ luật. Người phải “dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo; dầu khi nó trở về già cũng không hề lìa khỏi đó” (Châm 22:6). Đức Chúa Trời đã phạt Hê-li và không cho gia đình ông tiếp tục hành chức thầy tế lễ, vì ông đã biết “tính nết quái gở của các con trai mình, mà không cấm” (1Sa 3:13). Các con trai của Sa-mu-ên vì không được giáo huấn theo kỷ luật nên đã ăn hối lộ, bóp méo công lý và điều này làm cớ cho dân Y-sơ-ra-ên cầu xin một vua để cai trị họ (1Sa 8:1-5). Vua Đa-vít đã không dạy con khép mình vào kỷ luật, khiến gia đình phải chứng kiến cảnh con trai tự tôn làm vua (1Các 1:5-6).

Sách Châm Ngôn bày tỏ lẽ thật nầy: Người cha biết thương con thì không quên sửa trị con (3:11-12); ai kiêng roi vọt ghét con trai mình (13:24). Cổ nhân ta diễn giải lại: “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”.

Hơn nữa, dạy con lúc còn thơ ấu là không để chúng sa vào chốn diệt vong (19:18; 22:15; 23:13-14; 29:17).

5. Trách Nhiệm Sống Công Chính.

Người cha có trách nhiệm sống yêu kính Chúa, nếu không Ngài sẽ phạt luôn cả con cháu người ấy cho đến ba bốn thế hệ (đời) (Xuất 20:5; 34:7). Người cha bất kính sẽ khiến “con cái nó phải mồ côi, và vợ nó bị góa bụa” (Thi 109:9). Đa-vít đã sống bất kính nên “con trai đã sanh cho ngươi hẳn sẽ chết” (2Sa 12:14). Đây là số phận Đức Chúa Trời dành cho kẻ gian tà: “Dù họ có đông con cái, đứa chết vì gươm, đứa vì đói khát” (Gióp 27:14) KTHĐ.

Ngược lại, một người cha chân thật sẽ để lại cho “những con cháu người lấy làm có phước thay” (Châm 20:7). Gióp thường dâng tế lễ thiêu cho các con, vì người nói rằng: “Biết đâu con cái tôi phạm tội và âm thầm khước từ Đức Chúa Trời trong lòng” (Gióp 1:5).

Trách Nhiệm Cưới Vợ Gả Chồng Cho Con Cái.
Người cha trong thời Cựu Ước có trách nhiệm đối với hôn nhân của các con, người được Chúa ủy thác cưới vợ, gả chồng cho con cái (Giê 29:6). Tiêu chuẩn của việc dựng vợ gả chồng là không kết sui gia với người ngoại (Phục 7:3). Kinh Thánh thuật lại việc Áp-ra-ham sai người đầy tớ, đi cưới vợ cho con trai mình là Y-sác (Sáng 24:2-9).

Về sau, Y-sác căn dặn con trai mình là Gia-cốp và Ê-sau đừng cưới vợ người Ca-na-an và sự không vâng lời của Ê-sau đã làm cho cha không vừa lòng (Sáng 27:46-28:9). Khi Gia-cốp xuống cưới Ra-chên làm vợ, người cũng phải xin cha nàng chấp thuận (Sáng 29). Sam-sôn xuống Thim-na gặp một cô gái Phi-li-tin, trở về nhà ông cũng xin cha mẹ cưới cô ấy cho mình (Quan xét 14:1-2). Tuy nhiên Sam-sôn vì không nghe lời khuyên của cha mẹ nên đã bị thất bại trong hôn nhân.

Việc người cha được Chúa giao cho trách nhiệm cưới vợ, gả chồng cho con cái, cho nên dù bạn và “người ấy” đã gặp nhau “tình trong như đã mặt ngoài còn e” thì cũng chớ vội tiến tới hôn nhân.

Ta còn cần phải:

Em về em hỏi mẹ cha

Có cho em lấy chồng xa hay gần

Em về hỏi mẹ cùng thầy

Có cho anh cưới tháng nầy thì cho.

Qua bài học này, mong rằng các bạn thanh niên bước vào tuổi lập gia đình nhận biết vai trò, trách nhiệm của mình trước mặt Chúa để sống xứng đáng kết quả cho Chúa, cho gia đình, cho Hội Thánh.

Vì hôn nhân là việc quan trọng cả cuộc đời, người phối ngẫu (vợ, chồng) phải là người Chúa chọn, theo ý muốn Ngài chứ không theo ý muốn chúng ta, thì mới đem lại hạnh phúc.

Mục sư Tô Văn Ut (có sửa).

 

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

MẮC CỔ.

– Nuốt phải vật lạ trơn như nút áo, hột xí muội… đừng lo sợ. Hãy lấy một cục cơm (cơm cháy càng tốt), bóp chặt cho nuốt. Vật ấy sẽ trôi xuống bụng. Cần phải xem phân để tìm ra vật phải nuốt.

– Nuốt phải vật có ngạnh nhưng nhỏ như xương cá, xương heo vụn cũng có thể làm như trên.

– Nuốt phải vật nhỏ như kim tây, kim băng, phải đưa ngay đến bác sĩ để gắp ra. Tuyệt đối không cho đũa, muỗng vào cổ họng để tìm lấy ra, không cho uống thuốc xổ.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 14.6.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 14.6.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 14.06.2015.

1. Đề tài: SINH NHẬT QUÝ II.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 100.

3. Câu gốc: “Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách vui mừng, hãy hát xướng mà đến trước mặt Ngài” (Thi 100:2).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 148-150.

5. Thể loại: Ca ngợi – Cảm tạ.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

* TRÒ CHƠI DÀNH CHO NGƯỜI CÓ SINH NHẬT.

BÔNG HOA SINH NHẬT.

– Chuẩn bị: Cắt một số hoa bằng giấy màu và viết lời yêu cầu thật vui cuộn tròn lại dán vào nhụy hoa. Dùng băng keo hai mặt dán bông hoa lên bảng (hoa và người có ngày sinh trong quí phải tương đương).

– Cách chơi: NHD sẽ mời từng người có ngày sinh trong quí lên chọn và hái cho mình một bông hoa. Quan sát kỹ trong bông hoa sinh nhật có gì đặc biệt, xem và đọc lớn rồi thực hiện lời yêu cầu.

* TRÒ CHƠI TẬP THỂ.

VẬN CHUYỂN.

– Cách chơi: NHD chọn 5-10 người tùy theo sân chơi hẹp hay rộng. Vạch điểm xuất phát và đích cách nhau khoảng 15-20m. Tất cả người chơi đứng thành hàng ngang, cúi gập lưng, NHD đặt trên lưng mỗi người một cái nón hoặc một vật nào đó. NHD ra hiệu lệnh, những người chơi chạy về đích. Cố giữ sao cho đồ vật vẫn ở trên lưng (không dùng tay). Ai về đích trước không phạm luật là thắng cuộc.

* Chế biến: Có thể cho di chuyển về đích với đoạn đường ngắn hơn nhưng phải nhảy cò cò một chân.

ĐỒNG MỘT TÂM TÌNH.

– Cách chơi: Mỗi nhóm cử ra hai người hoặc toàn ban chia thành từng đôi một đứng thành hàng ngang. NHD dùng khăn quàng cột chặt chân phải người này với chân trái người kia từng đôi. Khi có lệnh từng đôi về đích. Đôi nào về đích trước là thắng cuộc.

– Lưu ý: Nên tổ chức chơi ở sân cỏ hoặc cát.

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

– Vôi Vào Mắt.

Vôi bắn vào mắt rất nguy hiểm. Hãy hòa đường cát sạch với nước cho đặc, nhỏ vào mắt ngay, trước khi đưa đến bệnh viện.

 

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 07.6.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 07.6.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 07.06.2015.

1. Đề tài: MA-LA-CHI – NGƯỜI KÊU GỌI DÂN SỰ TRỞ LẠI CÙNG CHÚA (DÂNG 1/10).

2. Kinh Thánh: Ma-la-chi 3:1-18.

3. Câu gốc: “Các ngươi hãy đem hết thảy phần mười vào kho, hầu cho có lương thực trong nhà ta; và từ nay các ngươi khá lấy điều nầy mà thử ta, Đức Giê-hô-va vạn quân phán, xem ta có mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng!” (Ma-la-chi 3:10).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 142 – 147.

Thể loại: Học Kinh Thánh.
* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn trước.

1. Đọc Ma-la-chi 3:7-12 cho biết:

(1.1) Ma-la-chi kêu gọi dân sự Chúa làm điều gì?

(1.2) Tại sao họ phải trung tín dâng phần mười?

(1.3) Bạn và gia đình đã trung tín dâng phần mười chưa? Xin chia sẻ kinh nghiệm phước hạnh khi bạn trung tín dâng phần mười.

2. Đọc Ma-la-chi 3:16-18, cho biết:

(2.1) Người trở lại cùng Chúa được phước gì?

(2.2) Những phước nầy có giá trị gì đối với con dân Chúa?

(2.3) Những phước hạnh nầy khích lệ bạn thế nào trên bước đường đi theo Chúa?

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

I. GIỚI THIỆU.

Ma-la-chi là tiên tri sau cùng của thời Cựu ước. Tên Ma-la-chi có nghĩa “sứ giả của Ta”. Ông được Đức Chúa Trời kêu gọi để đem mạng lịnh của Ngài cho Y-sơ-ra-ên vào khoảng năm 435-400 T.C.

Với sự khuyến khích của tiên tri A-ghê và Xa-cha-ri, dân sự xây cất xong đền thờ Giê-ru-sa-lem. Nhưng sau đó họ bắt đầu ngã lòng, nghi ngờ tình yêu thương của Đức Chúa Trời, xao lãng việc thờ phượng Chúa và lìa bỏ luật pháp Ngài. Trong tình trạng sa sút nguội lạnh của dân sự nhất là sự giả hình của các nhà lãnh đạo tôn giáo, Ma-la-chi đem sứ điệp của Chúa cảnh cáo tội lỗi Y-sơ-ra-ên. Đồng thời Xa-cha-ri cũng loan báo ngày của Chúa sắp đến và kêu gọi sự ăn năn. Trong lời khuyên dân sự trở về cùng Đức Chúa Trời, điểm đặc biệt nhất của Ma-la-chi là thách thức dân Chúa trung tín trong sự dâng phần mười. Điều đó nhắc nhở Cơ đốc nhân chúng ta hôm nay thế nào trong đời sống tin kính Chúa?

II. DẪN GIẢI.

1. Sự Bội Nghịch Của Dân Y-sơ-ra-ên.

– Trong Ma-la-chi 1-3 mô tả sự bại hoại của dân Y-sơ-ra-ên trong hình ảnh của người con ngổ nghịch, mất sự tôn kính cha, như chúng ta nghe qua những lời đối đáp ngược ngạo bất kính của họ đối với Đức Chúa Trời:

(1) 1:2: Đức Chúa Trời phán: “Ta yêu các ngươi…”, nhưng họ trả lời rằng: “Chúa yêu chúng tôi ở đâu?”.

(2) 1:6: Đức Chúa Trời quở trách: “…Nếu ta là chủ, nào sự kính sợ ta ở đâu?” Họ trả lời: “Chúng tôi có khinh dể danh Ngài ở đâu?”.

(3) 1:7: Đức Chúa Trời quở trách: “Các ngươi dâng bánh ô uế trên bàn thờ ta…” nhưng họ trả lời: “Chúng tôi có làm ô uế Ngài ở đâu?” nhưng thật ra họ đã làm ô danh Ngài bởi sự lừa dối, khinh lờn đem những con sinh tế tàn tật, những con vật bị cướp dâng trên bàn thờ cho Chúa! Cho nên Ngài phán rằng: “Đáng rủa sả thay là kẻ hay lừa dối, trong bầy nó có con đực, mà nó hứa nguyện và dâng con tàn tật làm của lễ cho Chúa! Đức Giê-hô-va vạn quân phán: Vì ta là Vua lớn, danh ta là đáng sợ giữa các dân ngoại” (1:14). Trong khi đó dân Chúa lại khinh dể danh Ngài!

(4) Đức Chúa Trời quở trách họ làm phiền Ngài vì cớ đã nói những lời vô tín ấy là: “Ai làm điều dữ thì đẹp mắt Đức Giê-hô-va, và Ngài ưa thích những người như vậy; bằng chẳng vậy, thì nào Đức Chúa Trời của sự chánh trực ở đâu?” Nhưng họ trả lời: “Chúng tôi có làm phiền Ngài ở đâu?” (2:17).

(5) Đức Chúa Trời quở trách họ vì những lời nói nghịch cùng Ngài rằng: “Người ta hầu việc Đức Chúa Trời là vô ích; chúng ta giữ điều Ngài dạy phải giữ, và bước đi cách buồn rầu trước mặt Đức Giê-hô-va vạn quân, thì có lợi gì? Rày chúng ta kể kẻ kiêu ngạo là có phước, kẻ phạm sự hung ác là tấn tới: Họ đã thử Đức Chúa Trời, và đã được giải thoát!”. Nhưng họ trả lời: “Chúng tôi có nói gì nghịch cùng Ngài?” (3:13-15).

– Dân sự chẳng những chống nghịch Chúa, nhưng còn chối bỏ đường lối Ngài và sống cách buông lung theo tư dục. Họ làm điều gian dối, hoà mình với đời trong sự kết hôn với người ngoại đạo, và ly dị vợ là điều Đức Chúa Trời phán: “Ta ghét người nào bỏ vợ, và người nào lấy sự hung dữ che áo mình” (2:16). Cho nên tiên tri Ma-la-chi đem lời của Chúa quở trách tội lỗi dân sự, nhất là trách nặng người Lê-vi, là người được Chúa giao cho trách nhiệm dạy dỗ dân sự học biết luật pháp Ngài. Nhưng họ không làm tròn sứ mạng, trái lại chính họ lại xây bỏ đường lối Chúa và làm cho nhiều người vấp ngã trong luật pháp. Vì họ không kính sợ Chúa, nên Ngài phán: “Vậy nên ta cũng đã làm cho các ngươi ra khinh bỉ hèn hạ trước mặt cả dân…” (2:5-9). Trong sự bại hoại của dân Y-sơ-ra-ên chúng ta ghi nhận những điểm sau đây:

(1) Sự bội nghịch Chúa bắt đầu từ chỗ thiếu lòng kính sợ Chúa và nghi ngờ tình yêu thương của Ngài.

(2) Sự thiếu lòng kính sợ Chúa bắt đầu từ chỗ không học biết Chúa và Lời Ngài. Vì vậy sự dạy dỗ cho con cái luật pháp Chúa để chúng học tập kính sợ Đức Giê-hô-va là mạng lịnh của Đức Chúa Trời cho người làm cha mẹ, cũng như cho người hướng dẫn người khác (Phục 5:1; 6:4-9,13). Cho nên sự quở trách người Lê-vi trong sự bội đạo của Y-sơ-ra-ên là sự nhắc nhở chúng ta trách nhiệm quan trọng này.

2. Sự đoán xét của Chúa.

Đáp lại lời than phiền “nào Đức Chúa Trời của sự chánh trực ở đâu?” (2:17), Ma-la-chi rao báo cho dân sự đang bội nghịch Chúa về ngày đoán xét sắp đến. Trong 3:1-2, Ma-la-chi rao báo sự hiện đến của hai nhân vật:

(1) Sứ giả dọn đường: “Nầy, ta sai sứ giả ta, người sẽ dọn đường trước mặt ta” (3:1a). Đối chiếu với sự kiện đã xảy ra trong Tân ước, thì sứ giả dọn đường mà đấng tiên tri Ê-sai và Ma-la-chi loan báo đó chính là Giăng Báp-tít, là người “lấy tâm thần quyền phép của Ê-li mà” đến (Ê-sai 40:3-5; Mác 1:2-3; Lu-ca 1:16-17). Và Chúa Giê-xu cũng đã xác nhận Giăng là sứ giả phải đến (Mat 11:10-14).

(2) Đấng đoán xét là Chúa: “…và Chúa mà các ngươi tìm kiếm sẽ thình lình vào trong đền thờ Ngài, tức là thiên sứ của sự giao ước mà các ngươi trông mong” (3:1). Chúa còn có danh hiệu là thiên sứ của sự giao ước, đó chính là Đấng Christ, mà Giăng đã giới thiệu Ngài với dân Y-sơ-ra-ên (Mat 3:3,10-12; Giăng 1:26-29). Như vậy sự loan báo của Ma-la-chi về sự hiện đến của sứ giả và Chúa đã ứng nghiệm trong Giăng và Chúa Giê-xu. Ngài là Cứu Chúa cũng là Đấng đoán xét Y-sơ-ra-ên như sự bày tỏ trong 3:2-6: “Nhưng ai sẽ đương nổi ngày Ngài đến, và ai đứng được khi Ngài hiện ra? Vì Ngài giống như lửa của thợ luyện, như tro của thợ giặt. Ngài sẽ ngồi như kẻ luyện bạc và làm cho sạch; Ngài sẽ chùi các con trai Lê-vi, làm cho chúng nó sạch như vàng và bạc, chúng nó sẽ dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va trong sự công bình”. Trong sự hiện đến lần thứ nhất với ân điển, Chúa dùng nước của báp têm kêu gọi sự ăn năn và tin nhận Ngài để được tha tội, và dùng lửa của Thánh Linh để thánh hoá đời sống dân Chúa (Mat 3:7-11). Nhưng lần hiện đến thứ hai với sự đoán xét, Ngài sẽ chọn lọc kẻ thuộc về Ngài, như trong lời cảnh cáo của Giăng: “Ngài sẽ chứa lúa vào kho, còn rơm rạ thì đốt trong lửa chẳng hề tắt” (Mat 3:12).

3. Lời kêu gọi ăn năn.

Vì sự đoán xét lớn dường ấy, nên Ma-la-chi kêu gọi dân sự hãy trở lại cùng Đức Chúa Trời để không bị hư mất: “Vì Ta là Đức Giê-hô-va, Ta không hề thay đổi; bởi cớ đó, các ngươi là con trai Gia-cốp, chẳng bị diệt vong. Từ những ngày tổ phụ các ngươi, các ngươi đã xây bỏ luật lệ ta và không vâng giữ. Hãy trở lại cùng Ta, thì Ta sẽ trở lại cùng các ngươi” (3:6-7). Đức Chúa Trời thành tín với giao ước Ngài, nên dầu dân sự xây bỏ Chúa, nhưng nếu biết ăn năn xây bỏ điều ác, Ngài sẽ sẵn sàng tiếp nhận trở lại. Điểm bắt đầu của sự thật lòng trở lại là trả cho Chúa số phần mười mà từ lâu nay họ đã trộm của Ngài. Đối với người Y-sơ-ra-ên, sự dâng phần mười là một bổn phận bắt buộc theo quy định trong luật pháp Môi-se. Đây là mạng lịnh của Đức Chúa Trời truyền dạy Y-sơ-ra-ên phải dâng lại phần mười về số hoa lợi họ có trong xứ mà Ngài ban phước cho để dùng cho người Lê-vi là người thay mặt dân sự hầu việc Chúa trong đền thờ (Phục 14:22-29; 26:12). Cho nên người trốn tránh hay thiếu sót bổn phận này bị kể là kẻ ăn trộm Chúa, vì số phần mười đó thuộc về Ngài. Chúa phán: “Các ngươi nói rằng; chúng tôi ăn trộm Chúa ở đâu? Các ngươi đã ăn trộm trong các phần mười và trong các của dâng” (3:8). Đó là nguyên nhân khiến họ bị mất phước trước mặt Chúa. “Các ngươi bị rủa sả, vì các ngươi, thảy cả nước, đều ăn trộm Ta” (c.9).

Bởi cớ đó Ma-la-chi kêu gọi dân sự trở lại cùng Đức Chúa Trời trước hết với sự dâng phần mười. Bằng sự thách thức họ hãy thử Chúa xem Ngài có “mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng!” (c.10). Thật ra không phải Đức Chúa Trời ban phước vì của dâng, nhưng vì tấm lòng trung tín vâng theo mạng lịnh Ngài. Đức Chúa Trời luôn thành tín, nên người trung thành với Chúa chắc sẽ hưởng phước hạnh của lời Ngài hứa vậy. Có thể ngày nay một số người viện cớ không có sự bắt buộc dâng phần mười trong thời ân điển, để rồi bỏ qua sự dâng hiến hay xao lãng trong sự dâng hiến cho Chúa. Nhưng thật ra với sự tự nguyện dâng và với lòng biết ơn cứu rỗi của Chúa sự dâng hiến đó hẳn phải trội hơn cả phần mười nữa (2Côr 8:1-6; 9:7,15). Từ xưa nay đã có rất nhiều con cái Chúa được phước trong sự trung tín dâng phần mười. Có nhiều đời sống nêu gương sáng cho chúng ta như sự trung tín của ông Le Tourneau, người làm chủ nhiều cơ sở kỹ nghệ danh tiếng. Trước kia ông là người bán hàng tầm thường, nhưng không quên dâng cho Chúa phần mười. Về sau được trở thành người giàu có, ông không chỉ dâng một phần mười nhưng dâng cho đến chín phần mười lợi tức của mình. Ông John Wesley người sống trong thế kỷ 18, lúc thiếu thời làm việc năm đầu được 150 mỹ kim, ông dâng cho Chúa 10 mỹ kim. Qua năm sau lương ông tăng gấp đôi, nhưng vẫn tiêu dùng 140 mỹ kim và dâng Chúa 160 mỹ kim. Sang năm thứ ba ông lãnh 600 mỹ kim, nhưng vẫn cứ sống với 140 mỹ kim còn 460 mỹ kim ông dâng cho Chúa. Còn chúng ta thì sao?

4. Lời Hứa Ban Phước.

Trong sự sa sút, dân sự ngã lòng trước sự hưng thịnh của kẻ ác. Nhưng Ma-la-chi đã tỏ cho biết người kính sợ Chúa nhận được lời hứa nầy: “Bấy giờ những kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va nói cùng nhau, thì Đức Giê-hô-va để ý mà nghe; và một sách để ghi nhớ được chép trước mặt Ngài cho kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va và tưởng đến danh Ngài” (3:16). Lời nói của kẻ dấy nghịch Chúa chỉ là lời hư không và bị Chúa đoán phạt, nhưng lời nói của người công bình được Chúa ghi nhớ! Thật là phước hạnh biết bao! Thật là an ủi biết bao! Đôi lúc chúng ta bi quan tưởng như Chúa không nghe mình. Nhưng hãy nhớ Đức Chúa Trời đang lắng nghe từng lời nói, chú ý từng việc làm của người kính sợ Chúa và ghi nhận trong sách của Ngài. Trong 3:17-18, Ma-la-chi cho thấy sự khác biệt giữa người công bình và kẻ kiêu ngạo trong ngày cuối cùng: Kẻ ác bị Chúa xét đoán và bị hủy diệt. Trái lại người công bình được Chúa ban thưởng và nhận làm cơ nghiệp của Ngài. Vì thế, Ma-la-chi kêu gọi dân sự hãy trở lại cùng Đức Chúa Trời, sống trong sự kính sợ Chúa và trung thành hầu việc Ngài. Vì công việc của chúng ta trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu (1Côr 15:58).

5. Đời Sống Và Sứ Mạng.

Qua việc rao giảng các sứ điệp, chúng ta tìm thấy trong Ma-la-chi hai đức tính đáng nêu gương cho người hầu việc Chúa, đó là ngay thẳng và can đảm. Ông nhận lời Chúa như thế nào thì ban phát lại cho dân sự thể ấy. Với lòng ngay thẳng và can đảm chỉ thẳng tội của người lãnh đạo, của dân sự thảy đều là kẻ trộm tiền phần mười của Chúa! Đây không phải là điều dễ nói, nhưng ông không chút ngần ngại nói điều đáng phải nói!

Tóm lại ba điểm chính trong sứ mạng Ma-la-chi là: Cảnh cáo tội lỗi của Y-sơ-ra-ên, rao báo sự hiện đến của sứ giả dọn đường và sự hiện đến của Đấng Mê-si, kêu gọi dân sự trở lại cùng Đức Chúa Trời và trung thành hầu việc Ngài. Điểm nổi bật là thách thức dân sự dâng phần mười cho Chúa, đây cũng là sự thách thức cho chúng ta hôm nay. Qua các sứ điệp của Ma-la-chi nhắc nhở chúng ta kiểm điểm lại chính mình về tấm lòng kính sợ Chúa. Cũng khuyến khích anh em chúng ta trong đời sống tin kính Chúa và trung tín phục sự Ngài.

TỔNG KẾT.

Qua các bài học, chúng ta đã học khoảng bốn mươi danh nhân trong Kinh Thánh. Đó là những anh hùng đức tin của thời Cựu Ước. Họ là những người nam, người nữ sống trong những thời đại, những hoàn cảnh khác nhau. Hoặc giàu có như Gióp, hay đơn sơ nghèo nàn như A-mốt, hoặc có địa vị như Giô-sép, Môi-se, Đa-vít, Đa-ni-ên… họ đều là những người sống trong thế gian, nhưng dám phân rẽ với thế gian để sống theo tiếng gọi của Chúa. Như Nô-ê, không đồng hóa trong nếp sống bại hoại của loài người lúc bấy giờ, nhưng đã đồng đi cùng Đức Chúa Trời và vâng lịnh Ngài đóng tàu để cứu gia đình khỏi nước lụt. Như Áp-ra-ham vâng lời Chúa, lìa bỏ quê hương mình đến xứ Chúa hứa ban và trở nên nguồn phước cho muôn dân. Như Môi-se không sợ vua giận, nhất định từ bỏ danh hiệu là con công chúa Pha-ra-ôn, để theo phục sự Đức Giê-hô-va. Như Ê-xơ-tê sẵn sàng bỏ địa vị hoàng hậu và mạng sống của mình cho sứ mạng Chúa gọi giải nguy dân tộc mình. Đặc biệt với Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên, Đa-ni-ên, Ô-sê, Giô-ên, A-mốt, Áp-đia, Giô-na, Mi-chê, Na-hum, Ha-ba-cúc, Sô-phô-ni, A-ghê, Xa-cha-ri, Ma-la-chi là những người đã mang sứ điệp của Chúa cảnh cáo tội lỗi của dân sự, rao sự đoán xét của Chúa cho thế gian và loan báo về sự hiện đến của Đấng Cứu Thế Mê-si. Họ đã trung thành với sứ mạng cho dù bị bắt bớ, bị bỏ ngục tù, và bị đe dọa tánh mạng.

Những vị đó đã đi qua, nhưng để lại cho chúng ta những gương sáng chói về đời sống kính sợ, trung thành phục sự Chúa.

Hôm nay chúng ta có nghe tiếng Chúa gọi và mạnh dạn dấn thân bước theo những vị anh hùng đức tin ấy không?

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Lời rao báo về sự đoán xét của Chúa:

a. Xin đọc Ma-la-chi 1:2-3,6-7,13-14; 2:5-17; 3:5-8 và tìm hiểu tình trạng sa sút thuộc linh của dân Y-sơ-ra-ên đến mức độ nào?

b. Với sự bất kính của Y-sơ-ra-ên, Ma-la-chi cảnh cáo họ thế nào? (1:14).

c. Trong sự đoán xét dân Chúa, Ma-la-chi nói đến “sứ giả ta” và Chúa (3:1-4). Hai nhân vật này chỉ về ai? Và với sứ mạng nào? (Mat 3:10-12; 1:26-27; Công 2:36).

2. Lời kêu gọi ăn năn:

a. Trong 3:10, Ma-la-chi kêu gọi dân Chúa làm điều gì?

b. Tại sao dân Chúa phải trung tín trong sự dâng phần mười? (3:7-12).

3. Lời hứa ban phước:

a. Người trở lại cùng Chúa được phước gì? (3:16-18).

b. Từ 3:18-4:4: So sánh sự khác nhau giữa người công bình và người gian ác. Sự khác nhau này đem đến cho người kính sợ Chúa sự an ủi nào? (3:13-15).

4. Ma-la-chi với sứ mạng Chúa gọi:

a. Qua sự thi hành sứ mạng Chúa gọi, chúng ta tìm thấy trong Ma-la-chi có những đặt tính nào nêu gương cho người hầu việc Chúa?

b. Các sứ điệp của Ma-la-chi đem lại chúng ta sự cảnh tỉnh nào? Và khuyến khích chúng ta trong sứ mạng nào?

5. Xin ghi nhận những điểm quan trọng trong sứ điệp của Ma-la-chi.

6. Nhìn lại chính mình, xin cho biết:

a. Trong nếp sống đạo, bạn bày tỏ sự kính sợ Chúa như thế nào?

b. Bạn là người trung tín dâng hiến cho Chúa hay là kẻ ăn trộm của Ngài?

c. Đối với người sai lạc đường lối Chúa, bạn có can đảm cảnh cáo, kêu gọi họ trở về cùng Chúa không? Xin cho biết cách bạn làm?

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

CÁCH CHỌN TRÁI CÂY (tt).

– Măng cụt ngon không phải là trái to. Chọn trái có đường kính chừng 4-5cm. Quả nhỏ hơn là măng mọc ở cuối cành, không ngon. Cuống phải tươi, vỏ bóng vừa phải. Đó là trái chín cây. Trái có bụi phấn bám quanh vỏ là trái ngon, ít mủ.

– Chọn trái bơ chín có thể ăn ngay bằng cách lấy ngón tay ấn vào chỗ cuống. Nếu mềm thì đó là trái đã chín.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 31.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN PHỤ NỮ 31.5.2015.

in PHỤ NỮ on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 31.05.2015.

1. Đề tài: XA-CHA-RI – NGƯỜI RAO BÁO VỀ SỰ TRỊ VÌ CỦA VUA VINH HIỂN.

Kinh Thánh: Xa-cha-ri 8-14.
3. Câu gốc: “Đức Giê-hô-va sẽ làm vua khắp đất; trong ngày đó, Đức Giê-hô-va sẽ là có một, và danh Ngài cũng sẽ là có một” (Xa-cha-ri 14:9).

4. Đố Kinh Thánh: Thi Thiên 139 – 141.

5. Thể loại: Thuyết trình.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn thuyết trình.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

I. GIỚI THIỆU.

Xa-cha-ri là con trai của Ba-ra-chi, cháu Y-đô. Ông bắt đầu chức vụ tiên tri sau A-ghê hai tháng, để tiếp tục khuyến khích nhóm dân hồi hương ở Giê-ru-sa-lem hoàn tất việc xây lại đền thờ Chúa.

Tên Xa-cha-ri có nghĩa là “Chúa nhớ đến”. Sứ mạng Chúa gọi ông đúng với ý nghĩa tên của ông, chứng tỏ Chúa không bao giờ quên Y-sơ-ra-ên, tuyển dân của Ngài. Như tiên tri Ê-sai và Ê-xê-chi-ên, Xa-cha-ri có những dự ngôn rất rõ ràng về 2 lần hiện đến của Đấng Mê-si, với những sự hiện thấy đặc biệt có liên quan đến con người và công việc của Đấng Christ trong tương lai.

Điểm nổi bật trong các sứ điệp của Xa-cha-ri là rao báo sự vinh quang của Giê-ru-sa-lem trong thời trị vì của vị Vua trên muôn vua. Trong ngày phước hạnh ấy, Giê-ru-sa-lem sẽ đóng vai trò nào?

II. DẪN GIẢI.

1. Giê-ru-sa-lem, Thành Của Vua Lớn.

Giê-ru-sa-lem còn có tên gọi là “Sa-lem”, có nghĩa “bình an” (Sáng 14:18). Trước kia Giê-ru-sa-lem ở trong tay dân Giê-bu-sít, nhưng bị vua Đa-vít chinh phục và trở thành đế đô của vương quốc Y-sơ-ra-ên thống nhất (2Sa 5:6-9). Từ đó Giê-ru-sa-lem đã trải qua nhiều thăng trầm theo dòng lịch sử Y-sơ-ra-ên và thế giới. Giê-ru-sa-lem đã có lần nổi bật như vì sao sáng của các dân trong thời hoàng kim của Sa-lô-môn, vị vua khôn ngoan xuất chúng, nhưng rồi bị tàn phá bởi bàn tay tàn bạo của vua Nê-bu-cát-nết-sa, tiếp theo là sự phá huỷ của quân La Mã; rồi đến gót chân giày xéo của quân Hồi Giáo; kế đó các dân bản xứ thay nhau tranh giành trong khi dân Do Thái bị tản lạc khắp thế giới. Sau đệ nhị thế chiến, dân Do Thái bắt đầu được trở về lập quốc trên mảnh đất tổ tiên ngày xưa, mà phần lớn bị người Ả-rập chiếm cứ. Giê-ru-sa-lem ở trong tình trạng bị phân chia đông và tây Giê-ru-sa-lem, và đông Giê-ru-sa-lem nằm trong tay người Hồi Giáo. Trong cuộc chiến chớp nhoáng gọi là “6 ngày của tháng 6” năm 1967, dân Do Thái với quân số nhỏ bé nhưng đã đánh tan lực lượng khổng lồ của liên minh Ai-cập. Kết cuộc, biên giới Do Thái được mở rộng thêm một phần tư so với phần đất hiện có, tái chiếm và ở dưới quyền kiểm soát của chính quyền Y-sơ-ra-ên. Đến mùa hè năm 1980, quốc hội Do Thái đã bỏ phiếu dời thủ đô về Giê-ru-sa-lem, với lời tuyên bố của thủ tướng Begin như sau: “Giê-ru-sa-lem, thành của Đa-vít là thủ đô muôn đời của dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, và sẽ mãi mãi bất phân chia cho tất cả mọi thế hệ trong tương lai”. Mặc dầu đã có dự án tái thiết đền thờ Giê-ru-sa-lem, nhưng hiện nay đền thờ Hồi Giáo vẫn còn tọa lạc trên phần nền cũ của đền thờ Giê-ru-sa-lem vang bóng một thời mà vua Sa-lô-môn xây cất. Đây là một chướng ngại vật chẳng khác nào như cái gai trước mắt người Do Thái! Mặc dầu theo luật, người Do Thái phải tôn trọng tín ngưỡng của mọi tôn giáo và các nơi thánh, nhưng sự tranh chấp chủ quyền phần đất Giê-ru-sa-lem giữa người Do Thái và Hồi Giáo vẫn là vấn đề nóng bỏng và cứ âm ỷ cháy cho đến một ngày nào đó lời tiên tri trong Kinh Thánh được ứng nghiệm hoàn toàn cho thành phố lịch sử đặc thùnày. Trong lịch sử loài người, không có thành phố nào trải qua nhiều biến cố, tai ương như Giê-ru-sa-lem. Không có thành nào nhận được lời hứa phước hạnh và hoà bình trong tương lai như Giê-ru-sa-lem muôn thuở! Không có thành nào được vinh hạnh của lời hứa trở nên ngôi trị vì Vua trên muôn vua. Cũng như không có thành nào được gọi là “thành yêu dấu của Chúa” như Giê-ru-sa-lem! Ngay từ buổi ban đầu, Giê-ru-sa-lem là nơi ngự trị của Mên-chi-xê-đéc, vị vua hoà bình của Sa-lem. Và trong ngày sau cùng của thế giới, Đấng Christ, con vua Đa-vít cũng được gọi là Mên-chi-xê-đéc sẽ làm vua Giê-ru-sa-lem, đem hòa bình cho các dân trên đất.

Như lời tiên tri Xa-cha-ri đã rao báo, Giê-ru-sa-lem hay là Si-ôn, tên một ngọn đồi phía đông nam Giê-ru-sa-lem sẽ được xây lại. Thành này sẽ được gọi là thành chân thật, là núi thánh của Đức Giê-hô-va, để làm nơi ngự trị cho vị Vua Lớn sắp đến (Xa-cha 8:1-3). Trong sự trị vì của Đấng Mê-si, Giê-ru-sa-lem chẳng những là thủ đô của quốc gia Y-sơ-ra-ên phục hồi, nhưng còn là thủ đô của thế giới. Phước hạnh sẽ ra từ Giê-ru-sa-lem, các dân tộc, các thứ tiếng khắp nơi sẽ đổ về Giê-ru-sa-lem để tìm kiếm Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên và ơn thương xót của Ngài: “…có nhiều dân và nhiều nước mạnh sẽ đến tìm kiếm Đức Giê-hô-va vạn quân tại Giê-ru-sa-lem, và ở đó nài xin ơn Đức Giê-hô-va” (Xa-cha 8:22). Trong thời vua Sa-lô-môn, có nhiều nước chạy đến nghe sự khôn ngoan của vua. Nhưng trong tương lai, Giê-ru-sa-lem sẽ có Đấng tôn trọng hơn vua Sa-lô-môn (Mat 12:42). Ngài sẽ ngồi trên ngôi Đa-vít, sẽ dẫn Y-sơ-ra-ên vào tuyệt điểm của vinh quang hơn cả thời hoàng kim xa xưa của vua Sa-lô-môn. Ngài sẽ khiến mọi dân tộc trên thế giới đến Giê-ru-sa-lem để biết luật pháp và sự công nghĩa của Đức Giê-hô-va (Xa 8:23; 14:8).

2. Đấng Trị Vì Giê-ru-sa-lem.

Sự kiện Chúa Giê-xu cỡi lừa (dấu hiệu của vua hoà bình) vào thành Giê-ru-sa-lem là điều ứng nghiệm lời tiên tri của Xa-cha-ri đã loan báo: “Hãy nói với con gái thành Si-ôn rằng: Nầy, Vua ngươi đến cùng ngươi, nhu mì, cỡi lừa và lừa con là con của lừa cái mang ách” (Xa 9:9; Mat 21:1-5). Như vậy, danh hiệu Đức Giê-hô-va là Vua Công Bình nhu mì cỡi lừa được mô tả trong Xa-cha-ri 9:9; 14:9 chỉ về Đấng Mê-si, tức là Chúa Cứu Thế Giê-xu. Ngài đã vào thành Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất để chịu giết làm nên sự cứu rỗi cho loài người. Ngài cũng sẽ cỡi lừa vào thành Giê-ru-sa-lem lần thứ hai để làm Vua trên muôn vua. Trong sự trị vì của Đấng Christ, Ngài sẽ giải cứu Y-sơ-ra-ên, đoán xét các nước nghịch cùng dân Chúa, dạy cho mọi người biết sự công nghĩa, chánh trực của Đức Giê-hô-va, và đem lại sự hoà bình cho khắp đất (Xa 2:10-12; 14:9-12; Mi 4:2-3).

Trong Xa-cha-ri 8:4-19; Xa-cha-ri cho chúng ta nhìn thấy viễn cảnh vô cùng phước hạnh của Giê-ru-sa-lem trong thời trị vì của Vua Hoà Bình, một quang cảnh thanh bình tràn đầy phước lạc, với dân cư đông đúc và trường thọ, với những ông bà cụ già cầm gậy thong thả đi trong các đường phố, với sự trở về vui mừng của người dân xa xứ lâu ngày, với sự công bằng xã hội và sự giàu mạnh, bình an của xứ sở. Trái hẳn với quang cảnh ảm đạm của Giê-ru-sa-lem trong thời Xa-cha-ri lúc ấy, với sự hoang vu, dân số ít ỏi và đầy chết chóc; với sự tản lạc lưu đày của dân sự; với sự bất công và đầy dẫy tội lỗi; với sự bất an, rủa sả và buồn bã.

Lời hứa phước hạnh của Giê-ru-sa-lem trong tương lai đã đem lại cho dân sự Chúa đang tản lạc niềm an ủi và hy vọng với lòng trông đợi sự hiện đến của Chúa Cứu Thế. Trong niềm mong chờ nầy, tiên tri Xa-cha-ri cũng đã có lời kêu gọi dân Chúa hãy tiến đến đời sống theo tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời với sự lánh xa điều ác và làm điều chân thật, công bình theo sự dạy dỗ của luật pháp Đức Chúa Trời (8:16-17) để có đời sống xứng đáng với người làm công dân của một thủ đô tiêu biểu cho sự công bình của thế giới, và để trở thành người đi rao giảng luật pháp Chúa cho muôn dân. Điều này nhắc nhở chúng ta: Muốn trở thành người dạy đạo cho kẻ khác, thì trước hết chính mình phải sống theo đạo ấy.

Tóm lại qua các dự ngôn của Xa-cha-ri, chúng ta có thể nhìn thấy Đấng Christ trong hình ảnh của Vua Hoà Bình sắp đến! Giê-ru-sa-lem là nơi trị vì của Ngài trong nước ngàn năm bình an. Nhìn vào các biến chuyển của thế giới hiện nay, cho thấy lời tiên tri của Xa-cha-ri đang và sẽ ứng nghiệm. Là người sẽ được dự phần trong Nước Chúa, chúng ta hãy cầu nguyện cho Giê-ru-sa-lem hòa bình (Thi 122:6), và cầu nguyện cho ngày Chúa mau đến, cũng như làm trọn sứ mạng của người đem ơn cứu rỗi của Chúa Giê-xu cho mọi người, và loan tin cho thế gian biết rằng Vua Hoà Bình của nhân loại sắp đến, Đấng mà chẳng những Cơ đốc nhân trông đợi, nhưng cả thế giới cũng đang mong chờ, để chấm dứt mọi bất công xã hội, trừ diệt chiến tranh, và đem lại bình an thực sự cho tất cả mọi người trên đất. Là điều khát khao nhất của con người mà trong đời này không ai có thể thỏa đáp ước mơ ấy.

III. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Thành Giê-ru-sa-lem trong tương lai:

a. Giê-ru-sa-lem được đặt trong vị thế nào? (Xa-cha-ri 8:1-3).

b. Giê-ru-sa-lem đóng vai trò gì? (Xa-cha-ri 8:20-23; 14:8).

2. Đấng trị vì Giê-ru-sa-lem:

a. Đấng trị vì Giê-ru-sa-lem là ai? (Xa 9:9; 14:9; Mat 21:1-9).

b. Trong sự trị vì của Chúa, Ngài sẽ làm gì cho Giê-ru-sa-lem và các dân trên đất? (Xa 2:10-12; 8:4-19; 14:9-12).

c. Xin đọc Xa-cha-ri 8:4-20: Mô tả quang cảnh của Giê-ru-sa-lem trong thời Xa-cha-ri và Giê-ru-sa-lem trong thời trị vì của Đấng Mê-si.

3. Trong sự rao báo lời hứa phước hạnh, Xa-cha-ri khuyến cáo dân sự điều gì? Tại sao? (Xa 8:16-19).

4. Qua sứ điệp, Xa-cha-ri rao báo Đấng Mê-si trong hình ảnh nào? Và khuyến khích Cơ Đốc nhân chúng ta hôm nay trong sứ mạng nào?

5. Ghi nhận những điểm quan trọng trong sứ điệp của Xa-cha-ri.

6. Nhìn lại chính mình, xin cho biết:

a. Đời sống bạn có sự chuẩn bị gì cho Nước hầu đến?

b. Lòng bạn trông đợi Vua Hoà Bình và sốt sắng rao báo sự hiện đến của Ngài như thế nào?

c. Bạn có thái độ nào đối với Giê-ru-sa-lem, thành của Vua Thánh?

 

 

 

* HIỂU BIẾT THƯỜNG THỨC.

CÁCH CHỌN TRÁI CÂY (tt)

– Chôm chôm, vải, nhãn ngon, nhiều nước là thứ vỏ mỏng, nặng. Nhãn nên lựa thứ to, màu sậm và nặng.

– Mít tố nữ có cuống chỉ chừng 0,5 cm. Đừng nhầm với mít tây có cuống dài hơn (1-1,5cm). Mít tây ăn chua hơn mít tố nữ.