Chuyên mục: THIẾU NHI

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 2/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 2/2024

in THIẾU NHI on 21 Tháng Tám, 2024

BÀI 7. CẦU NGUYỆN MỖI NGÀY

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 1, 2:1-11,18-21.

II. CÂU GỐC: “Lạy Đức Chúa Trời, con kêu cầu với Ngài vì Ngài sẽ nhậm lời con. Xin Chúa nghiêng tai nghe lời cầu nguyện của con.” (Thi thiên 17:6).

III. BÀI TẬP.

     1. Nặng quá!

Viết ra hai nan đề gia đình của hai người bạn mà em biết, rồi viết ra nan đề mà gia đình em gặp phải gần đây nhất. Sau đó cầu nguyện xin Đức Chúa Trời giúp đỡ.

  1. Trước và sau khi cầu nguyện.

Em tô màu đỏ lên những ô có hình         , rồi lấy các chữ trong ô đó điền vào chỗ trống trong phần “Trước khi cầu nguyện”. Tô màu xanh lên các ô có hình           , rồi lấy các chữ trong ô đó điền vào chỗ trống trong phần “Sau khi cầu nguyện”. Sau đó trả lời câu hỏi.   

Một cái. Gia đình. Con trai. Vào. Ban cho. Nói cho. Bình an. Lấy đi. Có được. Dịu dàng. Lên. Cầu nguyện. Vui mừng. Hoà bình. Hy vọng. Dài. Vuông. An uống. Sầu khổ. Tròn. Tin tưởng. Đừng quên. Trả lời. Yêu.

 

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 2/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 2/2024

in THIẾU NHI on 21 Tháng Tám, 2024

BÀI 7. CẦU NGUYỆN MỖI NGÀY

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 1, 2:1-11,18-21.

II. CÂU GỐC: “Lạy Đức Chúa Trời, con kêu cầu với Ngài vì Ngài sẽ nhậm lời con. Xin Chúa nghiêng tai nghe lời cầu nguyện của con.” (Thi thiên 17:6).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: An-ne có sự buồn khổ trong lòng, nên đến đền thờ cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời nghe lời cầu nguyện khi em hết lòng cầu nguyện với Ngài. 

– Hành động: Cầu nguyện cho những người thân trong gia đình.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Tìm ra đường đi.

  1. Mục đích: Cho các em tự tìm ra hành động quan trọng của nhân vật chính trong câu chuyện Kinh Thánh này.
  2. Tài liệu: Sách học viên trang tư liệu E.
  3. Thực hiện: Câu chuyện Kinh Thánh hôm nay kể về người phụ nữ tên là An-ne. Bà gặp một khó khăn rất lớn, cần phải được giải quyết. Cho các em mở sách học viên trang tư liệu E, và theo hướng dẫn hoàn thành bài tập.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

Khi sống chung trong một mái nhà, chắc chắn gia đình nào cũng gặp rắc rối. Trong bài học tuần trước, các em còn nhớ gia đình của ai đã gặp rắc rối giữa con cái trong nhà không? (Cho các em nhắc lại bài cũ). Hôm nay, các em sẽ thấy một người vợ trong gia đình đang gặp nỗi buồn khổ rất lớn. Bà rất cần được giúp đỡ. Nỗi buồn khổ của bà có được giải quyết không? Các em cùng nghe câu chuyện này nhé!

  1. Bài học.

Bà An-ne là vợ của ông Ên-ca-na. Đáng lẽ bà An-ne sống rất hạnh phúc, nhưng vì bà không có con nên bà rất buồn. Vào thời đó, người phụ nữ có chồng mà không có con là một sự sỉ nhục. Vì vậy, An-ne rất đau khổ.  

Nỗi đau khổ của bà càng lớn hơn khi người vợ thứ hai của ông Ên-ca-na là Phê-ni-na thường hay châm chọc chuyện không có con của bà (vào thời đó, một người đàn ông có hai vợ là chuyện bình thường). Bà Phê-ni-na có nhiều con, nên mỗi dịp cả gia đình đi thờ phượng Đức Chúa Trời, bà Phê-ni-na đều châm chọc An-ne. Các em nghĩ xem An-ne cảm thấy thế nào trước lời châm chọc của Phê-ni-na?

An-ne đau khổ đến phát khóc. Dù ông Ên-ca-na rất yêu thương bà, nhưng tình yêu của ông cũng không thể nào bù đắp nỗi đau khổ của bà. Bà đau buồn đến nỗi không muốn ăn uống gì hết.

Sau khi mọi người ăn uống xong, An-ne lẳng lặng đi vào đền thờ. Bà đến đó làm gì? (Cho các em đã hoàn thành phần sinh hoạt đầu giờ chia sẻ).

An-ne vừa thì thầm cầu nguyện vừa khóc. “Đức Chúa Trời ôi! Xin Ngài đoái xem nỗi sầu khổ của con! Xin Ngài đừng quên con! Nếu Ngài ban cho con một đứa con trai, con sẽ dâng nó cho Ngài. Trọn đời nó sẽ hầu việc Ngài”.

Lúc ấy, thầy tế lễ Hê-li ngồi gần đó thấy dáng điệu của An-ne thì tưởng bà say rượu. Các em đọc 1Sa-mu-ên 1:14 xem Hê-li nói gì với An-ne?

Hê-li quở trách vì ông không biết An-ne đang cầu nguyện, bà chỉ nói thầm thì trong miệng thôi. Vì thế, khi Hê-li hiểu ra, ông đã chúc phước cho bà.

Sau khi cầu nguyện xong, An-ne cảm thấy lòng nhẹ nhàng. Các em đọc 1:18 xem tâm trạng của An-ne lúc này như thế nào? (Vui vẻ, bình an, và muốn ăn uống). Trong lòng bà tràn ngập hy vọng, vì bà tin Đức Chúa Trời nghe và nhậm lời cầu nguyện của bà.

Sáng hôm sau, cả gia đình trở về nhà. Kinh Thánh cho chúng ta biết Đức Chúa Trời thực sự nghe lời cầu nguyện của An-ne. Không bao lâu sau đó, An-ne có thai và sanh một con trai. Bà đặt tên con là Sa-mu-ên, có nghĩa là “Đức Chúa Trời nhậm”.

Dĩ nhiên An-ne rất yêu thương Sa-mu-ên, không muốn rời xa con một giây phút nào. Nhưng các em còn nhớ bà đã hứa gì khi cầu nguyện với Đức Chúa Trời trong đền thờ không? (Dâng con cho Đức Chúa Trời). An-ne nhất định thực hiện lời hứa của mình. Đợi khi Sa-mu-ên dứt sữa, bà đem con đến đền thờ và dâng cho Đức Chúa Trời. Bé Sa-mu-ên ở lại với thầy tế lễ Hê-li trong đền thờ. Kinh Thánh không cho chúng ta biết chính xác lúc đó Sa-mu-ên bao nhiêu tuổi, chỉ cho biết “đứa trẻ hãy còn nhỏ lắm” (1Sa-mu-ên 1:24b). Sau khi thờ phượng Đức Chúa Trời xong, An-ne và Ên-ca-na trở về nhà, với lòng tin Đức Chúa Trời sẽ chăm sóc con mình.

Sa-mu-ên thơ ấu phục sự Đức Giê-hô-va. Đức Chúa Trời đã ban thưởng cho An-ne, bà có thêm 3 con trai và 2 con gái, còn Sa-mu-ên cứ phục sự Đức Giê-hô-va, trở thành quan xét của dân Y-sơ-ra-ên, và là tiên tri của Đức Chúa Trời.

  1. Ứng dụng.

         a. Ôn lại câu chuyện.

Cho các em mở sách học viên bài số 7 và theo gợi ý làm bài tập: “Trước và sau khi cầu nguyện”. Sau đó hỏi các em: “Nguyên nhân nào khiến bà An-ne trút đổ tâm sự của mình với Đức Chúa Trời?” “Bà An-ne bày tỏ sự yêu thương đối với Sa-mu-ên như thế nào?” (May áo cho con). Đối với những người thân sống xa nhà, em nên làm thế nào để bày tỏ tình yêu thương?  

         b. Học câu gốc.

Cho các em đọc câu gốc bài này, rồi hỏi các em: “Vì sao các em bày tỏ nỗi lòng của mình với Đức Chúa Trời?” (Đức Chúa Trời sẽ nghe và giúp đỡ). “Các em nghĩ sau khi Đức Chúa Trời ban Sa-mu-ên cho An-ne, bà sẽ còn cầu nguyện với Đức Chúa Trời điều gì nữa?”

          c. Áp dụng vào đời sống.

Giáo viên chia sẻ: “Mỗi gia đình đều có những khó khăn riêng. Người thân hoặc bản thân em gặp khó khăn gì trong gia đình? (Cho các em tự do chia sẻ, có thể có những vấn đề phức tạp như: Ba mẹ thường xuyên gây gỗ nhau, ba mẹ ly dị, không phải ba mẹ ruột…). Sau đó, cho các em theo gợi ý làm bài tập: “Nặng quá!” và khuyến khích các em đem tất cả mọi khó khăn, cùng niềm vui lẫn nỗi buồn kể cho Đức Chúa Trời nghe. Chắc chắn, Ngài sẽ an ủi và giúp đỡ các em.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 2/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 2/2024

in THIẾU NHI on 21 Tháng Tám, 2024

BÀI 6. SỐNG THA THỨ

I. KINH THÁNH: Sáng thế ký 32:3-23, 33:1-16.

II. CÂU GỐC: “Nếu một người trong anh em có điều gì phàn nàn với người khác thì hãy nhường nhịn nhau và tha thứ nhau; như Chúa đã tha thứ anh em thể nào thì anh em cũng phải tha thứ thể ấy” (Cô-lô-se 3:13).

III. BÀI TẬP.

  1. Hành động hạ nhiệt.

Em đọc các tình huống sau đây và tô màu lên nhiệt kế bày tỏ cảm nhận của em. Màu đỏ: Rất tức giận. Màu vàng: Không vui. Màu xanh: Không có vấn đề gì. Sau đó viết ra lời cầu nguyện của em xin Chúa giúp em tha thứ.

  1. Trên đường về nhà.

Em theo số thứ tự xem câu đó đúng hay sai, rồi chọn hướng đi. Nếu câu đúng thì đi theo hướng phải, còn nếu câu sai thì đi theo hướng trái.

Khởi hành

 

  • Đúng Hoặc Sai.
  1. Gia-cốp rời khỏi nhà nên mãi mãi nghèo khổ.
  2. Gia-cốp lo sợ Ê-sau sẽ giết mình.
  3. Gia-cốp cầu xin Chúa giúp đỡ.
  4. Gi-cốp tặng lễ vật của Ê-sau.
  5. Cuối cùng, Ê-sau nhất định không nhận lễ vật.
  6. Ê-sau tha thứ cho Gia-cốp.
BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 2/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 2/2024

in THIẾU NHI on 21 Tháng Tám, 2024

BÀI 6. SỐNG THA THỨ

I. KINH THÁNH: Sáng thế ký 32:3-23, 33:1-16.

II. CÂU GỐC: “Nếu một người trong anh em có điều gì phàn nàn với người khác thì hãy nhường nhịn nhau và tha thứ nhau; như Chúa đã tha thứ anh em thể nào thì anh em cũng phải tha thứ thể ấy” (Cô-lô-se 3:13).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ê-sau đã tha thứ cho Gia-cốp.

– Cảm nhận: Tha thứ cho người khác là bày tỏ tình yêu thương. 

– Hành động: Nhường nhịn và tha thứ cho anh chị em trong gia đình.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Chuyện hai anh em.

  1. Mục đích: Khơi cho các em sự thích thú để học tập câu chuyện Kinh Thánh này.
  2. Tài liệu: Sách học viên trang tư liệu D.
  3. Thực hiện: Câu chuyện Kinh Thánh hôm nay tiếp tục nói về hai anh em Ê-sau và Gia-cốp. Giáo viên cùng các em ôn lại trọng tâm câu chuyện Kinh Thánh bài trước. Sau đó, cho các em theo chỉ dẫn hoàn thành bài tập trong trang tư liệu D.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

Có những lúc chúng ta làm một việc gì đó nhưng không nghĩ đến hậu quả, nên đôi lúc cảm thấy hối tiếc (Giáo viên chia sẻ kinh nghiệm của mình). Tình trạng của Gia-cốp bây giờ cũng như vậy. Có lẽ Gia-cốp rất nhớ nhà, nhất là mẹ, nhưng chàng không dám trở về. Hai mươi năm đã trôi qua. Gia-cốp đã có vợ và con cái.

Một ngày nọ, Đức Chúa Trời phán với Gia-cốp đã đến lúc trở về quê nhà. Các em đoán xem Gia-cốp suy nghĩ như thế nào? Nếu Ê-sau biết Gia-cốp trở về, thì anh ta cảm thấy thế nào? (Cho các em đã thực hiện xong phần sinh hoạt đầu giờ chia sẻ). Bây giờ, các em xem Kinh Thánh kể về câu chuyện này như thế nào nhé!

  1. Bài học.

Có một đoàn người đang đi trên đường, đàn súc vật đi theo sau. Đó là gia đình của Gia-cốp và những tôi tớ đang trên đường trở về nhà. Bây giờ, Gia-cốp đã trở nên giàu có. 20 năm qua, Gia-cốp sống trong gia đình của cậu mình, và ông vẫn luôn tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời, sẽ có một ngày ông được trở về quê hương. Bây giờ, lời hứa đó đã thành hiện thực. Dầu vậy, Gia-cốp vẫn cảm thấy lo lắng và sợ hãi.

Gia-cốp cho một vài người đi trước gặp Ê-sau. Các em đọc Sáng thế ký 32:4-5 xem Gia-cốp dặn các đầy tớ mình nói gì?

Gia-cốp hy vọng những lời chào hỏi trước sẽ khiến anh trai mình nguôi giận và tha thứ cho. Nhưng khi các tôi tớ về thuật lại là Ê-sau sẽ đem 400 người đi đón, thì Gia-cốp rất sợ hãi. Các em thấy 400 người giống một đội quân không? Ê-sau có ý định gì đây? Gia-cốp rất lo lắng! Ông nghĩ cách làm thế nào để tránh bị thiệt hại nếu Ê-sau tấn công. Vì vậy, ông chia những người đi theo làm hai đội, súc vật cũng chia làm hai. Nếu Ê-sau tấn công 1 trong 2 đội thì đội còn lại có thể chạy thoát. Tiếp đến, Gia-cốp làm một việc khôn ngoan hơn, đó là cầu xin Đức Chúa Trời bảo vệ gia đình của mình.

Đến tối, Gia-cốp chọn những súc vật mập nhất và chia ra ba bầy để làm quà cho Ê-sau. Các em đọc Sáng 32:17,18 xem lần này Gia-cốp dặn các đầy tớ mình nói gì? Gia-cốp nghĩ rằng gởi quà đi trước sẽ khiến Ê-sau vui lòng, không tấn công mình nữa.

Sáng hôm sau, Gia-cốp nhìn thấy từ xa có rất nhiều người đi về phía mình. Đúng là đoàn người của Ê-sau rồi! Gia-cốp lập tức bảo phụ nữ và trẻ em đi ra phía sau, còn chính ông đi trước. Khi đến gần anh trai, Gia-cốp cúi mình xuống liên tiếp 7 lần, bày tỏ sự hạ mình. Các em nghĩ Ê-sau có thấy tấm lòng của Gia-cốp không?

Kinh Thánh cho chúng ta biết, Ê-sau chạy đến ôm choàng lấy em mà hôn. Một hình ảnh rất cảm động, phải không? Chắc nhiều người chứng kiến cảnh đó đã khóc, nhất là phụ nữ. Không những các bà thôi đâu, mà chính Ê-sau và Gia-cốp cũng khóc. Các em thấy hình ảnh hai anh em ôm nhau khóc nói lên điều gì? (Cho các em nói ra suy nghĩ của mình). Gia-cốp biết Ê-sau đã thực sự tha thứ cho mình.

Gia-cốp giới thiệu vợ con của mình cho Ê-sau biết, và nài xin Ê-sau vui lòng nhận lễ vật của mình. Vậy là sau 20 năm xa cách, tình yêu thương và sự tha thứ đã nối họ lại với nhau. Nếu không có sự tha thứ, chắc chắn sẽ không có cuộc gặp mặt cảm động ngày hôm nay, và mãi mãi họ sống trong hận thù.

  1. Ứng dụng.

      a. Ôn lại bài học.

Cho các em mở sách học viên bài số 6 và theo chỉ dẫn làm bài tập “Trên đường về nhà”. Sau đó cho các em thảo luận: “Gia-cốp đã có những hành động gì chứng tỏ ông rất muốn làm hòa với Ê-sau?” “Ê-sau đã bày tỏ tình yêu thương và sự tha thứ đối với Gia-cốp như thế nào?” “Nếu Ê-sau không chịu tha thứ thì sẽ ra sao?” (Cho các em trả lời).

      b. Học câu gốc.

Cho các em đọc câu gốc rồi thảo luận: “Thế nào là phàn nàn?” “Có từ nào đồng nghĩa với nó không?”, “Thế nào là sự nhịn nhục?” (Chịu đựng sự quấy phá của người khác với tinh thần cảm thông, cho người đó có cơ hội sửa đổi). “Thế nào là tha thứ?” (Không nhớ đến lỗi lầm của người khác, trở lại mối quan hệ như trước). Vì sao chúng ta phải tha thứ cho người khác? (Vì Đức Chúa Trời đã tha thứ cho chúng ta).

     c. Áp dụng vào đời sống.

Giáo viên: “Có lúc người khác không cố ý làm những việc khiến cho các em buồn. Vì vậy, các em cần phải học tập tha thứ, cho dù người đó có cố ý làm cho các em buồn đi nữa, thì cũng phải tha thứ. Các em nên ghi nhớ: Chúa đã và luôn luôn tha thứ cho các em. Ngài muốn các em tha thứ cho người khác. Việc làm đó bày tỏ các em có tình yêu thương, và là con cái của Đức Chúa Trời.

Tuy nhiên, tha thứ không phải là việc dễ làm, nhất là người khác làm cho em bị tổn thương quá nhiều. Phải mất 20 năm, Ê-sau mới có thể tha thứ cho Gia-cốp. Các em có thể tha thứ được không? Nếu các em thật lòng muốn tha thứ, Đức Chúa Trời sẽ giúp các em”.

Sau đó cho các em theo gợi ý làm bài tập: “Hành động hạ nhiệt” rồi thảo luận: “Trong tình huống nào, người thân của các em làm cho các em rất tức giận?” “Em đã làm gì?” (Cho các em chia sẻ những gì đã viết). 

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 1/2024

in THIẾU NHI on 19 Tháng Tám, 2024

BÀI 13. BÀI ÔN

BÀI KHẢO SÁT.

(Khoanh tròn câu trả lời đúng).

  1. Trong ví dụ “Người gieo giống”, hạt giống rơi vào bụi gai tượng trưng cho:
  1. Người không hiểu Lời Chúa.
  2. Người tạm thời tin Chúa.
  3. Người có niềm tin bị lụi tàn bởi cuộc sống bận rộn.

    2. Loại đất tốt tượng trưng cho:

  1. Người nghe hiểu, tin, làm theo Lời Chúa.
  2. Người tin theo Lời Chúa.
  3. Cả hai đều đúng.

    3. Người Giu-đag hét người Sa-ma-ri vì họ:

  1. Nghèo.
  2. Dân lai.
  3. Tàn bạo.

    4. Theo em, bí quyết để trở thành người lân cận tốt là:

  1. Có lòng nhân ái.
  2. Sửa đổi tâm tính.
  3. Hết lòng yêu mến Chúa.

    5. Khi rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, người con trai hoang đàng đã:

  1. Mặc cảm xa lánh mọi người.
  2. Quyết định quay trở về nhà.
  3. Trộm cắp.

    6. Trong ví dụ “Tình cha con”, qua hình ảnh người cha, em thấy Đức Chúa Trời:

  1. Yêu thương, tha thứ.
  2. Sẵn sàng tiếp nhận người có tội ăn năn.
  3. Cả hai đều đúng.

    7. Chúa Jêsus kể ví dụ về “Người trồng nho độc ác”với mục đích cho dân chúng biết:

  1. Ngài chính là Con Đức Chúa Trời xuống thế gian chết thay tội lỗi cho nhân loại.
  2. Nhân loại không tiếp nhận Ngài.
  3. Cả hai đều đúng.

    8. Chúa Jêsus cưỡi lừa tiến vào thành phố Giê-ru-sa-lem như một:

  1. Vị anh hùng.
  2. Vị vua.
  3. Vị tướng.

    9. Dân chúng mong muốn Chúa Jêsus:

  1. Giải cứu họ ra khỏi tội lỗi.
  2. Giải phóng họ ra ách thống trị của người La-mã.
  3. Cho họ cuộc sống giàu sang.

    10. Quân lính La-mã dễ dàng bắt Chúa Jêsus vì:

  1. Chỉ có Ngài và 11 sứ đồ.
  2. Các sứ đồ sợ hãi không bảo vệ Chúa.
  3. Ngài tự nguyện nộp mình.

    11. Bảng định tội Chúa Jêsus được gắn phía trên đầu thập tự giá, ghi bằng các thứ tiếng:

  1. La-tinh, Gờ-réc, Hê-bơ-rơ.
  2. La-tinh, Hy-lạp, Hê-bơ-rơ.
  3. Gờ-réc, Hê-bơ-rơ, Hy-lạp.

    12. Trong giờ phút đau thương trên thập tự giá, Chúa Jêsus đã tha thứ cho:

  1. Những người đóng đinh Ngài.
  2. Cho một tên cướp.
  3. Câu a đúng.
  4. Câu a và b đúng.

    13. Chúa Jêsus cùng đi với hai môn đồ về làng Em-ma-út, nhưng họ không nhận biết Ngài, vì:

  1. Họ bận cãi nhau.
  2. Lòng buồn rầu, thất vọng.
  3. Cả hai đều đúng.

    14. Chúa Jêsus phục sinh, chứng tỏ Ngài là:

  1. Con Đức Chúa Trời.
  2. Đấng sống đời đời.
  3. Cả hai đều đúng.

    15. Muốn trở thành người trong nhà Đức Chúa Trời, phải:

  1. Đi nhà thờ thường xuyên.
  2. Đời sống được đổi mới.
  3. Tham gia ban hát.

    16. Chúa Jêsus dạy khi cầu nguyện:

  1. Không lặp đi lặp lại.
  2. Không nói cố ý cho người khác nghe.
  3. Không nói nhỏ quá.
  4. Câu a, b đúng.

    17. Khi cầu nguyện, em nên:

  1. Thực lòng.
  2. Nhận biết sự yếu đuối của mình.
  3. Tin cậy Chúa.
  4. Cả ba đều đúng.

    18. Em làm chứng về Chúa bằng cách:

  1. Thuật lại ơn phước của Chúa cho người khác.
  2. Không phạm tội.
  3. Cầu nguyện giữa đám đông.

    19. Chúa Jêsus thẩm định giá trị của sự dâng hiến qua:

  1. Số tiền dâng nhiều hay ít.
  2. Tấm lòng yêu mến Chúa.
  3. Cả hai đều sai.

    20. Em có thể dâng hiến cho Chúa:

  1. Tiền bạc.       b. Thời gian.

    c. Khả năng.       d. Tấm lòng em.         

    e. Tất cả.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 1/2024

in THIẾU NHI on 19 Tháng Tám, 2024

BÀI 13. BÀI ÔN

   Bạn thân mến!

   Trước hết, bạn dâng lời cảm ơn Chúa vì ba tháng đã trôi qua nhanh chóng, bạn đã trực tiếp cho các em“ăn thức ăn thuộc linh”. Bây giờ là lúc bạn nhìn xem thành quả của mình như thế nào? Các em có nhớ những gì bạn đã dạy không? Và một việc quan trọng là các em có làm theo Lời Đức Chúa Trời không? Thiết nghĩ, các em làm theo Lời Chúa là phần thưởng vô giá dành cho bạn.

   Bạn sẽ tuần tự ôn lại mười hai bài học qua bằng những cách sau.

  1. Chia tổ cho các em bắt thăm đóng kịch.
  2. Kể chuyện tiếp sức.
  3. Đố Kinh Thánh bằng trí nhớ.

   Bằng cách nào cũng được, miễn sao trong giờ ôn tập, các em vừa được vui chơi, vừa nhớ lại những gì đã học, đừng để quá căng thẳng trong giờ nầy. Nên chia làm hai tổ để thi đua.

   Sau khi ôn xong, bạn cho các em làm BÀI KHẢO SÁT trong Tập Học Viên. Khi chấm bài của các em, bạn cần chú ý học lực và khả năng của từng em. Có em làm bài nhanh và đúng, cũng có em làm chậm và sai sót. Bạn cần giúp đỡ các em yếu kém, và khen ngợi tất cả các em đã cố gắng làm bài.

   Bạn chính là động lực, là tấm gương sáng cho các em noi theo. Sự giảng dạy nhiệt tình, sự giúp đỡ tận tình, khen thưởng thật lòng của bạn là nguồn động viên cho các em làm theo lời Chúa. Bạn nên làm một bản “Tìm hiểu học sinh của bạn”, tham khảo mẫu dưới đây.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 1/2024

in THIẾU NHI on 19 Tháng Tám, 2024

BÀI 12. VUI LÒNG DÂNG HIẾN

 

I. KINH THÁNH: Lu-ca 21:1-4; Giăng 12:1-8; Công Vụ 4:32-37.

II. CÂU GỐC: “Mỗi người nên tùy theo lòng mình đã định mà quyên ra, không phải phàn nàn hay là vì ép uổng; vì Đức Chúa Trời yêu kẻ dâng của cách vui lòng” (2Cô-rinh-tô 9:7).

III. BÀI TẬP.

  1. Sự dâng hiến của em.

   Em có cần phải dâng hiến không? Có lẽ nhiều em thiếu nhi thắc mắc về việc đó. Dựa vào bản sau, em suy nghĩ xem mình có thể dâng hiến những gì cho Chúa?

  1. Kết ước với Chúa.

   Tại sao không bắt đầu học tập dâng hiến cho Chúa? Em điền vào bản kết ước sau.

  1. Hãy tặng một món quà cho bạn em.

   Trong tuần nầy, em tặng cho bạn em một món quà. Có thể chọn một trong hai món quà tự làm sau đây để tặng bạn, anh em, hay cha mẹ.

  1. Trồng khoai: Đặt đầu nhọn của khoai lang hoặc khoai tây vào ly nước bằng cách ghim vài cây tăm để củ khoai khỏi rơi xuống (xem hình). Đợi của khoai mọc lá và rễ, chuyển sang chậu, mang tặng bạn.

      2. Em có thể dùng vải, giấy màu, hoặc giấy bìa, sáng tạo nên những hình ảnh mà em thích, như trái tim, thập tự giá, hình chữ nhật…rồi viết lên trên đó những điều mà em muốn nhắn gửi.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 1/2024

in THIẾU NHI on 19 Tháng Tám, 2024

BÀI 12. VUI LÒNG DÂNG HIẾN

 

I. KINH THÁNH: Lu-ca 21:1-4; Giăng 12:1-8; Công Vụ 4:32-37.

II. CÂU GỐC: “Mỗi người nên tùy theo lòng mình đã định mà quyên ra, không phải phàn nàn hay là vì ép uổng; vì Đức Chúa Trời yêu kẻ dâng của cách vui lòng” (2Cô-rinh-tô 9:7).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Đức Chúa Trời muốn em dâng hiến tiền bạc, tài năng, thời gian, bản thân cho Chúa.

– Cảm nhận: Vui lòng dâng hiến vì em yêu mến Chúa và Đức Chúa Trời rất vui lòngvề thái độ đó.

– Hành động: Vạch kế hoạch dâng hiến tiền bạc, tài năng, thời gian và bản thân cho Chúa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. CHUẨN BỊ.

  1. Kiểm tra các em đã gởi thiệp mời bạn mới chưa, trễ nhất là tuần nầy phải gởi, để các bạn tham gia quí tới.
  2. Hướng dẫn các em làm thủ công “Hộp dâng hiến”, giúp các em nhớ dâng hiến thường xuyên cho Chúa bằng nhiều cách có thể làm được.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

   Các em thân mến! Các em đã được nghe nói nhiều về tấm lòng của Đức Chúa Trời đối với các em, mà quan trọng nhất là Ngài cho các em trở thành con cái Ngài. Vì các em là con cái Chúa, nên Chúa muốn các em trở thành những người con khỏe mạnh, trưởng thành. Ngoài ra, Chúa còn muốn các em làm gì nữa? (Để các em suy nghĩ).

   Thật ra, Chúa muốn các em làm nhiều việc: Đọc Kinh Thánh, cầu nguyện và làm chứng về Chúa Jêsus. Hôm nay, các em sẽ học một điều nữa: Dâng hiến. Nhiều khi các em nghĩ dâng hiến là việc của người lớn. Nhưng các em nghĩ lại xem, sự suy nghĩ đó có đúng không? Các em sử dụng tiền bạc bamẹ chomỗi ngày như thế nào? Các emcó dâng hiến một phần số tiền nầy cho Chúa không? Hay các em cho mình quyền sử dụng hết số tiền đó, muốn làm gì thì làm? (Có thể có nhiều em không đồng ý dâng hiến, giáo viên nên lắng nghe các em giãi bày lý do, rồi tiếp tục giảng dạy, mong rằng lời Đức Chúa Trời thông qua bài học nầy được các em tiếp thu và vâng theo).

Bài học nầy giúp các em tìm hiểu những vấn đề chính của sự dâng hiến.

– Thái độ dâng hiến như thế nào?

– Dâng hiến những gì?

– Có cần dâng hiến không?

  1. Bài học.

(1) Thái độ dâng hiến.

     a. Sự dâng hiến của bà góa nghèo.

   Một hôm, Chúa Jêsus dạy dỗ dân chúng ở đền thờ xong, thì đi sang hành lang dành cho phụ nữ. Đó là một hành lang ngay phía trước đền thờ. Dọc theo tường hành lang có 13 thùng dâng hiến để các phụ nữ bỏ tiền vào đó dâng cho Đức Chúa Trời.

   Chúa Jêsus nhìn thấy nhiều người đàn bà mặc quần áo sang trọng bước vào, bỏ nhiều tiền vào thùng dâng hiến. Một lúc sau, một bà góa bước vào. Bà góa nầy mặc quần áo cũ kỹ, nhìn qua ai cũng biết bà rất nghèo, có lẽ chồng bà chết đã lâu, nên bà không có tiền mua quần áo mới. Nhưng bà góa nầy rất yêu mến Chúa, bà muốn dâng hiến cho Chúa một số tiền để bày tỏ lòng kính yêu Đức Chúa Trời. Thế là bà nhìn quanh, thấy không có ai chú ý liền rón rén bước đến thùng dâng hiến, bỏ vào đó hai đồng tiền, đơn vị tiềntệ nhỏ nhất thời đó, nhưng tấm lòng bà đối với Chúa thật lớn. Bà muốn dâng hiến vì bà vô cùng yêu thương Chúa.

   Bà góa nghèo rón rén bỏ tiền vào thùng xong, vội đi ngay. Bà không muốn mọi người thấy và chú ý đến mình. Nhưng Chúa Jêsus thấy rất rõ. Có lẽ không ai cảm động vì của lễ nhỏ nhoi của bà, nhưng Chúa Jêsus rất cảm động vì Ngài biết hai đồng tiền đó là tất cả những gì bà góa có. Sau khi dâng xong, bà sẽ không còn tiền để mua thứ căn trong ngày. Có thể nói, bà đã dâng hết tài sản của mình cho Chúa.

   Chúa Jêsus gọi các môn đồ đến, Ngài phán: “Bà góa nghèo khổ nầy đã dâng nhiều hơn tất cả những người kia!”

Các em thấy lạ không? Chúa Jêsus giải thích rõ rằng số tiền bà góa dâng hiến tuy ít ỏi, nhưng đó là tất cả những gì bà có. Còn những người giàu dâng hiến nhiều tiền, nhưng đó là tiền của dư thừa. Chúa Jêsus không đánh giá sự dâng hiến qua số tiền nhiều hay ít, mà Ngài đánh giá qua tấm lòng. Vì yêu mến Đức Chúa Trời, nên người đàn bà góa nghèo đã dâng hết cho Chúa số tiền ít ỏi của mình.

      b. Sự dâng hiến của Ma-thê và Ma-ri.

   Dâng hiến không có nghĩa là chỉ dâng tiền bạc cho Chúa, mà chúng ta còn có thể dâng nhiều thứ khác cho Đức Chúa Trời. Có một lần, Chúa Jêsus cùng các môn đồ đến thăm một gia đình nọ, chúng ta xem họ dâng hiến cho Chúa những gì?

   Đó là gia đình của ba anh em: La-xa-rơ, Ma-thê và Ma-ri. Các em còn nhớ những người nầy không? (Cho các em nhắc sơ lại). Gia đình nầy rất yêu mến và biết ơn Chúa, vì Ngài đã làm nhiều điều cho họ.

   Hôm đó, trong khi Ma-thê chuẩn bị bữa ăn tối để đãi Chúa Jêsus, thì Ma-ri lấy chai dầu cam tùng hương nguyên chất rất quí giá, đổ dầu ra xức chân Chúa, rồi lấy tóc mình lau chân Ngài, hương thơm ngào ngạt khắp nhà (Giăng 12:3). Thấy hành động của Ma-ri, có người tức giận nói: “Thật phí của! Bình dầu thơm nầy rất qúi giá, sao chị không đem bán, lấy tiền giúp người nghèo!”

   Chúa Jêsus không trách Ma-ri. Ngài biết Ma-ri dâng hiến để tỏ lòng yêu mến Ngài. Chúa Jêsus phán: “Hãy để mặc người, người đã để dành dầu thơm nầy cho ngày chôn xác Ta”.

   Như vậy, Ma-ri và Ma-thê đã dâng hiến gì cho Chúa Jêsus? (Cho các em trả lời. Ma-thê đã dâng hiến tài năng và thời gian để chuẩn bị bữa tối thật ngon đãi Chúa, còn Ma-ri dâng hiến lòng yêu mến, giống như người đàn bà góa dâng hết mọi thứ mình có. Ma-ri và Ma-thê đã làm điều mình có thể làm được).

   Theo các em, sự dâng hiến của Ma-thê và Ma-ri có bằng sự dâng hiến của người đàn bà góa nghèo khổ không? (Nếu các em không biết trả lời, giáo viên có thể đợi dạy hết bài rồi hỏi lại).

     c. Sự dâng hiến của một địa chủ.

   Các em xem sự dâng hiến của một người khác: Một địa chủ. Sau khi Chúa Jêsus về trời, các môn đồ thành lập một Hội Thánh ở Giê-ru-sa-lem. Mục tiêu của Hội Thánh là hầuviệc và thờ phượng Chúa. Vì yêu mến Đức Chúa Trời nên họ nhóm lại, quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau.

   Lúc đó, các tín đồ đều cho rằng tất cả mọi thứ họ có được như: Ruộng đất, trâu bò, nhà cửa…đều do Đức Chúa Trời ban cho. Các tín đồ ở Giê-ru-sa-lem muốn được sống một cuộc sống mà mọi thứ đều là của chung. Những người giàu có bán ruộng đất, đem tiền dâng hiến cho Hội Thánh, Hội thánh dùng số tiền nầy giúp đỡ những tín đồ nghèo khổ, những người đàn bà góa. Họ làm vậy hoàn toàn vì yêu mến Chúa, chứ không ai ép buộc, họ vui lòng dâng hiến.

   Nổi bật nhất là một địa chủ tên Ba-na-ba. Ông yêu Chúa vô cùng, nên bán ruộng đất, sản nghiệp của mình, dâng hết tiền bạc cho Chúa, không để lại đồng nào cho bản thân. Khi chia sẻ hết gia tài của mình cho các con cái Chúa trong Hội Thánh, Ba-na-ba không mất mát mà ngược lại, người sống vui sướng nhất là ông.

(2) Của lễ quí giá nhất.

   Bây giờ, các em so sánh sự dâng hiến của Ma-thê, Ma-ri, Ba-na-ba và của người đàn bà góa nghèo khổ? Đức Chúa Trời thấy thế nào? (Đợi các em suy nghĩ và nêu ý kiến, giáo viên cần nhấn mạnh: Đức ChúaTrời không xem trọng tiền dâng hiến nhiều hay ít, mà Ngài xem trọng tấm lòng người đó đối với Ngài). Trong mắt Đức Chúa Trời, cả bốn sự dâng hiến ấy đều đẹp lòng Chúa, vì cả bốn người đều vui lòng dâng hiến, chứng tỏ họ rất yêu mến Đức Chúa Trời.

   Ngoài tiền bạc, chúng ta có thể dâng hiến nhiều thứ. Ma-thê dâng hiến những gì? (Thời gian, khả năng). Còn Ma-ri cũng không dâng hiến tiền bạc, mà dâng hiến bình dầu, có lẽ là thứ quí giá nhất mà cô có.

   Sự dâng hiến của bốn người: Bà góa, Ba-na-ba, Ma-thê, Ma-ri giống và khác nhau ở chỗ nào? (Cho các em trả lời. Cần nhấn mạnh: Dâng hiến không chỉ là tiền bạc, mà còn là thời gian, tài năng, hoặc chia sẻ với bạn bè trong Hội Thánh những gì mình có).

   Các em cùng thảo luận ví dụ cụ thể sau.

   Em cầu nguyện xin Chúa cho có tiền mua bộ đồ chơi xe lửa. Bây giờ em đã có đủ. Nhưng Chúa cảm động em dâng hiến. Em có dâng hiến một phần số tiền đó cho Chúa không? Nếu dâng hiến thì em không đủ tiền mua đồ chơi nữa. Bây giờ có hai cách: (1)Mua đồ chơi trước, sauđó để dànhtiềndânghiến sau. (2) Dâng hiến trước, rồi để dành tiền mua bộ đồ chơi sau. Em chọn cách nào? Tại sao? (Giúp các em hiểu: Đức Chúa Trời đáp lời cầu nguyện của em, em phải tạ ơn Ngài. Bây giờ em có khả năng dâng hiến, nhưng em cứng lòng không chịu làm, dần dần em sẽ rơi vào tình trạng không bao giờ thỏa mãn với những gì mình có, không biết tạ ơn Chúa, và không bao giờ dâng hiến. Nên nhớ rằng Chúa ban cho các em năng lực làm việc, và Ngài không bao giờ phụ lòng người đã vui lòng dâng hiến cho Ngài).

  1. Ứng dụng.

   Các em thân mến! Có khi nào các em thắc mắc như thế nầy chưa? “Chúng ta dâng hiến cho Hội Thánh, sao lại nói dâng hiến cho Chúa?” (Số tiền dâng hiến đó được sử dụng để làm công việc Chúa).

Tóm lại: Sau khi học bài nầy, các em nhận được sự dạy dỗ gì về sự dâng hiến? (Khuyến khích các em trả lời).

– Thứ nhất: Chúa Jêsus không nhìn vào của dâng mà nhìn lòng tấm lòng của người dâng. Tấm lòng quan trọng hơn của lễ, nên các em không cần e ngại khi mình chỉ có số tiền dâng ít quá. Nếu ít nhưng tấm lòng em yêu mến Chúa và dâng với thái độ trân trọng thì các em vẫn được Chúa khen ngợi.

– Thứ hai: Em không nên nghĩ rằng: “Em còn nhỏ nên chưa có chi dâng cho Chúa!”. Có thể dâng hiến cho Chúa thời gian  (đọc Kinh Thánh, thờ phượng Chúa, quét dọn nhà thờ, thăm viếng…), khả năng (hát, trang trí phòng học, tiếp đón bạn mới…), dâng hiến chính bản thân mình cho Chúa. Khi các em làm cho một ai thì cũng là các em đang làm cho Chúa. Những ngày qua các em đã sắp xếp thời gian dành cho Chúa như thế nào? Các em miễn cưỡng dâng hiến hay xuất phát từ tấm lòng yêu mến Chúa. Nên nhớ Chúa Jêsus yêu mến những người dâng hiến cách vui lòng, và dĩ nhiên Ngài sẽ ban phước cho người đó.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 1/2024

in THIẾU NHI on 19 Tháng Tám, 2024

BÀI 11. CHỨNG NHÂN NHỎ CỦA CHÚA

 

I. KINH THÁNH: Mat 28:16-20; Công1:8; 4:13-22; 11:19-26.

II. CÂU GỐC: “Tôi xin nhắc lại sự nhân từ của Đức Giê-hô-va, và sự ca ngợi Đức Giê-hô-va, Vì mọi điều Đức Giê-hô-va đã làm cho chúng ta” (Ê-sai 63:7a).

III. BÀI TẬP.

  1. Làm chứng là gì?

   Khi em chứng kiến một việc xảy ra, em có thể kể lại việc đó một cách trung thực không? Khi xem một trận bóng đá hay, em có bàn luận và khen các cầu thủ giỏi không?

Vậy làm chứng là gì?

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

  1. Chứng nhân nhỏ của Chúa.

   Em có biết Cơ Đốc Nhân có nghĩa là “Người làm chứng cho Đấng Christ” không? Em chính là chứng nhân nhỏ của Chúa. Vậy em làm chứng điều gì về Chúa?

…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

  1. Kể với mọi người những việc Chúa đã làm.

   Em sẽ kể với ai những việc kỳ diệu mà Chúa Jêsus đã làm cho em? Bạn bè? Anh chị em? Cha mẹ? Cô chú?

Hãy viết tên họ dưới đây.

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

  1. Em sẽ làm gì?

Ví dụ gặp tình huống dưới đây, em sẽ làm chứng cho Chúa bằng cách nào?

   Em và một người bạn đi tắm sông, bỗng bạn em bị chuột rút, chới với kêu cứu. Không có ai ở đó để giúp đỡ, em rất sợ nhưng vẫn cố bơi đến bên bạn và dìu bạn vào bờ, trong lòng thầm cầu nguyện xin Chúa cứu giúp. Bạn em được cứu sống, mọi người đều khen ngợi em dũng cảm và nhanh nhẹn. Lúc đó, em sẽ nói gì với mọi người?

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 1/2024

in THIẾU NHI on 19 Tháng Tám, 2024

BÀI 11. CHỨNG NHÂN NHỎ CỦA CHÚA

 

I. KINH THÁNH: Mat 28:16-20; Công1:8; 4:13-22; 11:19-26.

II. CÂU GỐC: “Tôi xin nhắc lại sự nhân từ của Đức Giê-hô-va, và sự ca ngợi Đức Giê-hô-va, Vì mọi điều Đức Giê-hô-va đã làm cho chúng ta” (Ê-sai 63:7a).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Làm chứng về Chúa Jêsus là mệnh lệnh của Ngài. Các môn đồ đã vâng lệnh Chúa làm chứng về Ngài từ Giê-ru-sa-lem đến khắp thế giới.

– Cảm nhận: Nếu ai đã nhận được ơn thương xót của Chúa, thì sẽ thuật lại sự nhân từ của Ngài cho người khác.

– Hành động: Làm chứng cho Chúa Jêsus cho gia đình và bạn bè.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. CHUẨN BỊ.

  1. Hướng dẫn các em tự làm một tấm thiệp, mặt sau viết kinh nghiệm được cứu của mình và gởi đến một người bạn chưa biết Chúa, mời bạn ấy đến lớp Trường Chúa nhật.
  2. Mời một vài em chuẩn bị bài làm chứng ngắn về tình yêu thương của Chúa Jêsus dành cho mình, để tuần sau chia sẻ với các bạn trong lớp.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

   (Ôn lại lời giải đáp cho câu hỏi Đức Chúa Trời muốn các em làm gì? Đức Chúa Trời muốn các em trở thành con cái Ngài, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện mỗi ngày). Bài học hôm nay sẽ cho các em biết Đức Chúa Trời còn muốn các em làm gì nữa?

   Ví dụ như các em là một trong mười hai sứ đồ của Chúa Jêsus, các em đã ở cùng Chúa ba năm. Bây giờ các em có muốn làm chứng về sự dạydỗ và quyền phép của Ngài không? Các em sẽ kể về việc gì? (Giúp các em ôn lại các phép lạ Chúa Jêsus đã làm như: Khiến sóng gió yên lặng, chữa lành người bệnh, đuổi qủi, gọi La-xa-rơ sống lại, Chúa phục sinh…).

   Sau khi sống lại, Chúa Jêsus ở thế gian thêm 40 ngày nữa, rồi Ngài lên núi Ô-li-ve ở bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem. Tại đó Chúa Jêsus rời các môn đồ mà về trời. Trước khi về trời, Ngài để lại cho các môn đồ và cho cả các em nữa một mệnh lệnh! Đó là gì? (“Làm chứng về Ta”- CôngVụ 1:8).

   Làm chứng là gì? (Hướng dẫn các em viết câu trả lời vào sách Học Viên). Làm chứng là thấy rõ hoặc biết rõ các việc xảy ra, và nói lại cho người khác nghe).

   Chúa Jêsus dặn các môn đồ đi khắp các nơi làm chứng về Ngài. Chúng ta xem các môn đồ đã thực hiện mệnh lệnh của Chúa như thế nào nhé!

  1. Bài học.

(1) Đức Thánh Linh giúp đỡ cho sự làm chứng.

   Sau khi Chúa Jêsus về trời, các môn đồ trở về thành Giê-ru-sa-lem. Lúc đó, có một phép lạ xảy ra. Đức Thánh Linh giáng lâm, ngự vào lòng các môn đồ, làm thay đổi đời sống  của họ, làm họ can đảm, dũng cảm hơn. Các em còn nhớ khi Chúa Jêsus bị bắt, các môn đồ đã chạy trốn khắp nơi, thậm chí Phi-e-rơ còn chối Chúa nữa. Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng lâm, đã ban cho họ sức mạnh, sự can đảm, và quyền năng để đi ra làm chứng về Chúa Jêsus. Phi-e-rơ lúc trước sợ hãi, không dám nhận mình là môn đồ của Chúa Jêsus, nhưng nay thì công khai làm chứng về Chúa Jêsus giữa đám đông. Các môn đồ đi đến đâu, giảng đến đó rằng: “Chúa Jêsus là Con Đức Chúa Trời, tin Ngài sẽ được cứu rỗi”.

   Không phải ai cũng tin, vì thế, các môn đồ gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ đã nhờ cậy Đức Thánh Linh dẫn dắt họ hoàn thành sứ mệnh được giao, đến nỗi lời làm chứng của Phi-e-rơ đã đưa ba ngàn người tin nhận Chúa Jêsus.

(2) Làm chứng tại Giê-ru-sa-lem.

“Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các con thì các con sẽ nhận lấy quyền năng và làm chứng nhân cho Ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri cho đến cùng trái đất.” (Công Vụ 1:8). Đó là lời Chúa Jêsus dặn các môn đồ. Trước khi làm chứng khắp mọi nơi, họ phải làm chứng ngay tại nơi họ ở, là Giê-ru-sa-lem. Các môn đồ làm theo lời Chúa dạy, và Tin Lành được truyền giảng khắp thành phố Giê-ru-sa-lem (Giáo viên vừa nói vừa chỉ thành Giê-ru-sa-lem trên bản đồ).

   Phi-e-rơ cùng các môn đồ thường hay giảng đạo ở đền thờ. Một hôm, Phi-e-rơ và Giăng đến đền thờ cầu nguyện. Họ thấy một người què ngồi ăn xin nơi cửa đền thờ. Phi-e-rơ và Giăng thấy thương người què quá, hai ông tin chắc Chúa Jêsus có quyền năng chữa lành cho người què nầy. Đức Thánh Linh cảm động lòng Phi-e-rơ, ông cầu nguyện: “Nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ ở Na-xa-rét, hãy bước đi!” Vừa cầu nguyện, ông vừa nắm tay người què kéo đứng lên. Bỗng nhiên, bàn chân và mắt cá chân của người què trở nên cứng cáp. Người què vùng đứng dậy, bước đi theo Phi-e-rơ và Giăng vào đền thờ, vừa đi vừa nhảy, vừa ca ngợi Đức Chúa Trời. Mọi người chứng kiến đều kinh ngạc chạy theo xem. Nhân cơ hội đó, Phi-e-rơ làm chứng về Chúa Jêsus, số người tin Chúa tăng lên được năm ngàn người. Nhưng khi các thầy tế lễ, các thầy thông giáo biết được thì nổi giận, sai bắt giam Phi-e-rơ và Giăng vào ngục để hôm sau đem ra xét xử.

   Cuối cùng, Phi-e-rơ và Giăng được thả ra với lời cảnh cáo không được nhân danh Chúa Jêsus giảng đạo nữa, nếu không họ sẽ trừng phạt. Theo các em, hai sứ đồ nầy có thái độ thế nào trước lời đe dọa nầy? Sợ hãi chăng? Những Phi-e-rơ và Giăng trả lời: “Xin các ông hãy suy xét, trước mặt Đức Chúa Trời có nên vâng lời các ông hơn là vâng lời Đức Chúa Trời chăng? Vì chúng tôi không thể không nói về những điều mình đã thấy và nghe.” (CôngVụ 4:19-20). Họ thẳng thắn trả lời, vì Đức Thánh Linh cho họ sự can đảm.

   Thế là, dù bắt bớ, khó khăn nhưng các sứ đồ tiếp tục trung thành làm chứng về Chúa Jêsus. Ê-tiên vì rao giảng về Chúa Jêsus nên bị bắt giam, rồi sau đó bị đem ra ngoài thành ném đá chết. Kinh Thánh nói, trước khi chết, Ê-tiên cầu nguyện:  “Lạy Chúa là Đức Chúa Jêsus, xin tiếp lấy linh hồn con.” (Công Vụ 7:59). Chỉ có những người nhận biết và yêu Chúa Jêsus mới cầu nguyện cho kẻ giết hại mình (Giáo viên nhấn mạnh: Lời nói, hành động, việc làm của Ê-tiên đều làm chứng về Chúa Jêsus).

(3) Làm chứng khắp thế giới.

   Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các con thì các con sẽ nhận lấy quyền năng và làm chứng nhân cho Ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri cho đến cùng trái đất.”  (CôngVụ 1:8).

   Nếu những người giết chết Ê-tiên tưởng rằng sẽ dập tắt Tin lành, thì họ đã sai lầm, vì nhiều sứ đồ vẫn tiếp tục truyền giảng Tin Lành ở thành Giê-ru-sa-lem. Càng bị bắt bớ, thì Tin Lành càng được truyền đi nhanh chóng. Một số người vì giảng đạo mà bị đuổi ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem. Nhưng Kinh Thánh nói: “Vậy, những người bị tan lạc đi từ nơi nầy đến nơi khác truyền giảng Tin Lành” (Công Vụ 8:4). Đúng như lời Chúa Jêsus đã dặn, Tin Lành được truyền đi từ Giê-ru-sa-lem. Các sứ đồ phái Phi-líp đến Sa-ma-ri truyền đạo, sau nầy Chúa sai ông đi đến thành Ga-xa (Giúp các em tìm xứ Sa-ma-ri và thành Ga-xa trên bản đồ).

   Trên đường đến thành Ga-xa, Phi-líp gặp quan thái giám nước Ê-thi-ô-bi đang ngồi trên xe đọc Kinh Thánh. Trước đây, vị thái giám nầy đã tin Đức Chúa Trời, nhưng chưa hiểu Kinh Thánh. Phi-líp liền giảng giải về Chúa Jêsus đã được chép trong Kinh Thánh Cựu ước. Quan thái giám Ê-thi-ô-bi cảm động và muốn làm phép báp-tem, nên khi gặp chỗ có nước, Phi-líp đã làm phép báp-tem cho ông, để ông mang Tin Lành về rao giảng ở quê hương của ông.

   Còn Phi-líp tiếp tục lên đường đến thành A-xốt, Giốp-bê, và Ly-đa. (Ghi những địa điểm nầy lên bảng). Ông giảng Tin Lành khắp các thành nào mình ghé qua.

   Trong lúc đó, Chúa sai Phi-e-rơ lên phía Bắc thành Sê-sa-rê. Trong thành Sê-sa-rê có một người tên là Cọt-nây, làm đội trưởng của một đội binh. Ông là người đạo đức, kính sợ Đức Chúa Trời. Phi-e-rơ vâng lệnh Chúa đến truyền đạo cho ông, ông và nhiều người đã tin Chúa Jêsus.

   Tin Lành về Chúa Jêsus giống như hạt giống tốt được gió mang đi khắp nơi. Các sứ đồ đi đến đâu cũng truyền giảng Tin Lành đến đó. Kinh Thánh nói: “Số người tin và trở lại cùng Chúa rất nhiều” (Công Vụ 11:21). Hội Thánh ở Giê-ru-sa-lem hay tin tại An-ti-ốt có nhiều người tin Chúa, nên phái Ba-na-ba đi đến đó. Sau-lơ (người lúc trước sốt sắng trong việc bắt bớ các tín đồ, sau nầy tin theo Chúa) cùng đi với Ba-na-ba. Hai người đã hầu việc Chúa tại An-ti-ốt được một năm.

   Trong lúc Ba-na-ba và Sau-lơ ở thành An-ti-ốt, một tiên tri tên là A-ga-bút  được Đức Thánh Linh hướng dẫn nói tiên tri rằng, sẽ có sự đói kém xảy ra trên khắp thế giới. Đúng như lời tiên tri, nạn đói kém xảy ra, các tín đồ liền quyên góp tiền bạc nhờ Ba-na-ba và Sau-lơ mang về giúp đỡ các tín hữu tại Giê-ru-sa-lem. Đây cũng là một cách làm chứng cho Chúa, thể hiện tình yêu thương và quan tâm lẫn nhau.

  1. Ứng dụng.

   Các em thân mến! Nếu các em là con cái Đức Chúa Trời, thì hôm nay Chúa muốn nói với các em rằng: “Hãy theo Ta, làm chứng cho Ta, Ta sẽ ban sức mạnh cho con”.

   (Hướng dẫn các em làm bài tập trong Tập Học Viên. “Làm chứng là gì?”  “Làm chứng điều gì?”). Làm chứng là nói lên những điều mình thấy, mình cảm nhận, những điều mình biết rõ cho mọi người cùng biết. Con cái Chúa phải làm chứng về Chúa Jêsus cho mọi người. Như vậy, lời giải đáp của câu hỏi: “Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm gì?” được bổ sung thêm: Làm chứng cho Chúa Jêsus.

   Các em có ý nghĩ mình còn nhỏ, làm sao có thể làm chứng cho Chúa không? (Cho các em trả lời). Đức Chúa Trời không đòi hỏi các em phải đi khắp nơi như các sứ đồ. Chúng ta cùng xem câu gốc nói gì? (Mời một em đọc Ê-sai 63:7a, một em khác đọc Mác 5:19). Câu gốc dạy các em làm chứng bằng cách nào? (Nói ra và ca ngợi những việc Chúa đã làm cho các em).

   Nếu các em đã là con cái Đức Chúa Trời, thì việc làm, thái độ, lời nói của các em ảnh hưởng đến danh Chúa, cũng như con cái ảnh hưởng đến danh dự của gia đình vậy. Ví dụ: Khi các em làm điều sai trái, mọi người sẽ nói rằng: “Đó là con ông A, thật là xấu!”, ba mẹ em sẽ bị mọi người chê cười. Tương tự như vậy, khi một tín đồ làm chuyện sai trái, người khác cũng nói: “Nhìn kìa, tín đồ mà vậy đó hả?!” Điều nầy khiến người ta chê cười danh Chúa.

   Tóm lại, Lời Chúa dạy các em làm chứng bằng cách nào? (Cho các em trả lời). Các em có thể nói những gì? (Chúa đáp lại lời cầu nguyện của em, Chúa tha tội cho em, Chúa giúp em vượt qua mọi khó khăn…). Các em bày tỏ lòng yêu thương và quan tâm mọi người cũng là cách làm chứng về Chúa.

   Hướng dẫn các em làm bài tập “Em sẽ làm gì?” để các em hiểu rõ cách làm chứng cho Chúa Jêsus trong cuộc sống hằng ngày.

*Câu hỏi thảo luận.

Câu chuyện “Em sẽ làm gì?” Trong Tập Học Viên.

   Trong tình huống đó, em có thể làm chứng cho Chúa được không? Em sẽ làm gì? Nói gì? (Em cầu nguyện xin Chúa cho em sự can đảm và sức mạnh). Khi em cầu nguyện, mọi người có cười trêu chọc em không?

   Làm chứng cho Chúa Jêsus là nhiệm vụ của các sứ đồ ngày xưa, cũng là nhiệm vụ của các em ngày hôm nay. Khi Chúa Jêsus giao nhiệm vụ nầy, Ngài hứa ban cho các em sức mạnh (Công Vụ 1:8). Tuần nầy, các em nên làm chứng về Chúa Jêsus cho bạn! Mong các em sẽ là những chứng nhân nhỏ cho Chúa Jêsus trong thế gian nầy.