Chuyên mục: Thanh niên

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN. Chúa nhật 14.6.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN. Chúa nhật 14.6.2015

in Thanh niên on 2 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 14.06.2015.

1. Đề tài: SINH NHẬT – CẢM TẠ CHÚA.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 66.

3. Câu gốc: “Hỡi hết thảy người kính sợ Đức Chúa Trời, hãy đến nghe, thì tôi sẽ thuật điều Ngài đã làm cho linh hồn tôi” (Thi 66:16).

4. Đố Kinh Thánh: A-mốt 1-5.

5. Thể loại: Sinh nhật – Sinh hoạt.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 29.03.2015.

 

* TRÒ CHƠI DÀNH CHO NGƯỜI CÓ SINH NHẬT.

BÔNG HOA SINH NHẬT.

– Chuẩn bị: Cắt một số hoa bằng giấy màu và viết lời yêu cầu thật vui cuộn tròn lại dán vào nhụy hoa. Dùng băng keo hai mặt dán bông hoa lên bảng (số hoa tương đương với số người có ngày sinh trong quí).

– Cách chơi: NHD sẽ mời từng người có ngày sinh trong quí lên chọn và hái cho mình một bông hoa. Quan sát kỹ trong bông hoa sinh nhật có gì đặc biệt, xem và đọc lớn rồi thực hiện lời yêu cầu.

* TRÒ CHƠI TẬP THỂ.

LỌT BÓNG.

– Cách chơi: NHD cho các bạn tham gia đứng thành vòng tròn, người này cách người kia khoảng 0,5m. NHD chọn một người vào trong vòng tròn với một quả bóng. Sau đó NHD công bố cuộc chơi như sau: Bạn này dùng tay ném bóng ra khỏi vòng tròn nhưng không được ném cao hơn đầu gối các bạn; còn các bạn chỉ được dùng một chân (phải hoặc trái do NHD quy định) để cản bóng, sao cho bóng đừng ra khỏi. Khi NHD thổi còi, tất cả phải đồng loạt đổi chân nhanh chóng. Nếu bóng lọt ra ngoài, thì người để lọt bóng phải ra thay thế (ví dụ: Quy định dùng chân trái để chặng bóng, nếu bóng lọt qua bên trái của người nào thì người đó làm người ném bóng).

THẢY VÒNG VÀO CỔ CHAI.

Cách chơi: NHD chia các bạn tham gia thành nhiều đội xếp thành hàng dọc, mỗi đội 5 người. NHD phát cho mỗi đội 5 vòng tròn bằng dây lát hoặc tre (đường kính khoảng 20cm). Sau đó, đặt trước mỗi đội một cái chai (nước khoáng hoặc chai thủy tinh) cách khoảng từ 2 đến 3m. NHD cho các bạn thi đấu bằng cách dùng vòng thảy vào cổ chai. Đội nào có số vòng tròng vào cổ chai nhiều nhất là thắng cuộc.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN. Chúa nhật 07.6.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN. Chúa nhật 07.6.2015

in Thanh niên on 2 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 07.06.2015.

1. Đề tài: CÁC GIÁO LÝ CĂN BẢN.

2. Kinh Thánh: Sáng 1-3; Rô 5:12, 6:23; 8; 11:36, Giăng 14:16-17, 16:7; Êph 1:14, 2:7-8, Khải 20:14.

3. Câu gốc: “Sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta” (1Giăng 5:4b).

4. Đố Kinh Thánh: Ô-sê 14 – Giô-ên 3.

5. Thể loại: Chia sẻ.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 05.04.2015.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Sau đây, chúng ta lần lượt ôn lại những giáo lý đã học và tìm bài học áp dụng từ những chân lý đó vào nếp sống đạo hằng ngày của chúng ta.

I. DẪN GIẢI.

A. TỔNG QUÁT VỀ CÁC GIÁO LÝ CĂN BẢN.

1. Giáo lý về Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời Ba Ngôi.

a. Đức Chúa Trời là Chân Thần duy nhất, là Thần Linh tối cao chủ tể của trời đất muôn vật, thiêng liêng, vô hình, nhưng có vị cách và cá tánh riêng biệt. Thần tánh Ngài được bày tỏ trong bản tánh thánh khiết, công nghĩa, yêu thương và thuộc tánh của Ngài là toàn năng, toàn tri, toàn tại, toàn thiện, toàn mỹ, chân thật, nhân từ, thành tín, tự hữu hằng hữu, đời đời, bất biến.

b. Một trong những lẽ đạo huyền nhiệm về Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Nghĩa là một Đức Chúa Trời bày tỏ trong ba ngôi vị với danh xưng riêng là Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh. Ba ngôi riêng biệt, nhưng tương quan với nhau, có cùng thể yếu, thần tánh như nhau, bình đẳng, bình quyền với nhau, và hiệp một với nhau trong Đức Chúa Trời duy nhất.

2. Giáo lý về sự tạo thành trời đất muôn vật.

a. Sự hiện hữu của vũ trụ, muôn vật và loài người là do sự sáng tạo của Đức Chúa Trời Ba Ngôi chớ không phải do sự ngẫu nhiên tiến hóa mà thành (Sáng 1-2).

b. Đức Chúa Trời dựng nên muôn vật cho chính Ngài và với mục đích làm vinh hiển danh Ngài (Rô 11:36).

c. Mọi vật Chúa dựng nên đều tốt lành, có công dụng hữu ích, và có theo mục đích cao cả của Ngài.

d. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa muôn vật, cũng là Đấng Bảo tồn, và Đấng Quan phòng, phù hộ chăm sóc muôn vật.

3. Giáo lý về thiên sứ và ma quỉ.

a. Thiên sứ là loài thần linh được Đức Chúa Trời dựng nên trong sự thánh thiện. Thiên sứ có trước loài người, có sự hiểu biết và quyền lực trổi hơn loài người. Tuy nhiên, thiên sứ chỉ là những thiên thần thọ tạo và hữu hạn.

b. Trong vòng thiên sứ, có số thiên sứ bất phục Đức Chúa Trời gọi là những thiên sứ ác hay ma quỉ. Thiên sứ đứng đầu cuộc dấy nghịch Đức Chúa Trời thường được gọi là sa-tan. Còn những thiên sứ vâng phục Đức Chúa Trời được gọi là thiên sứ thiện.

c. Là thiên sứ sa ngã, bản chất của sa-tan từ thiện trở nên ác, được biểu lộ trong bản tánh lừa dối, độc ác, kiêu ngạo và phạm thượng.

d. Thiên sứ là thần hầu việc Đức Chúa Trời được sai xuống thế gian để giúp việc con cái Chúa theo mạng lịnh Ngài. Trái lại thiên sứ ác tức là ma quỉ do sa-tan cầm đầu với công việc của chúng là lừa dối loài người, xui khiến thế gian chống nghịch Đức Chúa Trời, cám dỗ con cái Chúa phạm tội, gây họa trên người tin kính Chúa, phá hại công việc nhà Chúa. Nhưng quyền lực của chúng chỉ có giới hạn với sự cho phép của Đức Chúa Trời, Đấng Chủ Tể cầm quyền tối cao trên muôn loài vạn vật thọ tạo. Cuối cùng của Sa-tan là sự đoán phạt trong hồ lửa đời đời.

4. Giáo lý về loài người và tội lỗi.

a. Người được nên giống như hình Đức Chúa Trời, được gọi là loài sanh linh, có thể xác bằng bụi đất hay hư nát, và có linh hồn đến từ Đức Chúa Trời là phần bất diệt.

b. Trong hình ảnh Đức Chúa Trời, loài người giống Ngài về bản tánh đạo đức thánh thiện. Có nghĩa người là một cá thể tự do, có ý thức về tinh thần tự quyết, có sự nhận biết điều phải trái, có năng lực lựa chọn điều thiện, có khả năng giao thông với Đấng Tạo Hóa và với tha nhân, và khả năng tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.

c. Tội lỗi bắt đầu lan tràn trong loài người từ sự sa ngã của A-đam, người đầu tiên, vì sự cám dỗ của sa-tan. Trong dòng dõi A-đam, loài người mắc vào hai thứ tội. Nguyên tội là từ nguyên tổ A-đam, và kỷ tội là tội cá nhân và bị đặt dưới hình án của Đức Chúa Trời. Hậu quả và án phạt của tội lỗi là sự chết. Có ba sự chết, chết thể xác, chết tâm linh và chết đời đời (Sáng 3; Rô 5:12; 6:23; Khải 20:14).

5. Đấng Cứu Thế và sự cứu rỗi.

a. Đức Chúa Giê-xu Christ là Đấng Cứu Thế duy nhất của thế gian. Ngài là Đấng thần nhân duy nhất, có cả thần tánh toàn năng và nhân tánh toàn thiện, có đủ tư cách trở thành Đấng Trung Bảo giữa Đức Chúa Trời và loài người, và làm nên sự cứu rỗi linh nghiệm cho cả thế gian.

b. Sự cứu rỗi loài người được lập nền trên sự chết và sống lại của Đấng Christ (1Côr 15:3-4). Bởi sự đổ huyết của Ngài, tội nhân được tha thứ, bởi sự sống lại của Ngài, tội nhân được giải phóng khỏi quyền lực của tội lỗi và sự chết.

c. Sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời là hoàn toàn trọn vẹn, được ban cho loài người bởi ân điển Ngài. Đức tin trong Đức Chúa Giê-xu Christ là điều kiện duy nhất nhận được sự cứu rỗi, không có sự thêm vào công đức riêng của con người (Êph 2:7-8).

d. Sự cứu rỗi trong Đấng Christ là sự cứu rỗi toàn diện, bao gồm sự giải cứu về phần tâm linh và sự cứu chuộc thân thể. Nghĩa là trong hiện tại, tội nhân được giải cứu khỏi sự đoán phạt của tội lỗi, tức là được xưng nghĩa trước luật pháp Đức Chúa Trời, được ban cho tấm lòng mới, tức là sự tái sanh, và được giải cứu khỏi quyền lực của tội lỗi, tức là sự thánh hóa. Trong tương lai, thân thể sẽ được giải cứu khỏi sự chết để được sự sống đời đời với Chúa.

6. Giáo lý về Đức Thánh Linh và Hội Thánh.

a. Sự cứu rỗi loài người là công việc của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Theo đó Đức Chúa Cha hoạch định chương trình, Đức Chúa Con thực hiện sự cứu rỗi, và Đức Thánh Linh hoàn thành sự cứu rỗi trong người tin.

b. Đức Thánh Linh còn có danh hiệu là Đấng Yên ủi hay Thần Lẽ Thật. Công việc của Đức Thánh Linh đã được thấy trong công cuộc sáng tạo muôn vật, và trong thời Cựu ước. Đặc biệt trong thời Tân ước, với biến động giáng lâm trong ngày lễ Ngũ Tuần, Đức Thánh Linh được ban xuống để thành lập Hội Thánh Đấng Christ (Công 2).

c. Công việc của Đức Thánh Linh bao gồm nhiều lãnh vực: Trong con người, Đức Thánh Linh thuyết phục tội nhân tin nhận Chúa Giê-xu, ban quyền năng cho người giảng Tin Lành. Trong Hội Thánh, Đức Thánh Linh liên hiệp người tin với Đấng Christ để được thuộc vào Hội Thánh Ngài; ban cho tín hữu ân tứ để gây dựng, phát triển Hội Thánh, gìn giữ Hội Thánh khỏi sự sai lạc, hướng dẫn Hội Thánh trong sứ mạng giảng Tin Lành. Trong người tin, Đức Thánh Linh tái sanh, thánh hóa, dạy dỗ, soi sáng, dẫn dắt, yên ủi, cầu thay, và đời đời ở trong lòng làm ấn chứng cho người tin là con cái của Đức Chúa Trời (Rô 8:14-16,26-27; Êph 1:14; Giăng 14:16-17;16:7).

d. Hội Thánh được Kinh Thánh nói đến trong hai phương diện: Hội Thánh vô hình và Hội Thánh hữu hình.

e. Hội Thánh vô hình chỉ về thân thể thuộc linh của Đấng Christ, là Hội Thánh mắt không thấy được, bao quát, gồm tất cả người tin Chúa Giê-xu ở khắp mọi nơi, và trải qua mọi thời đại được liên hiệp với Đấng Christ bởi Đức Thánh Linh (1Côr 12:13; Êph 3:21). Hội Thánh hữu hình là một Hội Thánh có thể trông thấy, chỉ về một tập thể gồm tất cả những người tin Chúa Giê-xu, chịu báp-tem, nhóm lại thường xuyên tại một nơi thích hợp để duy trì sự thờ phượng Đức Chúa Trời, thực hành các giáo lý và giáo nghi Chúa dạy và thông công với nhau giữa các chi thể trong cùng một thân thể của Đấng Christ.

g. Hội Thánh hữu hình có thể được tổ chức trong nhiều hình thức khác nhau, nhưng Đấng Christ phải là Đầu, và là nền tảng của Hội Thánh. Trong sự tổ chức của Hội Thánh cần có kỷ luật, nhưng kỷ luật phải được lập trên nền tảng là tình yêu thương của Chúa, và thẩm quyền tối cao của kỷ luật là bởi Đức Thánh Linh.

h. Phép báp-tem và lễ tiệc thánh là hai giáo nghi Hội Thánh tuân hành. Đó là mạng lịnh của Đấng Christ để giữ Hội Thánh trong mối thông công với Chúa và với nhau càng hơn.

i. Hội Thánh Đấng Christ không thuộc thế gian, nhưng ở trong thế gian, Hội Thánh có sứ mạng là “muối của đất”, “sự sáng của thế gian” (Mat 5:13-16). Chức vụ của Hội Thánh là rao giảng Tin Lành và gây dựng thân thể Đấng Christ.

k. Hiện tại Hội Thánh bị thế gian bắt bớ vì danh Chúa, nhưng địa vị tương lai của Hội Thánh là “Vợ” của Đấng Christ trong nước vinh hiển đời đời.

7. Giáo lý về thế giới tương lai.

a. Sau sự chết có đời sau. Đời sau của người tin Chúa sẽ là phước hạnh mãi mãi với Chúa. Đời sau của người chẳng tin sẽ là đau khổ đời đời trong địa ngục.

b. Có sự sống lại của người chết. Khi Đấng Christ trở lại, người tin Chúa sẽ được sống lại trước hết, được biến hóa thân thể, và được tiếp vào nơi vinh hiển với Chúa trên Thiên đàng. Sau cùng, người chẳng tin cũng sẽ sống lại để chịu sự phán xét, cùng với sa-tan và ma quỉ bị bỏ vào hồ lửa đời đời.

c. Thế giới nầy bị hủy diệt khi Đấng Christ tái lâm thi hành sự phán xét cuối cùng. Trời mới đất mới sẽ được dựng nên làm nơi ở của người công bình (2Phi 3:13).

B. PHẦN ỨNG DỤNG.

1. Sự quan trọng của các giáo lý căn bản.

Các giáo lý căn bản tóm lược trên rất quan trọng vì:

a. Chúng ta được biết rõ những giáo lý có liên quan đến sự cứu rỗi chúng ta, về nguồn gốc vũ trụ, loài người và tội lỗi, về công việc của Ba Ngôi Đức Chúa Trời, công cuộc sáng tạo v`à cứu chuộc loài người. Nhờ đó, chúng ta có thể nhận biết đâu là chân lý, đâu là tà thuyết.

b. Qua những giáo lý căn bản, chúng ta biết rõ sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi chắc chắn bảo đảm giải cứu chúng ta trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhờ đó, đức tin chúng ta được vững vàng và có thể sống đắc thắng cho Chúa trong thế gian, nhất là trong ngày sau rốt với sự dấy lên của những tiên tri giả lung lạc niềm tin của Cơ Đốc nhân nơi sự cứu rỗi trong Chúa Giê-xu Christ.

2. Các giáo lý căn bản trong niềm tin chúng ta.

Hầu hết những giáo lý căn bản được thấy trong bài “Tín điều các sứ đồ”. Bài Tín Điều phản chiếu niềm tin của Cơ Đốc nhân về Ba Ngôi Đức Chúa Trời trong công cuộc sáng tạo và cứu chuộc loài người. Nếu chỉ thừa nhận Đức Chúa Cha là Đấng tạo hóa vũ trụ, và bỏ đi những giáo lý về Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh, thì chúng ta vẫn còn là một tội nhân hư mất, sống không có ý nghĩa trong đời nầy, và tuyệt vọng trong đời sau.

Như thế với những giáo lý căn bản đã học, là những giáo lý căn cứ trên lời Kinh Thánh, chúng ta cần giữ vững và ứng dụng thế nào trong niềm tin chúng ta?

a. Với giáo lý về Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời Ba Ngôi: Chúng ta tôn kính và thờ phượng Đức Chúa Trời Ba Ngôi là Chân Thần duy nhất. Chúng ta phủ nhận những lý thuyết sai lạc cho rằng Đức Chúa Giê-xu chỉ là một linh hay thiên sứ trưởng, và Đức Thánh Linh là một quyền lực.

b. Với giáo lý về sự sáng tạo trời đất muôn vật. Chúng ta nhận biết mình là loài thọ tạo, và Đức Chúa Trời là Đấng tạo hóa. Chúng ta phủ nhận lý thuyết ngẫu nhiên và tiến hóa.

c. Với giáo lý về thiên sứ và ma quỉ. Chúng ta nhận biết có sự giúp đỡ của thiên sứ và sự gây họa của ma quỉ. Chúng ta không thờ lạy thiên sứ, vì thiên sứ chỉ là thần thọ tạo của Chúa. Chúng ta không sợ ma quỉ vì Chúa cầm quyền trên chúng. Nhưng chúng ta phải cảnh tĩnh về sự cám dỗ của chúng. Chúng ta không chấp nhận bất cứ hình thức đồng bóng, tà thuật vì đến từ ma quỉ. Đó là điều Chúa nghiêm cấm.

d. Với giáo lý về loài người và tội lỗi: Chúng ta là người thọ tạo được dựng nên giống hình Đức Chúa Trời, có sự tự do, có linh hồn bất diệt. Nhưng chúng ta là con người sa ngã, bại hoại trong tội lỗi và cần sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Chúng ta phủ nhận những triết thuyết định mệnh, vô thần và vật chất chủ nghĩa.

e. Với giáo lý về Đấng Cứu Thế và sự cứu rỗi: Chúng ta tin nhận Đức Chúa Giê-xu Christ là Đấng Cứu Thế duy nhất của thế gian và với đức tin chúng ta nhận sự cứu rỗi ban cho bởi ân điển Ngài. Chúng ta phủ nhận niềm tin về sự cứu rỗi do công đức riêng của con người.

g. Với giáo lý về Đức Thánh Linh và Hội Thánh. Hãy vâng phục Đức Thánh Linh, nhìn biết Đấng Christ là Đầu Hội Thánh, biết chắc chúng ta thuộc vào Hội Thánh Ngài, trung tín trong công việc gây dựng Hội Thánh Chúa bởi quyền năng Thánh Linh. Chúng ta phủ nhận sự cầu nguyện với bà Ma-ri và các thánh, cũng không công nhận giáo hoàng là đầu Hội Thánh.

h. Với giáo lý về thế giới tương lai. Chúng ta tin có đời sau, chúng ta hy vọng về sự sống lại vinh hiển của người tin. Chúng ta trông đợi Chúa tái lâm. Chúng ta phủ nhận sự tiên đoán ngày giờ Chúa tái lâm, và lý thuyết chủ trương không có tận thế, không có sự bất diệt của linh hồn.

Giữa thế giới băng hoại trong tội lỗi, với sự lan tràn của những tà thuyết. Xin Chúa giúp chúng ta mỗi ngày đều đặt niềm tin nơi các lẽ thật Kinh Thánh qua các giáo lý căn bản đã được học.

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Hãy kể vài danh hiệu của Đức Chúa Trời và nói ý nghĩa của những danh hiệu ấy?

2. Thần tánh của Đức Chúa Trời được bày tỏ trong những đặc tánh và thuộc tánh nào?

3. Đức Chúa Trời duy nhất nhưng được bày tỏ trong Ba Ngôi vị nào? Và có đặc tánh gì?

4. Xin tóm lược những giáo lý về Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời Ba Ngôi.

5. Trời đất và muôn vật được dựng nên bởi ai? Và như thế nào?

6. Đặc tính và mục đích của công cuộc sáng tạo?

7. Ngoài sự sáng tạo, Đức Chúa Trời còn có những công việc nào đối với vật Ngài dựng nên?

8. Xin tóm lược những giáo lý về sự tạo thành muôn vật. Với những giáo lý nầy, trong niềm tin, chúng ta phủ nhận những lý thuyết nào về sự hình thành của vũ trụ và loài người?

9. Thiên sứ và ma quỉ bắt nguồn từ đâu?

10. Công việc của thiên sứ và công việc của ma quỉ khác nhau thế nào? Và trong giới hạn nào?

11. Tại sao chúng ta không nên thờ lạy thiên sứ, cũng như không nên run sợ trước quyền lực ma quỉ?

12. Xin tóm lược những giáo lý về thiên sứ và ma quỉ. Chúng ta có thái độ thế nào trước công việc tà thuật của ma quỉ đang hoạt động trong thế giới loài người hiện nay?

13. Loài người được dựng nên theo hình ảnh nào? Với bản chất gì?

14. Khi được dựng nên, con người được đặt trong vị thế nào?

15. Tại sao con người sa ngã? Và hậu quả của sự sa ngã như thế nào?

16. Xin tóm lược những giáo lý quan trọng về loài người và tội lỗi. Trong niềm tin nầy, chúng ta phải phủ nhận những tà thuyết nào về loài người và tội lỗi?

17. Đấng Cứu Thế là ai? Tại sao chỉ có Ngài mới là Đấng Cứu Thế duy nhất của loài người?

18. Sự cứu rỗi của Ngài đáp ứng nhu cầu của con người trong những khía cạnh nào?

19. Điều kiện được cứu là gì? Tại sao?

20. Xin tóm lược những giáo lý quan trọng về Đấng Cứu Thế và sự cứu rỗi. Trong niềm tin nầy, chúng ta phải phủ nhận những tà thuyết sai lạc nào về Đấng Cứu Thế và sự cứu rỗi?

21. Đức Thánh Linh là ai? Ngài được gọi trong những danh hiệu nào?

22. Công việc của Đức Thánh Linh xuyên qua các thời đại và trong những phạm vi nào?

23. Hội Thánh là gì? Ai là đầu của Hội Thánh?

24. Hội Thánh được thành lập với mục đích gì? Điều kiện nào để được thuộc vào Hội Thánh của Chúa?

25. Hội Thánh được tổ chức trong hình thức nào? Và thực hành những giáo nghi nào? Tại sao?

26. Hội Thánh có sứ mạng gì trong thế gian? Và địa vị tương lai của Hội Thánh trong Nước Chúa là gì?

27. Xin tóm lược những giáo lý quan trọng về Đức Thánh Linh và Hội Thánh. Trong niềm tin nầy, chúng ta phải phủ nhận những tà thuyết nào về Đức Thánh Linh và Hội Thánh?

28. Sau sự chết là gì? Có sự khác nhau thế nào giữa sự chết của người tin và người chẳng tin?

29. Có sự sống lại của người chết không? Khi nào? Và như thế nào?

30. Có sự phán xét cuối cùng không? Đâu là nơi ở đời đời của người tin và người chẳng tin?

31. Có sự tận cùng của thế giới nầy không? Sau sự tận cùng của thế giới là gì?

32. Xin tóm lược những giáo lý quan trọng về thế giới tương lai. Trong niềm tin nầy, chúng ta phủ nhận những tà thuyết nào về giáo lý nầy?

33. Xin cắt nghĩa tại sao những giáo lý trên là quan trọng? Và ứng dụng thế nào trong nếp sống đạo hằng ngày của Cơ Đốc nhân?

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN. Chúa nhật 31.5.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN. Chúa nhật 31.5.2015

in Thanh niên on 2 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 31.05.2015.

1. Đề tài: HÃY TƯỞNG NHỚ ĐẤNG TẠO HÓA.

2. Kinh Thánh: Truyền Đạo 12:1-7.

3. Câu gốc: “Trong buổi còn thơ ấu hãy tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa ngươi” (Truyền 12:1a).

4. Đố Kinh Thánh: Không đố Kinh Thánh.

5. Thể loại: Truyền giảng.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 01.02.2015.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

HÃY TƯỞNG NHỚ ĐẤNG TẠO HÓA.

Tục ngữ ta có câu “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào giếng”, câu ấy dạy ta đừng vong ân bội nghĩa. Song ngoài công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dục như núi như sông ra, thì còn có ơn cao sâu dài rộng hơn cả; đó là ơn của Đấng Tạo Hóa mà mỗi chúng ta cần phải tưởng nhớ.

I. ĐẤNG TẠO HÓA LÀ AI?

Kinh Thánh minh chứng Đấng Tạo Hóa là Đức Chúa Trời (Sáng 1:1; 5:1-2 và Giăng 1:3). Ngài là Đức Chúa Trời:

– Tự Hữu Hằng Hữu, trước mặt Ngài chỉ có hiện tại vì cả cõi đời đời bày ra ở trước mặt Ngài.

– Toàn Năng, Toàn Tri, Toàn Tại, Toàn Ái, Thánh Sạch và Công Bình. Ngài là Đấng vô đối, dựng nên muôn vật một cách huyền diệu và lớn lao. Muôn vật được Ngài bảo tồn, cai trị cho đến đời đời. Đấng ấy rất đáng cho chúng ta tưởng nhớ và tôn thờ là dường nào!

II. TƯỞNG NHỚ ĐẤNG TẠO HÓA LÚC NÀO?

Kinh Thánh cho biết tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa khi còn thơ ấu. Trong đời con người có rất nhiều việc nhưng việc trước nhất là tưởng nhớ đến Đấng Tạo Hóa. Đời người chia ra nhiều giai đoạn như: Thời thơ ấu, niên thiếu, trưởng thành, lão thành; thì ngay giai đoạn thứ nhất, phải nghĩ đến Đấng Tạo Hóa mình bằng cách dâng tuổi thanh xuân của mình lên cho Chúa. Nếu ai chưa tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa như vậy thì nên bắt đầu ngay từ bây giờ.

Tại sao phải bắt đầu từ thời thơ ấu? Kinh Thánh chép: “Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo; dầu khi nó trở về già, cũng không hề lìa khỏi đó” (Châm 22:6). Tấm lòng trẻ thơ mềm mại, trong sạch, chưa hoen ố tội trần như người lớn. Tuổi thơ còn có nhiều thì giờ hơn để hầu việc Chúa, còn sức lực đầy đủ hơn để phục vụ Ngài.

Hễ chúng ta kính mến ai thì muốn dâng tặng cho người ấy món quà quý nhất, tốt đẹp nhất. Vì vậy, ta cũng nên dâng cho Đức Chúa Trời một của lễ dường ấy để tỏ lòng kính mến Ngài như dân Do Thái xưa kia dâng cho Chúa con vật đầu lòng trong bầy chiên, bò, lừa, lạc đà… của mình. Các con chiên họ dâng làm của lễ cũng phải lựa con toàn vẹn, tốt nhất, được chứng nhận của thầy tế lễ.

Một lý do nữa là không phải ai cũng đến tuổi già mới chết mà tuổi nào cũng có thể chết được cả. “Lại hãy tưởng nhớ Đấng Tạo Hoá trước khi dây bạc đứt, và chén vàng bể, trước khi vò vỡ ra bên suối, và bánh xe gãy ra bên giếng, và bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ, và thần linh trở về nơi Đức Chúa Trời, là Đấng đã ban nó” (Truyền 12:6-7). Vì vậy, nếu như trong tuổi thơ ấu không tìm kiếm Đấng Tạo Hoá của mình thì khi qua đời sẽ mất cơ hội được vào trong nước vinh hiển của Ngài, mất cơ hội được sống đời đời trong cõi phước hạnh!

III. TƯỞNG NHỚ ĐẤNG TẠO HOÁ CÁCH NÀO?

Có rất nhiều cách tưởng nhớ không đẹp ý Chúa như trường hợp trong Mác 7:6-7 và 1Tim 4:1-3.

Chúa Giê-xu dạy: “Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy” (Giăng 4:23-24). Vậy, cách tưởng nhớ đẹp lòng Chúa là:

1. Tưởng nhớ bằng tâm thần.

Con người có 3 phần, phần tâm thần là phần cao trọng hơn cả. Bởi phần tâm thần giao thông với Đức Chúa Trời, thờ phượng Ngài, tôn vinh Ngài, nhận được từ nơi Ngài sự sống, sự vinh hiển. Hiện nay tâm thần người ta đã chết vì cớ tội lỗi, nên phải tin Chúa Giê-xu mới được tha tội hầu cho tâm thần được cứu mà thờ phượng Chúa. “Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình… Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng giàu lòng thương xót, vì cớ lòng yêu thương lớn Ngài đem mà yêu chúng ta, nên đang khi chúng ta chết vì tội mình, thì Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ – ấy là nhờ ân điển mà anh em được cứu” (Êph 2:1,4,5).

2. Tưởng nhớ bằng lẽ thật.

Lẽ thật là điều con người quan tâm như trường hợp quan tổng trấn Phi-lát đã hỏi Chúa Giê-xu khi nghe Ngài nói đến lẽ thật (Giăng 18:38). Lẽ thật là gì? Lẽ thật là chân lý. Không có gì qua được chân lý, mà chân lý là gì trong khi “lòng người ta là dối trá hơn mọi vật và rất là xấu xa”? (Giê-rê-mi 17:9).

Kinh Thánh cho biết, Chúa Giê-xu đã tự xưng Ngài là lẽ thật, tức Ngài là chân lý. “Vậy, Đức Chúa Giê-xu đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật và sự sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha” (Giăng 14:6).

Lời của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh là lẽ thật, là chân lý (Giăng 17:17).

Ta phải tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa bằng lẽ thật nghĩa là phải thờ phượng Đức Chúa Trời bằng cách sống theo gương Chúa Giê-xu, sống làm theo lẽ thật trong Kinh Thánh.

* Kết luận: Thưa quý vị! Quý vị đã tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa chưa? Nếu quý vị chưa tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa khi còn thơ ấu thì ngay giờ phút nầy quý vị có thể mở lòng mình ra tiếp nhận Ngài, bằng cách dâng cho Ngài trọn cuộc đời mình. Ngài sẽ làm Chủ cuộc đời quý vị, và hướng dẫn quý vị cách thờ phượng Ngài bằng tâm thần và lẽ thật. Đó là cách quý vị tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa mà Chúa đẹp lòng.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN. Chúa nhật 24.5.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN. Chúa nhật 24.5.2015

in Thanh niên on 2 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 24.05.2015.

1. Đề tài: LỄ NGŨ TUẦN.

2. Kinh Thánh: Công Vụ 2:1-13.

3. Câu gốc: “Khi đã cầu nguyện, thì nơi nhóm lại rúng động; ai nấy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, giảng đạo Đức Chúa Trời cách dạn dĩ” (Công 4:31).

4. Đố Kinh Thánh: Ô-sê 9-13.

5. Thể loại: Họp bạn – Đố Kinh Thánh.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 22.02.2015.

 

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN. Chúa nhật 17.5.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN. Chúa nhật 17.5.2015

in Thanh niên on 2 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 17.05.2015.

1. Đề tài:       LỜI KÊU GỌI TỈNH THỨC.

2. Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 24:36-42; 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:4-10.

3. Câu gốc: “Sự cuối cùng của muôn vật đã gần; vậy hãy khôn ngoan tỉnh thức mà cầu nguyện” (1Phi 4:7).

4. Đố Kinh Thánh: Ô-sê 4-8.

5. Thể loại: Học Kinh Thánh nhóm.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 11.01.2015.

Dựa theo Mat 24:36-42 và 1Tês 5:4-10 soạn một số câu hỏi cho giờ học Kinh Thánh.

(1.1) “Ngày và giờ đó” là ngày và giờ gì?

(1.2) Tại sao ngày và giờ đó “chỉ một mình Cha biết mà thôi”?

(1.3) Biết rõ điều nầy, bạn sẽ làm gì khi có người nói với bạn là họ biết tính ngày giờ Chúa trở lại?

(2.1) Chúa dùng hình ảnh nào ví sánh với ngày “Con Người đến”?

(2.2) Tại sao Chúa dùng hình ảnh nầy để ví sánh?

(2.3) Biết được điều nầy bạn có sự chuẩn bị gì cho ngày “Con Người đến”?

(3.1) Chúa ví chúng ta là con cái của sự sáng, vậy chúng ta phải làm gì?

(3.2) Tại sao chúng ta phải làm như vậy?

(3.3) Vì sao bạn biết mình đã sống đúng (hay chưa đúng) là “con cái của sự sáng và con của ban ngày”?

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Chúng ta đang ở trong thời kỳ mà Kinh Thánh cảnh cáo “sự cuối cùng của muôn vật đã gần”. Những biến chuyển của lịch sử thế giới cho chúng ta thấy càng rõ hơn về thời điểm sắp đến của ngày chung kết ấy. Đối với người chẳng tin, họ xem nhẹ lời cảnh cáo của Kinh Thánh. Tuy nhiên với chúng ta là người có niềm tin, vấn đề không phải là có sự tận cùng của thế giới hay Chúa có tái lâm không, nhưng điểm quan trọng là chúng ta có tỉnh thức trông đợi ngày Chúa trở lại không? Tại sao? Thế nào để chúng ta chuẩn bị đời sống sẵn sàng đón tiếp Chúa?

I. DẪN GIẢI.

A. LÝ DO CỦA SỰ TỈNH THỨC.

Động từ “tỉnh thức” trong nguyên văn Hy-lạp là gregoreò, một từ đặc biệt ám chỉ về sự đề cao cảnh giác. Nói đến sự tái lâm của Chúa Giê-xu, Kinh Thánh đã nhiều lần nhắc nhở, cảnh cáo con cái Chúa “Hãy tỉnh thức”. Tại sao?

1. Vì sự hiện đến của Ngài là chắc chắn.

Chính Chúa Giê-xu đã dự ngôn về sự tái lâm của Ngài là chắc thật: “Trời đất sẽ qua, nhưng lời Ta nói chẳng bao giờ qua đi” (Mat 24:35). Sứ đồ Phi-e-rơ cũng đã xác nhận: “Chúa không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu…” (2Phi 3:9).

2. Vì ngày Chúa tái lâm sắp đến.

Trong 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:5, Phao-lô nhắc nhở con cái Chúa rằng: “Anh em đều là con của sự sáng và con của ban ngày”. Cho nên là con cái bước đi trong sự sáng của Chúa, tức là người trong sự tỉnh thức, chúng ta không thể không cảm nhận được những “báo động” về ngày tái lâm của Chúa. Có những dấu hiệu chúng ta đã và đang thấy trước mắt như điều Kinh Thánh đã nói trước là sẽ xảy ra trước ngày Chúa đến như chiến tranh, đói kém, động đất, tội lỗi gia tăng, sự dấy lên của nhiều tiên tri giả, Christ giả (Mat 24:6-13).

Khi nói đến sự tái lâm, Chúa Giê-xu dùng thí dụ về cây vả (Mat 24:32). Cây vả là loài cây ăn trái quan trọng đứng vào hàng thứ ba trong xứ Palestine, sau cây nho và cây ô-li-ve. Theo chu kỳ, cây vả ra lá vào mùa hè. Vì vậy, sự đâm chồi của cây vả là một dấu hiệu cho biết mùa hè sắp tới. Trong Kinh Thánh, cây vả thường dùng chỉ bóng về dân Y-sơ-ra-ên, tuyển dân của Chúa. Vì chối bỏ Đấng Christ, nên họ bị Ngài đoán phạt phải mất xứ sở và tản lạc khắp nơi trên đất kể từ biến cố hủy diệt thành Giê-ru-sa-lem vào năm 70 S.C. Nhưng theo sự bày tỏ của lời tiên tri trong Cựu Ước, thì quốc gia Y-sơ-ra-ên sẽ hoàn toàn được hồi phục, dân Y-sơ-ra-ên sẽ được giải cứu khi Đấng Mê-si-a hiện đến lần thứ hai. Nhìn vào sự lập quốc cách lạ lùng của dân Do Thái sau đệ nhị thế chiến, những sự kiện về sự hồi hương của dân Do Thái, và những diễn biến đang xảy ra tại quốc gia nầy, trong ánh sáng của lời tiên tri, chúng ta thấy dấu hiệu “mùa hạ” sắp tới, nghĩa là ngày Chúa đã kề bên!

3. Vì giờ Chúa đến là điều kín nhiệm (Mat 24:36).

Có những dấu hiệu cho chúng ta biết ngày Chúa tái lâm sắp đến, sự cuối cùng của muôn vật đã gần. Tuy nhiên, ngày giờ Chúa đến là kín nhiệm “…chẳng có ai biết chi cả, thiên sứ trên trời hay là Con cũng vậy, song chỉ môt mình Cha biết mà thôi”. Cho nên ai cố xác định ngày giờ Chúa tái lâm là một nhầm lẫn lớn, như Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm đã có lần tuyên bố Chúa Giê-xu tái lâm vào năm 1844!

4. Vì sự tái lâm của Chúa Giê-xu là lẽ trông cậy nhất của người tin Chúa.

Vì thì giờ tái lâm của Chúa là điều kín nhiệm, và thình lình “như người trộm trong ban đêm”, và nhanh chóng “như chớp phát ra từ phương đông” (1Tês 5:2; Mat 24:27), nên nếu tỉnh thức, thì sự ấy không phải là quá bất ngờ cho chúng ta (1Tês 5:4-5). Chúng ta cần tỉnh thức để sẵn sàng được tiếp đi với Chúa mà không bị bỏ lại (Mat 24:40-42).

B. TỈNH THỨC VỚI SỰ CHUẨN BỊ SẴN SÀNG.

Sự tỉnh thức cần được bày tỏ trong hai phương diện: Tiêu cực với lòng kiên nhẫn chờ đợi, và tích cực với sự chuẩn bị đời sống sẵn sàng đón Chúa. Những điều quan trọng nào cần được chuẩn bị cho mỗi đời sống chúng ta?

1. Phải được tái sanh.

Khi Chúa Giê-xu dạy môn đồ lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng chờ đón sự tái lâm của Ngài, Ngài kể một ẩn dụ về mười người nữ đồng trinh (Mat 25:1-13). Trong ẩn dụ nầy, mười người nữ đồng trinh chỉ về Hội Thánh, chàng rể chỉ về Chúa Giê-xu là Tân Lang của Hội Thánh, và dầu chỉ về Đức Thánh Linh. Trong mười người nữ đồng trinh có năm người dại, là người không chuẩn bị dầu đón chàng rể, và năm người khôn là người chuẩn bị dầu đón chàng rể. Năm người dại và năm người khôn tiêu biểu cho hai hạng người trong Hội Thánh hữu hình. Nghĩa là trong Hội Thánh Chúa, có những người tín đồ thật, tức là những người được tái sanh bởi Đức Thánh Linh, có sự ngự trị của Ngài trong đời sống; nhưng cũng có những người mang danh tín đồ, nhưng thực sự đời sống không có Đức Thánh Linh, không có sự tái sanh bởi Ngài. Vì lẽ đó, chắc họ sẽ không được nhận vào tiệc cưới Chiên Con, vì cớ không thuộc về Ngài “… Song nếu ai không có Thánh Linh của Đấng Christ, thì người ấy chẳng thuộc về Ngài” (Rô-ma 8:9).

Như vậy trong sự chuẩn bị đón Chúa, chúng ta cần kiểm điểm lại đời sống mình thật có Đức Thánh Linh hay chỉ như đèn mà không có dầu? Chúng ta có biết chắc mình đã được tái sanh và trở nên con cái của Đức Chúa Trời không? Nếu chưa, hãy mở lòng tiếp nhận Chúa Giê-xu để được nhận lãnh sự ban cho của Đức Thánh Linh trước khi cửa ân điển đóng lại, và không còn có cơ hội nữa. Như năm người nữ dại kia đợi đến lúc chàng rể đến, rồi mới chạy mua dầu, thì đã quá trễ.

2. Phải giữ mình trong sạch khỏi mọi sự ô uế của thế gian.

Hội Thánh được gọi là “Tân nương” của Đấng Christ. “Cô dâu” lý tưởng nầy khi gặp “Tân Lang” phải là cô dâu thánh sạch, không vết, không tì, không chỗ trách được trước mặt Ngài (Êph 5:27). Điều nầy có nghĩa trong sự chuẩn bị đón Chúa, mỗi ngày chúng ta nhờ Đức Thánh Linh thánh hóa đời sống và giữ vẹn khỏi mọi ô uế của thế gian (Rô 12:2).

c. Phải trung tín hầu việc Chúa.

Trong ẩn dụ về ta lâng, người chủ chỉ về Đức Chúa Trời, các đầy tớ chỉ về tín đồ, tức chúng ta (Mat 25:14-30). Ta lâng là một đơn vị tiền tệ, trọng lượng. Một ta lâng có trị giá một ngàn mỹ kim. Chữ ta lâng được dùng trong ẩn dụ nầy có thể làm biểu tượng chỉ về tất cả những gì Đức Chúa Trời ban cho chúng ta để được sử dụng cho danh Ngài. Thật ra tất cả mọi điều chúng ta có đều đến từ Đức Chúa Trời. Như vậy các ta lâng chủ giao cho đầy tớ trong ẩn dụ có thể bao gồm tài năng, ân tứ, thì giờ, sự hiểu biết, kinh nghiệm, của cải v.v..

Tóm lược qua ẩn dụ nầy bày tỏ hai ý chính sau đây:

(1) Đức Chúa Trời giao cho mỗi chúng ta một số ta lâng khác nhau. Nhận được nhiều hay ít ta lâng không quan trọng. Điểm quan trọng là trung tín sử dụng ta lâng ấy cách có ích lợi theo ý muốn và mục đích của Chúa.

(2) Mỗi người có trách nhiệm với ta lâng mình nhận trong ngày Chúa trở lại. Sự ban thưởng sẽ dành cho người trung tín, tức là người vâng lời Chúa sử dụng ta lâng theo ý chỉ của Ngài ban cho. Trái lại người không trung tín sẽ bị đoán phạt.

Những sự chuẩn bị trên có ý nghĩa gì?

– Với đời sống: Cần được tái sanh bởi Đức Thánh Linh để chúng ta được nhận vào trong Nước Chúa. Với đời sống thánh sạch, chúng ta được gặp Chúa trong sự vinh hiển và vui mừng. Với đời sống trung tín hầu việc, chúng ta gặp Chúa trong sự ban thưởng.

C. LỜI CẢNH CÁO.

Trong lời khuyên tỉnh thức trước sự tái lâm của Chúa, Kinh Thánh cũng có lời cảnh cáo chúng ta:

1. Coi chừng sự nguội lạnh (Mat 24:12).

“Lại vì cớ tội ác sẽ thêm nhiều, thì lòng yêu mến của phần nhiều người sẽ nguội dần”.

Với sự cảnh cáo nầy, chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta giữ lòng kính mến Chúa lúc ban đầu, và đầy dẫy trong chúng ta tình yêu thương của Chúa để sốt sắng hầu việc Ngài cách trung thành (1Phi 4:8-9).

2. Coi chừng sự lôi cuốn, ru ngủ của vật chất (Lu 17:26-29,32; 21:34).

Loài người bị hủy diệt trong thời Nô-ê, sự sụp đổ của thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ, sự trở thành tượng muối của vợ Lót là những tấm gương cảnh cáo chúng ta về cuộc sống đam mê các thú vui, vật chất của trần gian!

Với sự cảnh cáo nầy, hãy nhờ Đức Thánh Linh giúp chúng ta bước theo sự dẫn dắt của Chúa trước hết, và thỏa lòng với đời sống “đủ ăn đủ mặc” (Gal 5:16; Mat 6:33; 1Tim 6:6-8).

3. Coi chừng sự quyến dụ của các tiên tri giả (Mat 24:11).

Hãy nhờ Đức Thánh Linh soi sáng chúng ta học biết lẽ thật Kinh Thánh, hầu giữ vững đức tin về sự cứu rỗi của chúng ta (Công 17:10-11).

Tóm lược với những điều cảnh cáo trên, chúng ta “…hãy dè giữ, mặc áo giáp bằng đức tin và lòng yêu thương, lấy sự trông cậy về sự cứu rỗi làm mão trụ” (1Tês 5:8).

Tóm lược.

1. Những lý do cần tỉnh thức đối với sự tái lâm của Chúa:

a. Vì Chúa chắc sẽ trở lại.

b. Vì ngày tái lâm của Chúa sắp gần.

c. Vì thì giờ Chúa đến là điều kín nhiệm.

d. Vì sự tái lâm của Chúa là lẽ trông cậy lớn của chúng ta.

2. Trong sự tỉnh thức, đời sống cần được chuẩn bị sẵn sàng với sự tái sanh, nên thánh, và sự trung tín hầu việc Chúa.

3. Trong sự tỉnh thức chúng ta cũng hãy coi chừng sự cám dỗ của tội lỗi, sự lôi cuốn của thế giới vật chất, và sự quyến dụ của tà thuyết giả dối.

Vậy chúng ta hãy nhờ Đức Thánh Linh chuẩn bị cho mình đời sống sẵn sàng đón tiếp Chúa bằng sự mặc lấy lòng yêu thương, đức tin, thánh sạch, và tấm lòng trung thành sốt sắng phục vụ Chúa. Với tinh thần tỉnh thức theo như lời khuyên dạy của Kinh Thánh: “Sự cuối cùng của muôn vật đã gần. Vậy hãy khôn ngoan tỉnh thức mà cầu nguyện” (1Phi 4:7), xin mỗi người trong chúng ta đặt câu hỏi nầy cho chính mình: Nếu Chúa đến hôm nay, thì tôi có sẵn sàng đón tiếp Chúa không?

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. a. Ma-thi-ơ 24:35; 2Cô-rinh-tô 3:9: Chúa Giê-xu có sự xác nhận thế nào đối với lời tiên tri về sự tái lâm của Ngài?

b. Trong Ma-thi-ơ 24:6-14:32, Chúa Giê-xu nói đến những dấu hiệu nào? Và những dấu hiệu nầy ám chỉ về ai? Và cho điều gì?

c. Ma-thi-ơ 24:36: Có thể xác định được thì giờ tái lâm của Chúa không? Tại sao?

d. 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:2; Ma-thi-ơ 24:27,40-42. Sự hiện đến của Chúa Giê-xu được Kinh Thánh diễn tả như thế nào? Và khi Chúa đến có phải tất cả người mang danh là “tín đồ” được tiếp đi với Chúa không?

2. Xin tóm tắt những điểm cần thiết phải tỉnh thức trông đợi Chúa?

3. Ma-thi-ơ 25:1-3: Xin tìm hiểu những biểu tượng sau đây chỉ điều gì?

– Mười người nữ đồng trinh, chàng rể, năm người dại và năm người khôn, dầu, đèn.

4. a. Tại sao năm người dại không được tiếp nhận vào tiệc cưới?

b. Tại sao họ không có dầu?

c. Ý nghĩa của ẩn dụ nầy là gì? Theo ý nghĩa nầy chúng ta cần chuẩn bị gì cho đời sống mình (Giăng 3:1-5; Rô 8:9).

5. Ê-phê-sô 5:25-27; Rô-ma 12:2; 13;11-14: Đời sống chúng ta cần phải được chuẩn bị thế nào khi gặp Chúa? Tại sao?

6. Xin đọc Ma-thi-ơ 25:14-30, và tìm hiểu những biểu tượng sau đây ám chỉ về ai và cho điều gì?

– Người chủ, đầy tớ, ta lâng.

7. Trong ẩn dụ về ta lâng xin tìm hiểu:

a. Trên tiêu chuẩn nào người chủ ban thưởng và quở phạt đầy tớ.

b. Ý nghĩa chính của ẩn dụ nầy là gì?

c. Theo ý nghĩa nầy, đời sống chúng ta cần được chuẩn bị thế nào? (1Phi 4:9-10).

8. Xin đọc những câu Kinh Thánh sau đây: Ma-thi-ơ 24:11-12; Lu-ca 17:26-32; 21:34-36, 1Phi-e-rơ 4:7-10 và ghi nhận:

a. Những điều nào chúng ta nên coi chừng, và không nên làm?

b. Những điều nào chúng ta nên làm?

9. 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:8; 1Phi-e-rơ 4:7: Làm sao chúng ta giữ vững trước những điều Kinh Thánh cảnh cáo? Xin cắt nghĩa tại sao đó là cách hữu hiệu nhất.

10. Xin tóm lược những điểm quan trọng về:

a. Lẽ cần của sự tỉnh thức.

b. Những điều cần chuẩn bị cho đời sống.

c. Những điều nên đề phòng và những điều nên làm trong sự tỉnh thức.

11. Đời sống bạn đang có Đức Thánh Linh ngự trị? Làm sao bạn biết?

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN Chúa nhật 10.5.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN Chúa nhật 10.5.2015

in Thanh niên on 2 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 10.05.2015.

1. Đề tài: LỄ MẪU THÂN.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 101.

3. Câu gốc: “Tôi sẽ ăn ở cách khôn ngoan trong đường trọn vẹn; ồ! Chúa chừng nào sẽ đến cùng tôi? Tôi sẽ lấy lòng trọn vẹn mà ăn ở trong nhà tôi” (Thi 101:2).

4. Đố Kinh Thánh: Đa-ni-ên 11 – Ô-sê 3.

5. Thể loại: Kịch 5’.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 22.03.2015.

* CÂU CHUYỆN THAM KHẢO.

PHƯỚC CHO NGƯỜI HIẾU KÍNH CHA MẸ.

Federick, vua nước Prussia xưa là một vị vua rất thương dân. Một hôm ông bấm chuông gọi người hầu, nhưng không thấy anh vào. Ông liền bước ra để tìm. Ông thấy anh đang úp mặt ngủ mê. Ông rón rén lại gần và thấy có một bức thơ ở túi anh lộ ra ngoài. Ông tọc mạch rút nhẹ ra xem. Đây là bức thư của mẹ anh gởi đến cám ơn anh lâu nay đã nhịn ăn mặc tiêu pha gởi một phần lương mình về nuôi bà.

Sau khi đọc xong, vua bước nhẹ về phòng lấy một túi bạc đầy, rón rén nhét vào túi anh với cả bức thư mẹ anh nữa. Xong, ông bước vào phòng nhấn chuông mạnh hơn. Anh hầu phòng tỉnh dậy sợ hãi chạy ra trình diện. Vua nói: Chà, anh ngủ ngon quá!

Anh hầu chẳng biết chữa lỗi ra sao, nên bối rối bỏ tay vào túi. Tay anh đụng vào bức thư và túi bạc. Anh móc túi bạc ra và tái mặt khóc oà, không nói được một lời. Vua hỏi: Sao, có điều gì vậy?

Anh tâu: Kính tâu hoàng thượng!

Rồi sấp mình dưới chân vua và tâu thêm: Tâu có người muốn hại con. Con chẳng hiểu biết gì về túi bạc nầy cả. Con vừa rờ phải trong túi con đây.

Vua đáp: Hỡi người bạn trẻ ơi! Thường thường Đức Chúa Trời cũng thi hành công việc lớn lao cho chúng ta trong khi chúng ta ngủ chứ… Anh hãy gởi số bạc đó cho mẹ anh và thay tôi chào thăm mẹ anh, và nói rằng tôi sẽ chăm nom cả mẹ anh và anh nữa.

Con cháu biết hiếu kính và tôn trọng cha mẹ thì Chúa không bỏ đâu. Chúa thường ban thưởng những người con, cháu biết tưởng nhớ, giúp đỡ ông bà, cha mẹ. Con cháu ngỗ nghịch không vâng lời cha mẹ, bất hiếu thì bị Chúa rủa sả (Ê-phê-sô 6:1-3).

PHẦN THƯỞNG CỦA NGƯỜI HIẾU KÍNH CHA MẸ.

Vua Gustave III của Thụy Điển xưa, ngày kia một mình cỡi ngựa ngang qua một làng quê gần kinh đô. Vua khát nước mà bầu nước đem theo đã hết, lại không có quân hầu đi theo nên không sao có nước uống. Bỗng vua thấy có một cô gái đang múc nước ở một giếng nước bên đường, vua bèn thúc ngựa chạy đến xin nước uống. Cô thiếu nữ nghe xin vội vàng đổ vò nước mời vua uống. Uống xong, vua nói: Cám ơn cô cho tôi uống nước. Nếu cô bằng lòng theo tôi về Stockhom, tôi sẽ cho cô một địa vị tốt đẹp hơn.

Cô gái đáp: Thưa ông, tôi không thể nhận lời đề nghị của ông được. Tôi không có ý leo lên địa vị cao hơn địa vị mà Chúa đã cho tôi. Vả lại, tôi không muốn đi đâu xa đây cả.

Vua ngạc nhiên hỏi: Sao vậy cô?

Cô gái thưa: Vì mẹ tôi nghèo và bệnh hoạn chẳng có ai giúp đỡ, yên ủi trong cơn đau đớn, buồn thảm. Tôi không thể rời bỏ mẹ tôi được. Không có gì có thể khiến tôi bỏ phận sự làm con đối với mẹ tôi được.

Vua hỏi: Hiện thời mẹ cô ở đâu?

Cô đáp: Thưa, ở trong cái chòi kia!

Cô vừa nói vừa chỉ vào cái lều lụp xụp, tồi tàn. Vua xin phép theo cô đến thăm. Khi vua bước vào, thấy một bà già tàn tật ngồi trên một cái giường rơm rất thương tâm, vua nói: Thưa bà, tôi rất buồn khi thấy bà trong cảnh đau yếu đáng thương thế nầy.

Bà cụ nói: Thưa ông, tôi thật đáng thương, nhưng tôi vẫn quan tâm, thương xót đứa con gái đã làm việc mệt nhọc để nuôi tôi và giúp tôi không thiếu thứ gì. Nó an ủi tôi nhiều lắm. Cầu xin Chúa nhớ đến điều lành mà con tôi đã làm cho tôi.

Nói xong, bà lấy tay lau nước mắt. Vua Gustave vô cùng xúc động. Chưa khi nào vua cảm động bằng lần nầy khi nghe lời nói của bà và lòng hiếu thảo của người con gái. Vua liền rút ra một túi bạc đặt vào tay thiếu nữ và nói: Hãy tiếp tục săn sóc và chăm nom mẹ cô. Tôi sẽ sớm giúp cô hiệu quả hơn để cô có thể săn sóc mẹ cô tốt hơn. Tôi xin từ giã cô. Cô hãy tin tưởng vào lời hứa của vua cô nhé!

Thế rồi sau khi về hoàng cung ở Stockhom, vua liền cấp cho mẹ cô gái một trợ cấp trọn đời, và khi mẹ cô qua đời, cô vẫn tiếp tục được thừa hưởng nữa.

MẸ ƠI! CON CHỈ CẦN MẸ.

Một cô bé nọ bị tàn tật lâu năm và phải ở mãi trong nhà. Thế nhưng mẹ cô bé lại là một người đàn bà ham vui. Bà không thích ở nhà mãi với con mình nên thuê một người vú em về chăm sóc cô bé. Bà đi du lịch khắp nơi và thỉnh thoảng gởi quà về cho con mình. Đôi khi bà gởi sách vở hoặc hình ảnh và cũng có khi gởi đồ nữ trang nữa.

Vào ngày sinh nhật của cô bé, bà gởi về tặng cho con một lọ cắm hoa của Ý rất đẹp. Khi người vú em mang tới, cô bé nhìn chiếc lọ rồi bảo: Cất đi, cất đi! Đừng gởi quà về cho con nữa! Con không cần sách vở, không cần hình ảnh hoặc lọ hoa đâu. Mẹ ơi, con chỉ cần mẹ thôi!

Rồi cô òa lên khóc nức nở.

Biết bao người tin Chúa nhưng cứ đòi giàu sang, may mắn, đòi ơn phước nầy nọ, cứ đòi mãi. Cho đến khi nào chúng ta cảm biết rằng “Tôi chỉ cần một mình Chúa thôi”, lúc đó đức tin chúng ta mới trưởng thành và ơn phước của Chúa tự nhiên sẽ theo chúng ta, như Đa-vít đã nói “Phước hạnh và sự thương xót sẽ theo tôi” (Thi 23:6).

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN CHÚA NHẬT 03.5.2015.

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN THANH NIÊN CHÚA NHẬT 03.5.2015.

in Thanh niên on 2 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 03.05.2015.

1. Đề tài:       NƯỚC VINH HIỂN ĐỜI ĐỜI.

2. Kinh Thánh: 2Phi-e-rơ 3:9-14; Khải Huyền 21:1-8.

3. Câu gốc: “Vả, theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở” (2Phi 3:13).

4. Đố Kinh Thánh: Đa-ni-ên 6-10.

5. Thể loại: Phỏng vấn.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 15.02.2015.

* GỢI Ý PHỎNG VẤN.

(Sau khi người hướng dẫn giới thiệu thể loại chương trình thờ phượng, phóng viên từ dưới phòng nhóm đi lên và Phi-e-rơ từ ngoài bước vào).

– Phóng viên: Dạ xin kính chào cụ Phi-e-rơ!

– Phi-e-rơ: Chào các cháu!

– PV: Chúng cháu rất vui vì được cụ đến thăm hôm nay. Thay cho các bạn thanh niên trong Hội Thánh, cháu xin có lời chào mừng và hoan nghênh cụ. Nhân buổi gặp gỡ nầy cụ có thể giúp chúng cháu tìm hiểu về Nước vinh hiển đời đời xảy ra trong tương lai không thưa cụ?

– Phi-e-rơ: Được, các cháu cứ hỏi, ta sẽ giúp các cháu trong khả năng của ta.

– PV: Xin cụ vui lòng cho chúng cháu biết vì sao Chúa chưa trở lại?

– Phi-e-rơ: Theo 2Phi-e-rơ 3:9 cho biết lý do Chúa chưa trở lại là vì cớ chờ đợi người có tội ăn năn, chớ chẳng phải Ngài không trở lại.

– PV: Thưa cụ, có hình ảnh nào để minh chứng chắc chắn Chúa sẽ trở lại để chúng cháu giúp đỡ những người còn nghi ngờ hoặc hờ hững với sự tái lâm?

– Phi-e-rơ: Các cháu có thể dùng nhiều lời tiên tri của Chúa Giê-xu, các tiên tri, và các sứ đồ được chép trong Kinh Thánh để dẫn chứng trong khi nói chuyện với những người vô tín. Các cháu cũng có thể dùng hình ảnh cơn nước lụt trong thời Nô-ê để minh chứng Đức Chúa Trời đã hủy diệt thế giới loài người gian ác bằng cơn nước lụt.

– PV: Cám ơn cụ về sự giúp đỡ nầy. Thưa cụ, trong ngày cuối cùng Đức Chúa Trời sẽ hủy diệt thế giới tội lỗi nầy như thế nào?

– Phi-e-rơ: Theo Lời Chúa, trời đất vẫn được giữ nguyên để dành cho lửa trong ngày phán xét sau cùng. Sự phán quyết của Kinh Thánh là lời cảnh cáo người vô tín và nhắc nhở những ai còn nghi ngờ về sự tái lâm của Đấng Christ.

– PV: Cụ có thể mô tả rõ ràng về ngày tận cùng của muôn vật không thưa cụ?

– Phi-e-rơ: Lời Chúa chép: “Các thể chất bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả… các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán” (2Phi 3:10,12).

– PV: Thưa cụ, khi nào Chúa dựng nên trời mới, đất mới và dựng nên như thế nào?

– Phi-e-rơ: Phía sau của sự tiêu hủy thế giới cũ đầy tội lỗi, một khung cảnh huy hoàng tinh khiết của trời mới, đất mới hiện ra. Sự dựng nên mới nầy đã được tiên tri Ê-sai dự ngôn và trong sự hiện thấy của sứ đồ Giăng (Ê-sai 66:22; Khải 21:1).

– PV: Thưa cụ, tại sao Đức Chúa Trời tiêu hủy công việc sáng tạo, là công việc mà trước kia Ngài phán thật rất “tốt lành” và dựng nên trời mới, đất mới?

– Phi-e-rơ: Mọi công việc Ngài làm đều rất toàn hảo. Nhưng tiếc thay vì sự xâm nhập của tội lỗi, vì sự bất tuân của loài người nên con người không những chịu sự đoán phạt của Đức Chúa Trời mà còn gây ảnh hưởng tai hại cho mặt đất. Chính vì vậy, Đức Chúa Trời đốt cháy trời đất trong ngày phán xét cuối cùng để thanh lọc người ác, tẩy sạch vật sáng tạo vì đã bị uế nhiễm bởi tội lỗi.

– PV: Xin cụ vui lòng cho chúng cháu biết thêm về Nước vinh hiển.

-Phi-e-rơ: Nước vinh hiển là Nước toàn thiện của Ngài trên đất. Là nơi “sự công bình ăn ở”, nơi không có bóng của tội lỗi, nơi dành cho người được chuộc bởi ân điển Ngài (2Phi 3:13).

– PV: Thưa cụ, vậy là cuộc sống của con người nơi Nước vinh hiển khác hẳn cuộc sống nơi thế giới cũ tội lỗi phải không cụ?

– Phi-e-rơ: Các cháu nói rất đúng. Sự khác biệt nầy có thể thấy rõ trong những điểm sau đây:

– Trong thế giới cũ con người bị bịnh tật, sự chết, nước mắt, buồn rầu, đau đớn, tội lỗi, và cách xa Đức Chúa Trời.

– Nhưng trong Nước vinh hiển con người được sự sống đời đời, vui mừng, thánh khiết, phước hạnh trong sự hiện diện của Đức Chúa Trơ-i.

– PV: Cám ơn cụ đã giúp chúng cháu hiểu rõ hơn về Nước vinh hiển trong tương lai. Biết rõ điều nầy chúng cháu hứa sẽ giúp người khác hiểu biết về Nước vinh hiển và có sự ước ao vào sống trong Nước vinh hiển.

NHD: Thưa các bạn! Chúng ta vừa nghe cụ Phi-e-rơ giãi bày về Nước vinh hiển trong tương lai. Nguyện Chúa Thánh Linh ban năng lực để các bạn làm trọn những điều mình hứa nguyện với Chúa qua bài học nầy. Mời các bạn đứng lên và mời cụ Phi-e-rơ cầu nguyện cho chúng cháu.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Thế giới chúng ta đang sống là thế giới đầy dẫy nan đề vượt quá tầm tay của con người. Mặc dầu sự tiến bộ của khoa học hiện đại có thể giải quyết được một số vấn đề nhất thời của nhân loại nhưng con người không có cách nào để ngăn chặn sức lan tràn của tội lỗi đang bành trướng mỗi ngày một thêm. Sự băng hoại đạo đức bên trong lòng người đã đến mức độ trầm trọng. Đó là nguyên nhân của bạođộng, xáo trộn không ngừng mà chúng ta thấy khắp nơi trong xã hội loài người. Như thế tình trạng nầy cứ tiếp diễn mãi theo sự xoay vần của trái đất và bất biến với thời gian không? Thế giới loài người sẽ đi về đâu?

Kinh Thánh đã nói đến sự bắt đầu của thế giới, và cũng nói đến ngày cuối cùng của muôn vật. Điều nầy sẽ xảy ra như thế nào? Bên kia sự tận cùng là gì? Và có mục đích gì trong chương trình sáng tạo và cứu rỗi của Đức Chúa Trời đối với loài người trên đất?

I. DẪN GIẢI.

A. SỰ CUỐI CÙNG CỦA MUÔN VẬT.

1. Nền tảng Kinh Thánh về ngày tận thế.

Ngày tận thế là điều chắc chắn theo như lời tiên tri trong Kinh Thánh.

– Ma-thi-ơ 24:3-14: Chính Chúa Giê-xu đã bày tỏ cho môn đồ biết những biến cố sẽ xảy ra dẫn đến ngày tận thế.

– 1Phi-e-rơ 4:7: Sứ đồ Phi-e-rơ cũng đã cảnh tỉnh con cái Chúa về sự cuối cùng của muôn vật hầu gần.

– 2Phi-e-rơ 3:3-9: Chúa không chậm trễ về sự hiện đến của Ngài. Lý do Ngài chưa đến là vì cớ chờ đợi người có tội ăn năn, chớ không có nghĩa Ngài sẽ không trở lại để thi hành sự đoán phạt thế gian. Trong thời Nô-ê, thế giới loài người đã có lần bị hủy diệt bằng cơn nước lụt. Tuy nhiên, trời đất theo lời Chúa vẫn được giữ nguyên để dành cho lửa trong ngày phán xét sau cùng của nhân loại. Sự phán quyết của Kinh Thánh là lời cảnh cáo người vô tín khinh lờn về ngày chung kết của thế gian, và nhắc nhở những ai còn nghi ngờ về sự tái lâm của Đấng Christ.

2. Thời điểm và diễn tiến về sự tận cùng của muôn vật.

Theo các diễn tiến nói đến trong Khải Huyền 20:7,11, thì biến cố của ngày tận thế sẽ xảy ra sau thời đại Thiên hi niên, và trước ngày phán xét cuối cùng của thế giới. “Bấy giờ tôi thấy một tòa lớn và trắng cùng Đấng đương ngồi ở trên; trước mặt Ngài trời đất đều trốn hết” (c.11).

Sự tận cùng của muôn vật được mô tả trong biến động với tiếng vang rền của các từng trời, sự đốt cháy của lửa và hết thảy đều bị thiêu hủy: “Các thể chất bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả… các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán” (2Phi 3:10,12).

B. SỰ DỰNG NÊN TRỜI MỚI ĐẤT MỚI.

Phía sau của sự tiêu hủy thế giới cũ đầy tội lỗi, một khung cảnh huy hoàng tinh khiết của trời mới đất mới hiện ra. Sự dựng nên mới nầy đã được tiên tri Ê-sai dự ngôn và trong sự hiện thấy của sứ đồ Giăng (Ê-sai 66:22; Khải 21:1).

Trong Sáng Thế Ký 1:1-3; Giăng 1:3, bày tỏ sự dựng nên muôn vật là công việc của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Và trong sự làm mới muôn vật cũng là công việc của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Trong Khải Huyền 21:6, Đức Chúa Trời được xưng bằng danh hiệu “An-pha và Ô-mê-ga”, là danh hiệu cũng được dùng cho Đức Chúa Con. Điều nầy cho thấy sự bình quyền và đồng công của Đức Chúa Trời Ba Ngôi.

Nói đến sự dựng nên mới, có thể một câu hỏi được nêu lên: Tại sao Đức Chúa Trời tiêu hủy công việc sáng tạo trước kia, là công việc mà Ngài phán thật rất “tốt lành” và dựng nên trời đất mới? Chúng ta có thể tìm thấy trong những lý do sau đây:

Đức Chúa Trời là Đấng Toàn thiện, Toàn mỹ. Mọi công việc Ngài làm đều toàn hảo. Nhưng tiếc thay vì sự xâm nhập của tội lỗi. Ở trên trời với sự dấy loạn của Luxiphe đã kéo theo một số thiên sứ, kết hợp thành nước của sa-tan chống nghịch với Đức Chúa Trời (Êph 6:12). Ở dưới đất, sa-tan cám dỗ loài người bất phục Đức Chúa Trời, sự phạm tội của loài người chẳng những chuốc lấy sự đoán phạt của Đức Chúa Trời, lại còn gây ảnh hưởng tai hại cho mặt đất (Sáng 3:17-19). Cho nên với sự đốt cháy trời đất trong ngày phán xét cuối cùng, Đức Chúa Trời có mục đích thanh lọc người ác, tẩy sạch vật sáng tạo vì đã bị uế nhiễm bởi tội lỗi và dựng nên mới là để bắt đầu cho Nước vĩnh viễn, toàn thiện của Ngài trên đất, nơi “sự công bình ăn ở”, nơi không có bóng của tội lỗi, dành cho người được chuộc bởi ân điển Ngài (2Phi 3:13).

C. THÀNH GIÊ-RU-SA-LEM MỚI.

Trong cảnh trời mới, đất mới, thành Giê-ru-sa-lem mới cũng được xuất hiện. Tính từ “mới” diễn tả trọn vẹn sự toàn hảo, trong sạch của nước vinh hiển đời đời. Danh hiệu Giê-ru-sa-lem mới còn được gọi là “Thành của Đức Chúa Trời”, “thành thánh”, “vợ mới cưới là vợ Chiên Con” (Khải 3:12; 21:1,9). Những danh hiệu nầy có thể bao gồm hai ý như sau: (1) Giê-ru-sa-lem mới nói về thủ đô của nước Đức Chúa Trời, với sự ngự trị của Ngài ở giữa dân sự Ngài (Khải 21:3). (2) Giê-ru-sa-lem mới ám chỉ người, một tập thể của những người được chuộc, tức là Hội Thánh của Đấng Christ. Trong ý nghĩa nầy, Giê-ru-sa-lem mới cũng được gọi là “Giê-ru-sa-lem ở trên cao” (Ga-la-ti 4:26).

Theo Khải Huyền 21:9-22:5, Giê-ru-sa-lem mới được diễn tả như sau: Là một thành hình vuông lập phương, có cạnh dài khoảng 1.500 dặm, chiếm diện tích 2.250.000 dặm vuông. Thành có một bức tường cao lớn, với 12 cửa, mỗi cửa làm bằng hột châu nguyên khối. Các cửa được sắp theo bốn hướng; ba cửa phía Đông, ba cửa phía Tây, ba cửa phía Nam và ba cửa phía Bắc. Mỗi cửa đề tên một chi phái Y-sơ-ra-ên. Tường thành được đặt trên 12 nền, trên đó có đề tên 12 sứ đồ. Mỗi nền được trang điểm bằng một thứ ngọc quí như bích ngọc, đá lam bửu, lục mã não, lục cẩm, hồng mã não, hoàng ngọc, ngọc hoàng bích, ngọc thủy thương, ngọc hồng bích, ngọc phỉ túy, hồng bửu, tử bửu. Đường phố lót bằng vàng ròng. Ở giữa thành và trên hai bờ sông có cây sự sống trổ mỗi tháng một mùa. Thành không cần mặt trời vì Chiên Con là sự sáng của thành.

Thành Giê-ru-sa-lem mới theo sự diễn tả trên cho chúng ta thấy có những đặc điểm và ý nghĩa sau đây:

(1) Đây là một thành thực sự.

(2) Đây là thành thánh từ trời, ở nơi Đức Chúa Trời hiện xuống, là thành mà các nhà giải kinh cho là nơi Chúa Giê-xu phán hứa với môn đồ trước khi Ngài về trời (Giăng 14:3).

(3) Đây là thành có sự ngự trị của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Đức Cha là Đền thờ của thành, Đức Con là Sự sáng của thành và Đức Thánh Linh là Sự sống của thành.

(4) Thành của sự cứu rỗi và sự cứu rỗi đến từ tuyển dân Y-sơ-ra-ên. Tên 12 chi phái ghi mỗi cửa tiêu biểu cho tuyển dân Y-sơ-ra-ên. Hạt châu làm cửa chỉ về Chúa Giê-xu, Đấng được sanh ra trong dòng dõi Đa-vít, là “Cửa” dẫn vào sự cứu rỗi (Giăng 4:22; 10:9).

(5) Một thành bao la rộng lớn như được mô tả trong kích thước (Khải 21:16).

(6) Một thành hoàn hảo. Kiểu hình vuông lập phương, Kinh Thánh thường dùng làm tiêu biểu cho sự hoàn hảo trọn vẹn (Xuất 27:1; 30:2; 1Các 6:20).

(7) Một thành được xây trên nền xinh đẹp vô cùng (Khải 21:18-19). Nền chỉ về các sứ đồ trong sự xây dựng Hội Thánh trên lẽ thật của Tin Lành (Êph 2:20).

(8) Một thành của vua vinh hiển, rực rỡ, vinh quang như được diễn tả trong chất liệu kiến trúc bằng vàng ròng (Khải 21:18).

(9) Cây sự sống của vườn Ê-đen mà loài người đã đánh mất được tìm lại trong thành Giê-ru-sa-lem mới.

(10) Dân sự của thành Giê-ru-sa-lem mới là người có tên trong sách sự sống, tức là người được cứu chuộc bởi huyết của Đấng Christ.

Qua những đặc điểm trên cho thấy người trong trời mới đất mới và Giê-ru-sa-lem mới khác hẳn với cảnh trạng của người trong thế giới cũ. Sự khác biệt nầy có thể thấy rõ trong những điểm sau đây:

– Trong thế giới cũ: Bệnh tật, sự chết, nước mắt, buồn rầu, đau đớn, tội lỗi, và cách xa Đức Chúa Trời.

– Trong thành Giê-ru-sa-lem mới: Sự sống đời đời, vui mừng, thánh khiết, phước hạnh, không có ban đêm, và ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời mãi mãi.

Khi cảnh trời mới đất mới xuất hiện, chúng ta nghe có tiếng phán của Đức Chúa Trời “Xong rồi” (Khải 21:6). Lời phán nầy có thể xem như một lời tuyên bố về sự hoàn thành chương trình vĩ đại của Đức Chúa Trời trong công cuộc sáng tạo và cứu chuộc loài người. Và sự lập nước vĩnh viễn cho người được chuộc là cứu cánh cuối cùng của chương trình cứu rỗi của Ngài.

Một tuyệt điểm của tình yêu thương Ngài được chiếu sáng trong quang cảnh rực rỡ của thành Giê-ru-sa-lem mới, với những người được chuộc bởi ân điển Ngài qua sự xả thân của Đấng Christ.

Một câu hỏi có thể nêu lên là: Khi nước Thiên hi niên đi vào nước vĩnh viễn, nghĩa là từ vương quốc của Đấng Christ đến vương quốc của Đức Chúa Trời theo điều nói đến trong 1Cô-rinh-tô 15:24-28, thì quyền trị vì của Đấng Christ có chấm dứt không hay vẫn tiếp tục?

Theo sự bình giải của Me Alaim, vấn đề trên có thể hiểu như sau:

(1) Khi kẻ thù sau cùng của Đức Chúa Trời là Sa-tan đặt dưới chân của Đấng Christ, Vua Trung Bảo, bấy giờ mục đích của nước Thiên hi niên hay vương quốc trung bảo sẽ được trọn.

(2) Lúc đó Đấng Christ sẽ trao vương quốc trung bảo cho Đức Chúa Trời để trở thành vương quốc vĩnh viễn. Không có sự phân chia nào giữa hai vương quốc nầy (1Côr 15:24-26).

(3) Đây không có nghĩa chấm dứt quyền tể trị của Đấng Christ. Ngài chỉ dừng chức vụ trung bảo, nhưng sẽ tiếp tục trị vì với Chúa Cha trong cõi đời đời. Vinh dự của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh được thấy rõ trong vương quốc thần quyền vĩnh viễn, một sự hiệp một trọn vẹn trong sự tể trị muôn vật (Khải 21:10; 22:1-5; Giăng 17:23).

Tóm lược.

1. Trong ngày cuối cùng của thế giới, trời đất sẽ bị thiêu hủy bằng lửa. Trời mới đất mới sẽ được dựng nên để làm nơi ở vĩnh viễn cho người công bình.

2. Giê-ru-sa-lem mới là thủ đô của Nước vĩnh viễn đời đời. Đây là thành thánh, từ trời giáng xuống với sự ngự trị của Ba Ngôi Đức Chúa Trời, đầy dẫy vinh hiển, rực rỡ oai nghiêm.

3. Trong thành Giê-ru-sa-lem mới không còn có sự chết, nước mắt và đau khổ.

4. Chỉ có người được ghi tên trong sách sự sống của Chiên Con mới được nhận làm công dân của Nước vĩnh viễn.

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. a. Ma-thi-ơ 24:3-14: Chúa Giê-xu cho môn đồ biết trước điều gì sẽ xảy đến cho thế giới?

b. 1Phi-e-rơ 4:7: Sứ đồ Phi-e-rơ nhắc con cái Chúa điều gì?

c. 2Phi-e-rơ 3:9-12; Khải Huyền 20:7,11: Sự cuối cùng của muôn vật sẽ được xảy ra khi nào? Tại sao chúng ta biết điều nầy là chắc chắn?

2. Xin tóm lược những điểm quan trọng làm dẫn chứng cho người không tin có sự tận thế hay còn nghi ngờ về lời hứa của Chúa (2Phi 3:3-7).

3. a. Ê-sai 66:22; Khải Huyền 21:1: Sau sự tiêu hủy muôn vật sẽ có điều gì?

b. Ê-sai 65:17; Khải Huyền 21:6 so sánh với Sáng Thế Ký 1:1; Giăng 1:3: Trời mới đất mới sẽ do ai dựng nên?

4. Sáng 3:17-19,22-24; 6:5-6; 2Phi-e-rơ 3:12-13: Tại sao thế giới bị hủy diệt và sự dựng nên trời mới và đất mới nhằm mục đích gì?

5. a. Khải Huyền 21:3; 3:12; 21:9: Thành Giê-ru-sa-lem mới còn được gọi bằng những danh hiệu nào khác và có nghĩa gì?

b. Khải Huyền 22:3,10,22-23: Trong thành Giê-ru-sa-lem mới có sự hiện diện của ai?

c. Khải Huyền 21:9-22:5. Cho biết về sự xây cất, kích thước của thành Giê-ru-sa-lem. Quang cảnh nầy có ý nghĩa gì?

d. Khải Huyền 22:8,27. Điều kiện nào để được trở thành công dân của thành Giê-ru-sa-lem mới?

6. a. Xin tóm lược những đặc điểm của thành Giê-ru-sa-lem mới.

b. Người ở trong thành Giê-ru-sa-lem mới được hưởng những phước hạnh gì? So sánh người trong thành Giê-ru-sa-lem mới với thế giới cũ (Khải 21:3-4,23-27).

7. a. Khải Huyền 21:6: Đức Chúa Trời xưng Ngài trong danh hiệu nào? Và danh hiệu nầy cũng được ai xưng nữa? (Khải 1:17; 22:13. Điều nầy có nghĩa gì?

b. Lời phán của Đức Chúa Trời “xong rồi” trong Khải Huyền 21:1-6, có nghĩa gì đối với chương trình sáng tạo và cứu chuộc của Ngài?

8. Bạn có đủ điều kiện được nhận vào Nước vinh hiển đời đời không? Vì sao bạn biềt?

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 26.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 26.04.2015

in Thanh niên on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 26.04.2015.

1. Đề tài: NƠI Ở ĐỜI ĐỜI CỦA NGƯỜI ÁC.

2. Kinh Thánh: Khải Huyền 9:2-11; 20:11-15; 21:8.

3. Câu gốc: “Còn những kẻ hèn nhát, kẻ chẳng tin, kẻ đáng gớm ghét, kẻ giết người, kẻ dâm loạn, kẻ phù phép, kẻ thờ thần tượng, và phàm kẻ nào nói dối, phần của chúng nó ở trong hồ có lửa và diêm cháy bừng bừng: Đó là sự chết thứ hai” (Khải 21:8).

4. Đố Kinh Thánh: Ê-xê-chi-ên 44-48.

5. Thể loại: Thảo luận.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 18.01.2015.

Đề tài 1: Người chết còn có cơ hội được cứu. 

                        Đề tài 2: Không còn cơ hội được cứu cho người đã chết. 

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Trên cõi tạm nầy, một vấn đề thật khó hiểu là sự hưng thạnh của người ác và sự chịu khổ của người công bình. Một sự trái ngược vô cùng, một điều xem có vẻ quá bất công! Tuy nhiên, điểm quan trọng giữa hai hạng người nầy là chỗ ở cuối cùng của họ trong cõi đời đời.

Qua Lời Kinh Thánh, chúng ta biết được cảnh trạng tạm cư hay trạng thái trung gian của người ác sau khi chết để chờ đợi ngày phán xét. Như vậy sau khi chịu sự phán xét của Chúa, số phận đời đời của người ác là gì? Và có sự khác nhau thế nào so với tương lai vĩnh viễn của người công bình?

I. DẪN GIẢI.

A. ÁN PHẠT CỦA NGƯỜI ÁC.

1. Sự chết thứ hai.

Sự chết thứ hai là án phạt đã định cho người ác trong ngày phán xét sau cùng. Án phạt nầy cũng đồng nghĩa với sự hình phạt là hồ lửa đời đời (Khải 20:14). Tại sao gọi là sự chết thứ hai?

Sự chết nói chung là án phạt trên dòng dõi loài người phạm tội. Tuy nhiên án phạt nầy không tác dụng tức khắc cho con người như phải có ngay trong hiện tại, nhưng được thể hiện qua những giai đoạn. Trước hết, theo luật Đức Chúa Trời định cho mọi người phải trải qua sự chết thể xác để chờ đợi sự phán xét của Ngài (Hê-bơ-rơ 9:27). Đây có thể gọi là sự chết thứ nhất. Sau khi chết, người ác bị giam cầm nơi âm phủ cho đến ngày thẩm phán chung kết. Khi đó, họ được sống lại để ứng hầu trước tòa án trắng và lớn của Chúa. Án phạt cuối cùng của họ là sự chết đời đời trong nơi khổ hình mà Kinh Thánh gọi đó là sự chết thứ hai nghĩa là linh hồn vĩnh viễn bị xa cách với Đức Chúa Trời.

Án phạt về sự chết cũng được Kinh Thánh nói đến trong những từ gọi khác nhau như sau:

2. Hư mất hay bị hư mất (Phil 1:28; 3:19).

Từ nầy được Kinh Thánh Tân Ước thường dùng ám chỉ về sự vĩnh hình. Tình trạng hư mất của tội nhân có nghĩa là không đạt đến mục đích tối hậu của Đức Chúa Trời đã định cho mình. Cho nên trước mặt Chúa người ấy bị xem vô dụng, như bình gốm bị bể và bị người ta vứt bỏ mà thôi!

3. Diệt vong.

Chữ hư mất trong Giăng 3:16 có nghĩa là diệt vong, chỉ về sự xa cách đời đời khỏi sự hiện diện của Chúa (2Tês 1:9).

4. Tuyệt vọng, không có sự trông cậy (Êph 4:18).

Điều này chỉ về sự bị loại ra khỏi đặc ân và đặc quyền của Chúa.

5. Bị phân rẽ với Đấng Christ, không có sự sống của Ngài (1Giăng 5:12).

6. Bị quăng ra chốn tối tăm (Mat 8:12).

Chỉ người trong tình trạng bị loại ra ngoài ân điển cứu rỗi của Chúa, bị đặt vào một tình trạng vô cùng khốn khổ.

7. Bị đặt dưới cơn thạnh nộ của Chúa (Giăng 3:36).

Tóm lại án phạt trên người ác là:

(1) Án phạt có tính cách đời đời.

(2) Sự chết trong án phạt nầy không có nghĩa là sự tiêu tan và trở thành hư vô, nhưng người ác ở trong tình trạng vĩnh viễn bị phân cách với Đức Chúa Trời, bị loại ra khỏi Nước Đức Chúa Trời, bị mất phần ân điển cứu rỗi của Đấng Christ, và bị đặt dưới cơn thạnh nộ của Ngài.

(3) Không còn có tia hy vọng nào, không còn có cơ hội thứ hai cho người bị án phạt trong hồ lửa đời đời.

B. NƠI HÌNH PHẠT NGƯỜI ÁC.

Chỗ hình phạt người ác được Kinh Thánh nói đến trong hai từ sau:

1. Địa ngục (Mat 5:22,29-30,18:9).

Chữ “Địa ngục” được dịch từ chữ Hy-lạp là Ge-hen-na và tiếng Hy-bá-lai gọi là “trũng Hi-nôm”. Có chừng 13 lần Kinh Thánh Tân Ước đề cập đến chữ nầy. Theo nghĩa đen, Ge-hen-na hay trũng Hi-nôm, là một địa điểm cách thành Giê-ru-sa-lem chừng một dặm rưỡi về phía Đông Nam là nơi trước kia dân ngoại thiêu con cái họ trong lửa để cúng tế cho thần Mô-lóc, một điều vô cùng gớm ghiếc trước mặt Đức Chúa Trời (2Các 23:10). Sau nầy, người Do Thái dùng chỗ ấy làm nơi đổ rác, hoặc những vật ô uế thừa thải, có lửa cháy không dứt, và dần dần trở thành một hầm lửa. Vì vậy, chữ Ge-hen-na được Kinh Thánh dùng làm tượng trưng cho nơi đau khổ, rủa sả hình phạt người gian ác vĩnh viễn trong tương lai, nơi Chúa Giê-xu bày tỏ “sẽ có khóc lóc và nghiến răng” (Mat 24:51), mà chúng ta gọi là địa ngục.

2. Hồ lửa và diêm (Khải 20:10,14-15).

Hồ lửa và diêm hay gọi là “hồ cháy bằng lửa và lưu huỳnh chẳng hề tắt”. Lưu huỳnh là chất cháy tỏa ra năng lượng rất cao. Sự nóng bỏng nầy diễn tả được nơi đau đớn kinh khiếp hình phạt người ác!

Một câu hỏi có thể nêu lên ở đây là: Lửa đoán phạt người ác có phải là lửa hữu hình không? Với độ nóng của diêm sanh thì xác thịt nào có thể chịu nổi? Hơn nữa, sa-tan và các thiên sứ là thuộc thể linh, thì làm sao có thể bị đốt cháy trong hồ lửa diêm sanh?

Thật ra, lửa diêm sanh là hình bóng chỉ về thứ lửa vô hình. Trong cõi đời nầy, lửa hữu hình thích hợp vật chất thể nào thì trong cõi đời sau, lửa vô hình cũng thích ứng với thể linh như vậy. Vì thể chất tiêu tán nên lửa hữu hình cũng có khi tắt. Nhưng với linh thể bất diệt, thì ngọn lửa vô hình kia cũng sẽ chẳng hề tắt. Thực ra, điểm chính không phải là tính chất của lửa, nhưng lửa được Kinh Thánh nói đến để chúng ta có thể nhờ đó mà nhận biết được sự kinh khiếp của nơi đoán phạt người ác trong cõi đời đời.

Tóm lại, địa ngục hay hồ lửa là nơi vĩnh hình của người ác. Kinh Thánh không xác định địa điểm của nơi nầy, nhưng là một nơi có thực, nơi Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho người ác. Trong ngày phán xét cuối cùng, người ác được tạm giam trong âm phủ sẽ được chuyển vào nơi hỏa ngục là nơi vĩnh hình của chúng.

3. Những đối tượng chịu hình phạt nơi hồ lửa.

Người ác được nói đến trong Khải Huyền 21:8 có thể được liệt vào hạng người cứng lòng chẳng bao giờ ăn năn, và kết hợp với sa-tan không thôi chống nghịch Đức Chúa Trời, khinh lờn, phạm thượng đến Đức Thánh Linh (Rô 2:5; Mác 3:29), cho nên họ cũng chung số phận với sa-tan trong hồ lửa đời đời. Về những người lộng ngôn với Đức Thánh Linh, nhà thần đạo A.H. Strong luận như sau: “… là người chẳng dứt phạm tội, sự chẳng dứt phạm tội đó đã chuốc lấy cho họ sự đau đớn đời đời, đó là hình phạt đã định, tức là sự đoán phạt đời đời”.

C. CẢNH TRẠNG CỦA NGƯỜI ÁC TRONG NƠI VĨNH HÌNH.

Cảnh trạng người ác trong
hỏa ngục.- Sống chung với sa-tan và các ác quỉ.- Đời đời xa cách Đức Chúa Trời.

– Đau khổ khóc lóc và buồn thảm ngày đêm chẳng dứt.

– Bị rủa sả, không được dự phần trong ân điển cứu rỗi của Chúa.

– Tuyệt vọng không được giải cứu.

– Ở trong sự tối tăm và hổ thẹn.

Cảnh trạng người công bình nơi Thiên đàng.- Được sống với Chúa.

– Được giao thông với Ngài.

– Vui thỏa, phước hạnh mãi mãi trong sự hiện diện của Chúa.

– Được dự phần cơ nghiệp trong sự cứu rỗi của Chúa.

– Được sung mãn trong thế giới vô biên.

– Được mặc lấy thân thể vinh hiển sáng láng lạ lùng.

Bảng so sánh trên cho thấy hai bức ảnh tương phản giữa người công bình và người ác. Trong cõi đời nầy người công bình bị người ác áp bức. Nhưng trong cõi đời sau, người công bình được phước, và người ác bị đoán phạt tùy theo công việc họ làm. Đức Chúa Trời là Đấng công bình dường nào! Đây là điều an ủi người công bình đang chịu khổ, cũng như cảnh cáo người ác về sự đoán phạt của Chúa, nếu không ăn năn.

Vì vậy, sống trong cõi đời tạm, người công bình hãy bền lòng tin cậy Chúa, sống với tình yêu thương, đem ân điển cứu rỗi của Chúa cho mọi người để họ không bị sa vào hồ lửa đời đời.

Về sự vĩnh hình, với các thuyết như phục hồi, tiêu diệt, và cơ hội thứ hai là điều không thể chấp nhận được theo như lẽ thật Kinh Thánh chúng ta đã học. Vì những lẽ sau đây:

1. Hỏa ngục là nơi hình phạt người ác chớ không là nơi cải thiện người ác. Không phải Đức Chúa Trời không có tình yêu thương, vì Ngài đã ban cho loài người cơ hội để ăn năn (2Phi 3:9-10), và đây là lúc sự công nghĩa phải được thi hành.

2. Trong câu chuyện người giàu có và La-xa-rơ, chúng ta thấy rõ không có cơ hội thứ hai để được cứu sau khi qua đời (Lu 16:19-31).

3. Nếu người ác bị tuyệt diệt trong hỏa ngục, thì tại sao lửa hỏa ngục đời đời chẳng hề tắt? (Khải 20:10).

Như vậy, điểm nguy hại của các thuyết trên là khiến cho tín đồ bê trễ trong việc rao giảng Tin Lành; cũng như người ta thờ ơ với ơn cứu rỗi của Chúa trong khi còn có dịp tiện là “ngày nay”, vì nghĩ rằng “không sao”, còn có cơ hội thứ hai… Và cho dù có sa vào nơi khổ hình, thì cũng có ngày được phục hồi nhận cứu ân của Chúa?

Tóm lược.

1. Án phạt của người ác trong ngày phán xét cuối cùng là sự chết thứ hai, tức là sự chết đời đời.

2. Hỏa ngục là nơi vĩnh hình của người ác.

3. Trong cõi đời đời người ác sẽ cùng chung số phận với Sa-tan trong hỏa ngục.

4. Không có sự tận diệt, không có sự phục hồi, không có cơ hội thứ hai cho người bị hình phạt trong hỏa ngục, tỏ rằng sự công nghĩa của Đức Chúa Trời nghiêm trọng là dường nào!

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. a. Khải Huyền 20:14: Án phạt trên người ác trong ngày phán xét cuối cùng là gì? Và có nghĩa gì?

b. Sự hình phạt đời đời trên người ác còn được Kinh Thánh nói đến trong những từ nào khác và có nghĩa gì? (Ê-phê-sô 1:9; Phi-líp 3:19, 1Giăng 5:12, Ma-thi-ơ 8:12, 25:41,46, Giăng 3:36).

2. Xin tìm hiểu ý nghĩa những chữ sau đây:

a. Địa ngục: Ma-thi-ơ 5:22,29-30;18:9.

b. Hồ lửa: Khải Huyền 20:10,15.

3. Theo ý nghĩa trên cho chúng ta hiểu thế nào về nơi hình phạt người ác?

4. Khải Huyền 20:10,14-15; 21:8: Trong nơi đoán phạt nầy gồm có những ai? Tại sao họ phải chịu chung hình phạt với ma quỉ?

5. Xin tóm lược những điều nói về án phạt và nơi hình phạt. Xin tìm hiểu cảnh trạng của người ác thế nào trong nơi vĩnh hình nầy? (Xem thêm Khải 9:2,11; 20:10b).

6. So sánh cảnh trạng của người công bình và người ác trong nơi Thiên đàng và địa ngục. Sự khác nhau nầy cho chúng ta nhận biết trách nhiệm gì của mình trong cuộc sống trên cõi tạm nầy đối với chính mình, với người nhà mình và những người chung quanh chúng ta?

7. Bạn có thái độ nào đối với Chúa khi học biết về sự công nghĩa của Ngài?

8. Biết được sự vĩnh hình của người ác, bạn có nhận thức gì về trách nhiệm của mình trong cõi đời nầy đối với người chưa tin Chúa?

 

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 19.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 19.04.2015

in Thanh niên on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 19.04.2015.

1. Đề tài: VẤN ĐỀ TỰ HỦY HOẠI THÂN THỂ.

  1. Kinh Thánh: Thi Thiên 139:13-16; 1Cô-rinh-tô 3:16-17.

3. Câu gốc: “…Chẳng có người nào trong chúng ta vì chính mình mà sống, cũng chẳng có người nào trong chúng ta vì chính mình mà chết; vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, và nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa” (Rô 14:7-8a).

4. Đố Kinh Thánh: Ê-xê-chi-ên 39-43.

5. Thể loại: Giải đáp thắc mắc.

* CHỈ DẪN: Giải đáp thắc mắc.

1. Thông báo đề tài “Vấn đề tự hủy hoại thân thể” đến tất cả ban viên và thu thập những thắc mắc gởi cho ủy viên linh vụ.

2. Ủy viên linh vụ nhờ người có kinh nghiệm thuộc linh và có kiến thức về xã hội tốt để giải đáp thắc mắc.

3. Các câu hỏi phải sắp xếp theo đúng bố cục để người nghe dễ dàng hiểu được nội dung của chủ đề. Sau mỗi câu trả lời, cần dành ít phút để ban viên thảo luận hoặc hỏi thêm.

4. Ban hướng dẫn cần kiên nhẫn tìm hiểu ban viên của mình và nêu lên những thắc mắc thay họ, vì có một số câu hỏi mà họ không dám hỏi. Ngoài ra, ban hướng dẫn cũng nên soạn trước một số câu hỏi dựa theo nội dung của bài học, phòng khi có quá ít câu hỏi, bạn cũng có thể hoàn tất mục tiêu được đề ra cho buổi nhóm.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Theo cuộc thăm dò của một tổ chức Y tế thế giới, ước lượng mỗi ngày trên thế giới có khoảng 1.000 người tự sát. Riêng tại Hoa Kỳ hằng năm có hơn 25.000 người tự sát. Con số này hiện nay đang gia tăng, nhất là trong vòng giới trẻ từ 15 đến 24 tuổi. Tỷ lệ tự sát vì cớ thất vọng ở lứa tuổi thanh thiếu niên mỗi ngày chiếm 13/5.000 người. Tỷ số người tự sát tăng lên gấp đôi nhiều hơn mười năm về trước và gấp ba so với hai mươi năm về trước.

Tại sao số người tự sát nhảy vọt giữa vòng tuổi thanh thiếu niên? Một chuyên viên y tế và tâm lý trả lời rằng: Vì chúng không tin vào tương lai.

Sự tự sát chẳng những xảy ra trong vòng người không tin Chúa, nhưng đôi lúc cũng có trong cộng đồng Hội Thánh Chúa. Vì vậy, chúng ta cần xem xét để tìm hiểu vấn đề thế nào theo sự soi dẫn của Lời Kinh Thánh?

I. DẪN GIẢI.

A. NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ TỰ SÁT.

Có nhiều lý thuyết giải thích nguyên nhân tự sát. Vì sự tự sát có những trường hợp khác nhau, nên nguyên nhân cũng cần được nhìn trong nhiều khía cạnh.

1. Khía cạnh xã hội: Vì bối cảnh văn hóa và xã hội.

Theo thuyết Durkheim cho rằng tỷ số người tự sát tùy thuộc vào bối cảnh của nền văn hóa và xã hội. Nhiều sự kiện cho thấy tỷ số người tự sát ở các nước không liên kết cao hơn ở các nước liên kết. Ở các nước như Hà Lan, Ái Nhĩ Lan, Na Uy, Tây Ban Nha, mức độ người tự sát thấp hơn ở các nước Thụy Sĩ và Đan Mạch.

2. Khía cạnh tâm lý: Vì khủng hoảng tinh thần.

Theo các nhà tâm lý học và tâm bệnh học cho rằng, sự tự sát có thể xảy ra khi người ta cảm thấy bị cô thế, thất bại cá nhân, tự ái bị tổn thương, tự ti mặc cảm, mất tự tin, mất hy vọng, chán nản, ghét đời, ghét chính mình. Như A-bi-mê-léc tự sát vì sợ bị sỉ nhục (Các Quan Xét 9:50-54), vua Sau-lơ tự sát vì cô thế tuyệt vọng (1Sa 31:4-6), A-hi-tô-phe tự sát vì tự ái bị tổn thương (2Sa 17:23). Cũng có trường hợp tự sát để bày tỏ lòng thành, như người đầy tớ vua Sau-lơ tự sát vì thấy chủ của mình chết (1Sa 31:5).

3. Khía cạnh tâm linh: Vì mặc cảm tội lỗi.

Tự sát có thể xảy ra khi không tìm được sự tha thứ, khi lương tâm bị giày vò cắn rứt không có sự bình an. Như Xim-ri tự thiêu vì mặc cảm tội lỗi chống nghịch Chúa (1Các Vua 16:18-19). Giu-đa Ích-ca-ri-ốt treo cổ chết vì mặc cảm phản Chúa (Mat 27:3-5).

Theo quyển “Theory of Suicide”, tác giả Farber cố gắng dung hòa sự tương quan giữa yếu tố cá nhân và xã hội. Ông cho rằng hoạt động cá nhân có tương quan đến hy vọng. Hy vọng có thể định nghĩa như là một ước mơ, tin tưởng điều ta mong mỏi sẽ trở thành sự thật. Bác sĩ Calvin Frederick cũng nhận rằng nguyên nhân chính khiến giới trẻ tự sát hiện nay tại Hoa Kỳ có thể gồm trong ba chữ KHÔNG: Không may mắn, không được giúp đỡ, không hy vọng. Người trẻ tuổi không tin tưởng ở tương lai. Đây là tình trạng của người sống trong quyền lực của tối tăm, không có Đức Chúa Trời hằng sống (Êph 2:1-12).

B. TỰ SÁT VÀ DẠY DỖ CỦA KINH THÁNH.

Chúng ta phân biệt ý nghĩa của chữ tự sát và hiến thân. Tự sát có nghĩa tự hủy hoại thân mình vì mục đích ích kỷ cá nhân. Còn hiến thân nghĩa là tự nguyện hy sinh mạng sống của mình cho một lý tưởng, một chính nghĩa hay một mục đích cao thượng vô kỷ.

Theo ý nghĩa trên và theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, tự sát là điều không hợp lẽ đối với niềm tin của Cơ Đốc nhân, vì những lý do sau đây:

1. Sự sống, sự chết của con người thuộc quyền tể trị của Đức Chúa Trời.

Con người ra đời với số ngày đã được Đức Chúa Trời định. Và Chúa có thời điểm cho mỗi đời sống con người theo chương trình tốt lành của Ngài (Gióp 14:5; Thi 139:13-16).

2. Xúc phạm sự sống con người là xúc phạm đến Đức Chúa Trời.

Trong Xuất Ê-díp-tô Ký 20:13, Đức Chúa Trời ban điều răn cho dân Y-sơ-ra-ên ngăn cấm sự giết người, vì con người được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời (Sáng 9:6). Song song với điều răn, Đức Chúa Trời cũng có mạng lịnh cho dân sự hãy yêu thương người lân cận, cũng như lời khuyên hãy chăm sóc chính thân mình (Lê-vi Ký 19:18; Êph 5:23-29,33). Như vậy, có nghĩa chúng ta không được phép cất mạng sống kẻ khác, cũng như không nên hủy hoại chính thân mình.

3. Sự sống con người là quà tặng quý báu từ Đức Chúa Trời.

Chúng ta có trách nhiệm gìn giữ và sống vì cớ danh Ngài (Rô 14:6-7).

4. Thân thể chúng ta là đền thờ của Đức Thánh Linh ngự trị.

Sự phá hủy thân thể là phá hủy đền thờ của Chúa. Thân thể chúng ta cần được gìn giữ khỏi sự ô uế của thế gian, cần được chăm sóc để trở thành đồ dùng của sự công bình, làm sáng danh Đức Chúa Trời (1Côr 3:16-17; 6:19-20).

5. Đức Chúa Trời chăm sóc và nâng đỡ kẻ ngã lòng.

Khi Môi-se ngã lòng vì mệt mỏi với gánh nặng chăn dắt dân Y-sơ-ra-ên, ông cầu xin Chúa cất mạng sống mình, nhưng Đức Chúa Trời chuẩn bị có những người giúp đỡ Môi-se. Khi tiên tri Ê-li bị hoàng hậu Giê-sa-bên hăm dọa và sợ hãi chạy trốn trong đồng vắng, ông cầu xin Chúa cất mạng sống mình, nhưng Đức Chúa Trời sai thiên sứ đem bánh và nước bổ sức lại cho Ê-li, và cho ông một sứ mạng mới (1Các Vua 19:1-8). Khi tiên tri Giô-na bất mãn ngã lòng vì thấy Đức Chúa Trời không hình phạt dân thành Ni-ni-ve, ông cầu xin Chúa cất lấy mạng sống của mình, nhưng Đức Chúa Trời khiến dây dưa mọc lên che chở cho Giô-na khỏi bị nắng nóng và dạy cho ông bài học về lòng thương xót của Ngài (Giô-na 4:1-6).

Tóm lại, những điểm trên cho chúng ta thấy rõ ý chỉ của Đức Chúa Trời là Ngài muốn chúng ta sống gìn giữ và quý trọng sự sống Ngài ban cho, theo thời điểm Ngài đã định để tôn vinh Đấng tạo hóa, làm thành mục đích tốt đẹp của Ngài đối với đời sống chúng ta. Trái lại, ma quỉ thường xui khiến con người hủy hoại thân mình (Mác 5:1-5).

C. ĐỀ PHÒNG SỰ TỰ SÁT.

Sự tự sát có những trường hợp khác nhau, tuy nhiên nhìn qua các nguyên nhân của sự tự sát, có thể nói điểm chính khiến con người tự sát là vì không có hy vọng, họ tuyệt vọng đến mức tột cùng. Ngoại trừ người cố ý tự sát, thì khó có cách hữu hiệu để đề phòng. Nhưng nói chung người tự sát trong giờ phút cuối cùng vẫn còn muốn được giúp đỡ. Vì vậy trong sự đề phòng tự sát, chúng ta cần nói đến hai khía cạnh: Chủ quan (về phía người tự sát) và khách quan (về phía người giúp đỡ).

1. Chủ quan (về phía người tự sát): Làm thế nào tránh khỏi sự cám dỗ tự sát. Trước sự cám dỗ tự sát, chúng ta cần nhận biết những điều gì? Và có hành động gì?

a. Tự sát không phải là cách khôn ngoan để giải quyết vấn đề. Đó chỉ là sự thất bại, một quyết định dại dột (Gióp 2:8-10).

b. Tự sát là sự xúi giục của ma quỉ, chớ không phải là ý chỉ của Đức Chúa Trời. Vậy hãy nhờ Chúa xua đuổi ý nghĩ tự sát khỏi tâm trí chúng ta.

c. Vẫn còn hy vọng, vẫn còn có lối thoát: Đức Chúa Trời chúng ta là Đức Chúa Trời của hy vọng (Rô 15:13). Hy vọng của Cơ đốc nhân khác hơn “hy vọng chết” của người mượn cái chết làm lối thoát như sự diễn tả của Nietzsche: “Ý nghĩ tự sát đôi lúc là sự an ủi lớn và bởi cách ấy, ta có thể vượt qua nhiều giày vò của một đêm ác mộng!” Nhưng hy vọng của người Cơ Đốc là hy vọng sống, vì được đặt trong Chúa Giê-xu Christ, Đấng Sống bất biến. Niềm hy vọng vững chắc này sẽ đưa chúng ta đến chân trời tươi mới, đến lối thoát vượt qua những khủng hoảng đen tối của cuộc đời.

d. Vẫn còn có lời hứa thành tín: Đức Chúa Trời hứa ở cùng nâng đỡ người trong cơn nguy biến, ban cho họ sự bình an, vui mừng và giải cứu họ (Ê-sai 43:1-2; Giăng 14:18-27). Vậy chúng ta hãy để thì giờ đọc Kinh Thánh, tìm kiếm Chúa và nương cậy sự thành tín của Ngài.

e. Vẫn còn có nơi nương tựa: Hãy biết rằng Chúa Giê-xu Christ là nơi an nghỉ của chúng ta. Chúa kêu gọi kẻ mệt mỏi đến cùng Ngài, trao mọi gánh nặng cho Ngài, vì Ngài chăm sóc chúng ta (Mat 11:28; 1Phi 5:8). Vậy chúng ta hãy đặt hết lòng tin cậy Chúa, cầu nguyện tìm kiếm sự giải cứu của Ngài trong giờ phút nguy nan đường cùng của đời sống.

2. Khách quan (phía người giúp đỡ).

Có một số dấu hiệu để nhận biết người nào thực sự có ý định tự sát như: (1) Người đó nói cho người bạn thân về ý định tự sát, không muốn sống nữa. (2) Người đó ở trong tình trạng khủng hoảng tinh thần ở mức độ trầm trọng. (3) Người đó chuẩn bị viết di chúc, soạn giấy tờ bảo hiểm… và bắt đầu cách ly với bạn bè.

Cho nên chúng ta cần có sự nhạy cảm theo dõi từng bước, để có thể nhờ ơn Chúa khuyên giải, hoặc nhờ người có chuyên môn, hoặc có những hành động giúp đỡ kịp thời lúc khẩn cấp.

Với vấn đề tự sát, người Cơ đốc có đáp ứng thế nào?

Năm 1906 có một tổ chức đầu tiên mang tên “Save a Life League” (Liên Đoàn Cứu Sự Sống) tại thành phố Nữu Ước do Harry Warren, một Mục sư của hội Báp-tít thành lập, với mục đích giúp đỡ người trong tình trạng tuyệt vọng, tránh khỏi tự sát. Sau đó có những tổ chức tương tự như tổ chức mang tên “The Samaritans” (Người Sa-ma-ri) vào năm 1953, do Chad Urah, linh mục người Anh, có chương trình cũng giống tổ chức trên. Đến năm 1966, tổ chức này có 75 chi nhánh ở khắp nước Anh. Hiện nay, với tỷ số người tự sát càng gia tăng, chúng ta có đáp ứng gì? Chẳng những chúng ta có trách nhiệm chăm sóc người anh em trong Chúa lúc ngã lòng, nhưng chúng ta cũng nên lưu tâm đến những người tuyệt vọng bên ngoài Hội Thánh, nhạy cảm với nhu cầu của họ, nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh đến với họ kịp lúc, hầu giúp họ tìm được niềm hy vọng và sự giải cứu trong Đấng Christ.

3. Vài câu hỏi về sự tự sát.

a. Người tin Chúa tự sát, đi Thiên đàng hay địa ngục? Đây là câu hỏi khó có câu trả lời xác định, vì những lý do sau đây:

– Kinh Thánh có ghi nhận một số sự kiện tự sát nhưng không có lời trực tiếp lên án sự tự sát. Tuy nhiên Kinh Thánh cũng bày tỏ tự sát là điều trái với ý chỉ của Đức Chúa Trời đối với con người thọ tạo.

– Đức Chúa Trời là Đấng thương xót người trong lúc ngã lòng. Ngài thấu rõ lòng người trong mọi hoàn cảnh. Chúng ta không lạ gì người tự sát vì mặc cảm tội lỗi như Giu-đa. Nhưng chúng ta cũng thắc mắc khó hiểu đôi lúc thấy có người rất tin kính Chúa lại tự chấm dứt cuộc đời cách bi thảm như W. Cowper, nhà sáng tác nhạc truyền giảng Tin Lành với nhiều bài hát thật rung cảm bày tỏ tình yêu thương và ơn tha thứ của Chúa. Chúng ta tin rằng Chúa biết rõ mọi suy nghĩ và hành động của mỗi người, và Ngài đoán xét theo sự công bình, hoặc theo lòng yêu thương tha thứ của Ngài. Đây là điều thuộc thẩm quyền của Chúa. Vì vậy chúng ta chẳng nên định tội hay lên án kẻ tự sát, nhưng cầu nguyện giao phó họ trong bàn tay thương xót của Chúa. Phần của chúng ta là làm thế nào để giúp người tránh khỏi sự tự sát.

b. Sự tự sát vì bệnh tật đau đớn kéo dài là điều hợp lẽ không?

Chúng ta cảm thông nỗi đau khổ của bệnh tật. Chúng ta biết Đức Chúa Trời yêu thương con người trong đau khổ. Ngài không những ban Con Ngài đến thế gian để mang lấy tội lỗi và bệnh tật của con người, nhưng Ngài cũng dự bị cho con người những phương thuốc làm giảm cơn đau và những người thân chăm sóc, giúp đỡ lúc cần. Vậy trong hoàn cảnh đau đớn bệnh tật, tốt hơn chúng ta nên kiên nhẫn, chờ đợi đến thời điểm của Chúa, để mục đích tốt lành của Ngài được hoàn thành trên đời sống chúng ta.

Tóm lược.

1. Sự tự sát có thể đến từ những nguyên nhân như áp lực của xã hội, sự khủng hoảng trong tinh thần và mặc cảm tội lỗi trong tâm linh. Và điểm chính là không còn có hy vọng.

2. Sự tự sát là điều trái với ý chỉ của Đức Chúa Trời, xúc phạm đến Đức Chúa Trời và quyền tể trị của Ngài, vì không quý trọng, chăm sóc và gìn giữ sự sống như món quà quý báu của Chúa ban cho để làm sáng danh Ngài.

3. Quyết định dứt bỏ ý nghĩ tự sát ra khỏi tâm trí. Tìm kiếm Đức Chúa Trời của hy vọng và bình an, đọc Kinh Thánh nắm chắc lời Chúa hứa, hết lòng tin cậy nương náu mình trong Chúa Giê-xu, trao gánh nặng của mình cho Ngài. Đó là những cách tránh sự cám dỗ tự sát.

4. Chẳng những chúng ta đề phòng tự sát, nhưng còn có trách nhiệm giúp đỡ, khuyên giải người có ý định tự sát.

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Xin đọc Kinh Thánh và tìm hiểu tại sao những người này tự sát: Các Quan Xét 9:50-54; 1Sa-mu-ên 31:4-6; 17:23; 2Các Vua 16:18-19; Ma-thi-ơ 27:3-5.

2. Những lý do nào khiến người ta tự sát?

3. Xin đọc những câu Kinh Thánh sau đây và tìm hiểu:

a. Xuất 20:13; Sáng Thế Ký 9:6: Đức Chúa Trời có điều răn gì cho dân Y-sơ-ra-ên? Tại sao?

b. Gióp 14:5; Thi Thiên 139:13-16: Đời sống của mỗi cá nhân thuộc thẩm quyền của ai?

c. 1Cô-rinh-tô 3:16-17; 6:19-20; Ê-phê-sô 5:23-29,33: Chúng ta có trách nhiệm thế nào đối với thân thể mình? Tại sao?

d. Dân Số Ký 11:10-17; 1Các Vua 19:1-8; Giô-na 4:1-6: Tiên tri Môi-se, Ê-li và Giô-na xin Đức Chúa Trời điều gì? Tại sao họ xin như vậy? Chúa đáp ứng thế nào với điều họ xin?

4. Sự tự sát là điều hợp lẽ với người Cơ Đốc không? Xin trình bày.

5. Xin đọc những câu Kinh Thánh sau và tìm hiểu:

a. Gióp 2:8-10: Tự sát có phải là cách khôn ngoan để giải quyết vấn đề không?

b. Rô-ma 15:13: Trong Đức Chúa Trời chúng ta tìm được điều gì?

c. Rô-ma 14:7-8: Mục đích của đời sống chúng ta trên đất là gì?

d. Ê-sai 43:1-2; Giăng 14:18-27; 1Cô-rinh-tô 10:13: Chúa có lời hứa gì cho con cái Ngài?

e. Phi-líp 4:4-6; 1Phi-e-rơ 5:8: Chúng ta nên làm gì khi gặp khó khăn?

6. Điểm quan trọng nào để đề phòng sự tự sát có thể xảy ra?

7. Câu hỏi thảo luận:

– Người tin Chúa tự sát thì đi Thiên đàng hay địa ngục?

– Sự tự sát vì cớ đau đớn của bệnh tật là điều hợp lẽ không?

– Dấu hiệu nào biết người có quyết định tự sát? Làm thế nào để giúp họ trong trường hợp ấy?

8. Xin cho biết:

– Khi gặp chán nản hay trong hoạn nạn bạn thường nghĩ gì?

– Bạn quý trọng và gìn giữ sự sống Chúa ban cho như thế nào?

– Bạn làm gì giúp người đang ở trong sự chán nản và không muốn sống nữa?

 

 

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 12.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 12.04.2015

in Thanh niên on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 12.04.2015.

1. Đề tài: NƠI Ở ĐỜI ĐỜI CỦA NGƯỜI CÔNG BÌNH.

2. Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 25:34; Giăng 14:2-3.

3. Câu gốc: “Hỡi các ngươi được Cha Ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất” (Mat 25:34b).

4. Đố Kinh Thánh: Giê-rê-mi 41-45.

5. Thể loại: Trò chơi lớn.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 25.01.2015.

* Diễn tiến trò chơi.

             a. Mở đầu.

                             BHD cho các nhóm tranh đua với nhau. Nhóm xếp hàng dọc trước BHD. Khi các nhóm đã ổn định, người hướng dẫn giới thiệu chủ đề: Nơi ở đời đời của người công bình.

Thưa các bạn! Theo sự bày tỏ của Kinh Thánh, người tin Chúa sau khi chết, linh hồn được sống với Ngài trong Ba-ra-đi để chờ đợi sự cứu chuộc thân thể. Khi Đấng Christ tái lâm, người tin Chúa được sống lại và vào nơi vinh hiển của mình. Để hiểu biết thêm về nơi ở và đời sống phước hạnh của người tin, mời các bạn cùng tham gia trò chơi hôm nay.

             b. Xuất phát.

Tất cả các nhóm phải tập trung tại điểm xuất phát. Ban tổ chức phổ biến thể lệ cuộc thi và mỗi nhóm cử ra một người, đại diện nhóm để “Vượt chướng ngại vật”.

(“Chướng ngại vật” là những câu hỏi do ban tổ chức soạn ra như: Vì sao con người phải chết? Sau khi chết, con người sẽ đi về đâu?…)

Đại diện của nhóm nào vượt qua được “chướng ngại vật” mới được nhận mật thư.

* Mật thư 1: TIMF CAAU HOIR DWIS QUYEENR KINH THANHS TAIJ TOAF GIANGR.

± Chìa khóa: Chữ điện tín.

Trạm 1.

± Yêu cầu:

– Tập trung nhóm thành hàng dọc, báo cáo số người trong nhóm.

– Phát câu hỏi viết sẵn ra giấy, cho nhóm thảo luận và trả lời câu hỏi.

1. Đọc Rô-ma 2:7; 6:23; Ma-thi-ơ 25:46 cho biết trong sự phán xét của Chúa, người công bình nhận được ân phúc gì?

                        2. Đánh X vào câu đúng nhất.

Sự sống đời đời là:

                                                ¨ Sự sống từ Chúa.   ¨ Sự sống trong Chúa.

            ¨ Sự sống với Chúa.             ¨ Tất cả các câu trên.

* Mật thư 2:

± Chìa khóa:

T

I M N G U
G C H U T O
N A N G H I
A Đ N E I C
B G N A M O


Trạm 2.

± Yêu cầu:

– Tập trung nhóm thành hàng dọc, báo cáo số người trong nhóm.

– Phát câu hỏi viết sẵn ra giấy, cho nhóm thảo luận và trả lời câu hỏi.

(1) Đánh X vào câu đúng nhất.

Nơi ở đời đời của người công bình là:

¨ Ba-ra-đi. ¨ Thiên đàng. ¨ Một nơi khác.

(2) Trả lời câu hỏi.

   – Theo Kinh Thánh, Thiên đàng còn có những tên gọi nào?                            

* Mật thư 3:

T P I H M U D O O C
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
N H G A C N H H U
11 12 13 14 15 16 17 18 19

± Chìa khóa: Trước lẻ, sau chẵn. 

Trạm 3.

± Yêu cầu:

– Tập trung nhóm thành hàng dọc, báo cáo số người trong nhóm.

– Phát câu hỏi viết sẵn ra giấy, cho nhóm thảo luận và trả lời câu hỏi.

Đọc Ma-thi-ơ 25:46; 3:11,12; 22:3-4; Rô-ma 8:17, kể ra những phước hạnh của người công bình trong nơi ở đời đời.

3. Kết thúc.

                                Thưa các bạn!

Chúng ta biết Chúa ban sự sống đời đời cho người công bình. Tại thiên đàng, người công bình được giao thông với Chúa mặt đối mặt, được nhận biết đầy trọn, được vui vẻ và thỏa mãn, được thoát khỏi quyền lực của tội lỗi, được hưởng cơ nghiệp trong Đấng Christ, được hầu việc và thờ phượng Chúa…

                                Nguyện mỗi người chúng ta có sự chuẩn bị trong đời nầy để hưởng trọn niềm vui sống với Ngài trên Thiên đàng. 

                                – Cầu nguyện theo sự dạy dỗ.

– Công bố kết quả và phát thưởng.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Luận về vấn đề sống chết của con người, theo sự bày tỏ của Kinh Thánh thì loài người trên trần gian nầy sẽ đi vào ba giai đoạn. Thứ nhất, phải trải qua sự chết. Thứ hai, sau khi chết linh hồn người tin được sống với Ngài trong Ba-ra-đi gọi là nơi tạm cư để chờ đợi sự cứu chuộc thân thể, còn linh hồn người ác bị giam giữ nơi Âm phủ để chờ đợi sự phán xét. Và giai đoạn thứ ba, với sự tái lâm của Đấng Christ, người tin được sống lại và vào nơi vĩnh viễn của mình, còn người chẳng tin cũng được sống lại để chịu sự phán xét và đi vào nơi hình phạt đời đời của mình. Trong bài học nầy chúng ta tìm xem người công bình sẽ nhận được sự ban thưởng gì? Đâu là nơi ở của người công bình? Và đời sống nơi đó sẽ như thế nào?

I. DẪN GIẢI.

A. PHƯỚC HẠNH CỦA NGƯỜI CÔNG BÌNH.

Trong ngày phán xét cuối cùng, người ác lãnh án phạt là sự chết đời đời. Trái lại người công bình nhận lãnh phước hạnh là sự sống đời đời.

1. Ý nghĩa của chữ “đời đời”.

“Đời đời” theo nguyên văn Hy-lạp là Aion (danh từ); hoặc Aaionios (tính từ). Trong Kinh Thánh Tân Ước, chữ đời đời được dùng trong hai hình thức danh từ và tính từ. Về cách dùng nầy, nhà thần đạo A. A Hodge luận như sau:

“Ngoài hai chữ Hy-lạp aion và aionios, chẳng có chữ nào sáng tỏ hơn để diễn tả ý niệm vĩnh cửu vô cùng, vô tận, vô biên. Mặc dầu trong Kinh Thánh Tân Ước có vài chữ đời đời được dùng để chỉ thời gian hữu hạn, nhưng hầu hết những chỗ khác, chữ đời đời đều được ám chỉ thời gian vô hạn. Trong ý nghĩa nầy, chữ đời đời được dùng để chỉ về sự vĩnh hằng của Đức Chúa Trời Ba Ngôi; chỉ về tương lai phước hạnh vĩnh viễn của người công bình cũng như tương lai vĩnh hình của người ác(1Tim 1:17; Khải 1:18; Hê-bơ-rơ 9:14; Giăng 6:57; Rô 2:7; Mat 25:46).

Như thế, theo cách diễn giải trên thì nỗi khổ hình đời đời của người ác, cũng như cảnh phước lạc đời đời của người công bình sẽ mãi mãi lâu dài bằng với sự vĩnh hằng bất biến của Đức Chúa Trời. Hiểu được nghĩa của chữ đời đời, chúng ta cảm nhận phước hạnh  tương lai dành cho người công bình lớn biết bao, đồng thời cũng cảm thấy án phạt trên người ác trong tương lai thật là kinh khiếp dường nào!

2. Ý nghĩa của “sự sống đời đời”.

Sự sống đời đời gọi là vĩnh sanh bao gồm những ý nghĩa như sau:

(1) Sự sống bất diệt, nghĩa là sự sống hằng còn mãi mãi, sự sống chẳng hề chấm dứt (Giăng 3:16; Mat 19:16; 25:46).

(2) Sự sống thật hay sự sống chân thật: Chỉ về sự sống đến từ Đấng Christ, Ngài là nguồn sống vô tận, và người tin nhận Ngài sẽ nhận được sự sống ấy (Giăng 14:6; 3:36).

(3) Sự cứu rỗi: Sự cứu rỗi đồng nghĩa với sự sống đời đời, vì người được cứu, tức là được nhận lấy sự sống của Chúa (Mác 16:16; Rô 5:10).

(4) Sự sống đời đời bắt đầu ngay trong hiện tại, tức lúc còn ở trong đời nầy: Khi người thật lòng tin Chúa, được tái sanh, thì nhận được sự sống đời đời. Và từ đó sự sống của Đấng Christ cứ mãi tuôn tràn và người bước vào sự sống bất tận trong cõi đời sau: Sự sống đời đời trong một thân thể được biến hóa vinh hiển không hư nát!

(5) Sự sống đời đời là lẽ trông cậy lớn của người tin Chúa, là phước hạnh mà họ được tận hưởng nơi Ngài trong tương lai (Giăng 17:3).

(6) Sự sống đời đời là nhận biết Đức Chúa Trời là Chân Thần duy nhất, và Chúa Giê-xu là Đấng Cha sai đến (Giăng 17:3).

Tóm lại, sự sống đời đời là sự sống từ Chúa, sự sống trong Chúa, và sự sống với Chúa, là sự sống chỉ có ở trong người được tái sinh, được giải cứu khỏi hậu quả của tội lỗi, được xưng nghĩa bởi huyết Đấng Christ, được thánh hóa bởi Đức Thánh Linh, được sự giao thông với Đức Chúa Trời, được ở trong sự hiện diện của Ngài mãi mãi, và tận hưởng phước hạnh bất tận của Ngài.

B. NƠI Ở CỦA NGƯỜI CÔNG BÌNH.

Đâu là nơi ở đời đời của người công bình trong tương lai?

Trong Ma-thi-ơ 25:34, Thiên đàng được Chúa Giê-xu nói đến, là nơi ở vĩnh viễn dành cho người công bình và cũng là nơi Ngài phán hứa với các môn đồ (Giăng 14:3).

Thiên đàng là gì? Thiên đàng phải là Ba-ra-đi không? Trong Kinh Thánh Tân Ước chữ “Ba-ra-đi” được dùng ba lần (Lu 23:43; 2Côr 12:4; Khải 2:7). Chữ nầy theo nguyên văn Hy-lạp là Paradeisos, nghĩa đen là công viên, trong tiếng Hy-bá-lai là Părdès, có nghĩa là khu rừng. Theo nghĩa bóng Ba-ra-đi gọi là Lạc viên ám chỉ về cảnh vườn Ê-đen, nơi của sự sống đời đời, nơi có sự hiện diện của Chúa. Trước khi Chúa Giê-xu về trời, Ba-ra-đi được đặt ở phía trên của âm phủ là nơi ở trung gian của người công bình sau khi qua đời. Nhưng khi Chúa thăng thiên, Ba-ra-đi được cất lên trời cùng với các thánh của thời Cựu Ước (Êph 4:8), là nơi những người tin Chúa được tiếp về sau khi qua đời để chờ đợi sự giải cứu của thân thể.

Khi Chúa Giê-xu tái lâm, người chết trong Chúa được sống lại và đồng trị với Ngài trong Nước ngàn năm bình an. Sau thời đại Thiên hi niên, người công bình sẽ được vào nơi ở vĩnh sanh, từ chốn Ba-ra-đi lên Thiên đàng.

Chữ Thiên đàng được dùng cho ba nghĩa. Thiên đàng chỉ về bầu trời được bao bọc bởi bầu khí quyển, nơi có sinh vật sống động. Người Do Thái thường gọi đó là từng trời thứ nhất. Nghĩa thứ hai, Thiên đàng chỉ về các tinh tú trong khoảng không gian ngoài tầng khí quyển mà người Do Thái gọi đó là từng trời thứ hai. Và chữ “từng trời thứ ba” được Phao-lô dùng trong 2Côr 12:2, để phân biệt với hai từng trời trong vũ trụ hữu hình. Để chỉ về nơi vô hình vượt quá sự hiểu biết của con người, nơi ngự trị của Ba Ngôi Đức Chúa Trời, nơi huyền nhiệm vô cùng, nơi hiện hữu của thế giới thiện mỹ thần linh.

Thiên đàng cũng được Chúa Giê-xu gọi là “Nhà Cha Ta” (Giăng 14:2), là nơi Chúa sắm sẵn cho người công bình cư trú đời đời (Giăng 14:3; Mat 25:34): “Hãy đến mà nhận lấy nước Thiên đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất”. Thiên đàng, nơi sắm sẵn cho người công bình còn được gọi là Thiên thành, hay thành Giê-ru-sa-lem mới trên trời, hay thành thánh, thành của Đức Chúa Trời. Theo sự bày tỏ của Kinh Thánh, sau thời đại Thiên hi niên, là kỳ cuối cùng của muôn vật, trời đất sẽ bị thiêu đốt trong lửa và trời mới đất mới sẽ được tái tạo. Khi ấy, Giê-ru-sa-lem mới sẽ từ trời ngự xuống, là quê hương đời đời cho người công bình trong nước vĩnh viễn của Đức Chúa Trời (2Phi 3:13; Khải 21:1-8).

C. PHƯỚC HẠNH TRONG NƠI VĨNH SANH.

Trong nơi vĩnh sanh, đời sống của người công bình là đời sống của phước hạnh. Như được mô tả trong những điểm sau đây:

1. Phước hạnh của đời sống được ở trong Nhà Cha là nơi vinh hiển, rực rỡ vô cùng (Khải 21:1-3,25).

2. Phước hạnh của đời sống được ở với Chúa: Được thấy mặt Chúa, và giao thông với Ngài (Mat 5:8; 1Côr 13:12).

3. Phước hạnh của đời sống được yên nghỉ: Vì đã được giải cứu khỏi sự rủa sả của tội lỗi, không còn có sự lao khổ “làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn” (Sáng 3:18-19).

4. Phước hạnh của đời sống vui vẻ và sung mãn: Không còn có giọt lệ, không còn có sự khao khát vì Chúa là nguồn Nước sống làm thỏa mãn mọi ước vọng của tâm hồn (Khải 21:4-6).

5. Phước hạnh của đời sống thánh khiết: Trong cảnh trời mới đất mới hoàn toàn vắng bóng người ác vì là nơi ở của người công bình, nơi ở của niềm vui trong sự thiện lành trong sạch (Khải 21:27).

6. Phước hạnh của đời sống vinh hiển: Được vinh hiển trong nơi ở, trong sự hiện diện vinh hiển của Chúa, trong thân thể biến hóa, trong mão miện sáng chói Ngài ban thưởng (Khải 2:10; Côl 3:4; 2Côr 4:17).

7. Phước hạnh của đời sống được thông biết Chúa đầy trọn, là sự hiểu biết quí hơn hết (Phil 3:8; 2Phi 3:18; 1Côr 13:12).

8. Phước hạnh của đời sống phục vụ và tôn thờ Chúa. Đây là đặc ân của người được cứu chuộc (Khải 22:3; 7:9-11).

9. Phước hạnh của đời sống được thừa hưởng cơ nghiệp vinh hiển của Chúa. Được đồng thừa hưởng mọi sự giàu có vô hạn trong Đấng Christ (Rô 8:17; Khải 21:7).

10. Phước hạnh được sống trong cõi đời đời: Có người nghĩ, người công bình cứ mãi mãi ca ngợi Chúa thì chắc chán lắm? Đó chỉ là sự suy nghĩ theo lý trí con người trong thế giới hữu hạn. Trong cõi vũ trụ vật chất mà Đức Chúa Trời đã dựng nên, con người vẫn mãi hứng thú khám phá những điều kỳ diệu, huống chi trong cõi vô hình, vô hạn, Đức Chúa Trời không sắm sẵn những điều vô cùng huyền diệu cho chúng ta khám phá sao? Người trong cõi vĩnh sanh với thân thể biến hóa, không còn bị chi phối bởi công lệ thiên nhiên, có thể chu du trong cõi vô tận, và sẽ không bao giờ khám phá hết những điều kỳ diệu của Đức Chúa Trời! Sẽ không bao giờ dứt tiếng ca ngợi ân điển Ngài, sẽ không bao giờ hết công việc của người được thừa hưởng cơ nghiệp giàu có không thể dò lường trong Đấng Christ!

Tóm lược.

1. Sự sống đời đời là phước hạnh Chúa ban cho người công bình trong cõi vĩnh sanh.

2. Thiên đàng, hay thành Giê-ru-sa-lem mới trên trời là nơi ở vĩnh viễn của người công bình trong tương lai.

3. Trong cõi vĩnh sanh, người công bình sẽ nhận được phước là sự sống đời đời, được giao thông với Chúa mặt đối mặt, được nhận biết đầy trọn, được vui vẻ và thỏa mãn, được thoát khỏi quyền lực của tội lỗi, được hưởng cơ nghiệp trong Đấng Christ, được hầu việc và thờ phượng Chúa.

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Trong sự phán xét của Chúa, người công bình nhận được phước hạnh gì? (Rô-ma 2:7; 6:23; Ma-thi-ơ 25:46).

  1. a. Ý nghĩa của chữ đời đời.

b. Giăng 3:16: Phản nghĩa với sự sống đời đời nghĩa là gì?

c. Giăng 10:28; 14:6: Sự sống đời đời đến từ đâu?

d. Giăng 3:36; 3:3: Thế nào để được sự sống đời đời? Theo điều kiện nầy, sự sống đời đời bắt đầu trong người tin khi nào?

e. Mác 16:16; Công Vụ 4:12: Sự sống đời đời còn được hiểu trong chữ nào khác?

g. Giăng 17:3: Sự sống đời đời có nghĩa gì?

h. Tít 1:2; 3:7: Sự mong đợi của người tin là gì? Tại sao?

3. Xin tóm lược những điểm quan trọng về sự sống đời đời.

  1. a. Giăng 14:2-3: Chúa Giê-xu hứa gì với môn đồ?

b. Nơi Chúa sắm sẵn được Kinh Thánh nói đến trong những khía cạnh nào? (Ma-thi-ơ 25:34,44, Hê-bơ-rơ 3:13, 2Phi-e-rơ 3:13, Khải Huyền 21:2-3, 22-27).

5. Những ghi nhận trên, xin tóm lược và cắt nghĩa đầy đủ đâu là quê hương vĩnh viễn của người công bình và nơi ấy như thế nào?

6. Xin kể ra những phước hạnh của người công bình trong nơi ở đời đời (Ma-thi-ơ 25:44; 3:11,12; 21:4,7,26-27; 22:3-4; Rô-ma 8:17).

7. Với những điều trên xin tìm hiểu tại sao đó gọi là phước hạnh?

8. Xin ghi nhận những lẽ thật quan trọng của Kinh Thánh về nơi ở vĩnh viễn của người công bình.

9. Bạn đã chuẩn bị như thế nào để xứng đáng với địa vị vĩnh viễn Chúa ban cho? Điều gì bày tỏ bạn có lòng tin và biết ơn Chúa về sự sắm sẵn của Ngài cho người thuộc về Ngài?