Chuyên mục: NHI ĐỒNG

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

in NHI ĐỒNG on 20 Tháng Năm, 2024

BÀI 4. CHÚA JÊSUS CẦU THAY

I. KINH THÁNH: Giăng 17: 6-26.

II. CÂU GỐC: “Vậy, hãy xưng tội cùng nhau và cầu nguyện cho nhau để anh em được lành bệnh.” (Gia-cơ 5:16a).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Chúa Jêsus yêu thương bạn bè và cầu nguyện cho họ.

– Cảm nhận: Cầu nguyện cho bạn bè là yêu thương họ.

– Hành động: Trong tuần nầy em đặc biệt cầu nguyện cho các bạn của mình.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦUGIỜ.

*Cầu thay.

  1. Mục đích: Giúp các em cầu thay cho bạn mình.
  2. Vật liệu: Một tờ giấy cứng lớn, mỗi em một tấm giấy tròn, một tấm giấy hình chữ nhật, keo dán, viết chì màu.

    3. Cách thực hiện: Cho các em vẽ khuôn mặt của người bạn mà mình sẽ cầu thay lên tấm bìa hình tròn, và trên tấm bìa hình chữ nhật ghi dòng chữ: “…(tên của em) cầu thay cho… (tên của bạn em) vì…(vấn đề cầu thay)”, rồi dán lên tấm bìa lớn.

   Khi các em làm xong, treo tấm bìa lớn mang tên: “Em cầu nguyện cho bạn” lên, rồi giải thích ý nghĩa của việc cầu nguyện cho nhau. Các em cảm ơn Đức Chúa Trời cho các em có bạn bè và xin Chúa cho bạn mình vâng lời ba mẹ, thầy cô, và thường xuyên tham dự lớp Trường Chúa Nhật.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị cụ: Bốn hình người: Anh-rê, Giăng, Phi-e-rơ và Gia-cơ (xem phụ lục), máy và băng cassette.

  1. Vào đề.

   Các em có bạn bè không? Thế nào mới là bạn tốt? Ai là bạn thân nhất của em? Em có thể cho biết tên và sở thích của bạn em không? (Cho các em lần lượt trả lời).

  1. Bài học.

   Chúa Jêsus cũng có một số bạn bè đặc biệt. Họ chính là những môn đồ ngày đêm ở cùng Ngài.

  Một đêm nọ, Chúa Jêsus và các môn đồ đang ở tại thành phố Giê-ru-sa-lem. Sau khi dạy dỗ các môn đồ, Chúa Jêsus đã bày tỏ tình yêu thương của Ngài đối với họ khi ngước mắt lên nhìn bầu trời đầy sao rồi cầu nguyện cho bạn bè của Ngài.

   Bây giờ các em sẽ được bốn môn đồ kể về việc Chúa Jêsus cầu thay cho họ. (Nếu không có hình, có thể mời bốn em đóng vai bốn môn đồ: “Anh-rê, Giăng, Phi-e-rơ, Gia-cơ”).

   Giới thiệu với các em, đây là ông Anh-rê (Anh-rê chào các em). Anh-rê là môn đồ đầu tiên làm chứng về Chúa Jêsus. Ông

làm chứng cho ai? Cho anh của mình là Phi-e-rơ. Anh-rê cũng là người dẫn bé trai có năm cái bánh và hai con cá đến gặp Chúa Jêsus để đãi cho năm ngàn người ăn no.

Anh-rê (mở băng cassette hoặc nói): “Tôi rất vui mừng được có mặt nơi đây để kể cho các em nghe việc Chúa Jêsus cầu nguyện cho chúng tôi tối hôm đó. Tôi thích nhất là đoạn Chúa Jêsus cầu nguyện cho chúng tôi được vui mừng. Ngài muốn mỗi chúng ta đều hưởng được sự vui mừng, nếu mỗi em đều cầu nguyện cho bạn mình được vui mừng thì thế giới nầy sẽ tốt đẹp biết bao!”

   (Chia nhóm cho các em, cứ hai em một nhóm để chia sẻ niềm vui cho nhau (khoảng vài phút) rồi giáo viên tổng kết và đưa ra kết luận).

   Cô rất vui vì Chúa Jêsus đã cầu thay cho chúng ta được vui mừng. Hôm nay, cô cũng cầu thay cho các em có một ngày vui vẻ (giáo viên cầu nguyện ngắn gọn).

   Bây giờ các em sẽ gặp một môn đồ khác, tên là Giăng. Ông Giăng làm nghề đánh cá, sống cùng với cha và em là Gia-cơ bên bờ hồ Ga-li-lê. Kinh Thánh cho biết ông Giăng là người đầu tiên nghe Chúa Jêsus giảng. Sau đó, được sự kêu gọi củaChúa, ông bỏ nghề đánh cá và đi theo Ngài.

   Giăng: “Tôi không bao giờ quên cái đêm Chúa Jêsus cầu nguyện cho chúng tôi. Tôi cảm động vô cùng vì Ngài cảm tạ Đức Chúa Trời về những việc chúng tôi đã làm. Thật là kỳ diệu! Khi tôi nghe lời cầu nguyện của Ngài, tôi biết Chúa yêu chúng tôi vô cùng. Tôi cũng yêu thương Chúa Jêsus vì Ngài không chỉ quở trách những việc làm sai trái mà còn quan tâm đến những việc tốt mà tôi đã làm”.

   Các em thân mến, Chúa Jêsus cảm tạ Đức Chúa Trời vì cớ các môn đồ. Cô cũng cảm tạ Đức Chúa Trời vì cớ các em. Hãy nghĩ xem hôm nay chúng ta cảm tạ Ngài về điều gì? Có thể không cần nói ra, chỉ cần thầm nguyện với lòng biết ơn là đủ rồi. (Giáo viên tạ ơn Đức Chúa Trời về mỗi em, rồi mời một em cầu nguyện cảm tạ Đức Chúa Trời).

   Bây giờ, cô giới thiệu với các em một môn đồ khác của Chúa Jêsus.

   Ông tên là Phi-e-rơ, cùng với em là Anh-rê làm nghề đánh cá. Trước khi gặp Chúa Jêsus, ông có tên là Si-môn, Nhưng Chúa Jêsus bảo ông: “Từ nay trở đi, tên con sẽ là Phi-e-rơ”.

   Phi-e-rơ: “Các em biết Chúa Jêsus cầu nguyện cho chúng tôi điều gì không? Để tôi kể cho các em nghe. Tôi thường gặp phiền phức vì tính tôi nóng nảy và hay gây gổ. Tôi rất vui vì Chúa Jêsus cầu xin Đức Chúa Trời giúp tôi cẩn thận trong từng suy nghĩ lẫn lời nói của mình. Tôi cảm ơn Chúa vì Ngài yêu thương tôi, cầu nguyện cho tôi được thay đổi tính tình”.

   Các em có nóng nảy như ông Phi-e-rơ không? Có thường vội vàng nói và làm khi chưa kịp suy nghĩ không? Các em làm sao yêu thương người khác? Xin Đức Chúa Trời giúp các em học cách yêu thương nhau. (Mời các em nêu ví dụ cụ thể rồi mời một em cầu nguyện xin Đức Chúa Trời giúp các em).

   Gia-cơ là một môn đồ của Chúa Jêsus. Hôm nay ông cũng sẽ trò chuyện với các em.

   Gia-cơ là anh trai của Giăng, đã từng là một người đánh cá, khi Chúa Jêsus kêu gọi, ông liền bỏ thuyền và lưới mà theo Ngài. Một hôm, hai anh em ông xin Chúa Jêsus cho họ địa vị cao trọng hơn các môn đồ khác nơi thiên đàng, Chúa Jêsus đáp: “Nếu muốn có địa vị quan trọng, các con phải phục vụ người khác”. Vài tháng sau khi Chúa Jêsus chịu chết và sống lại, vua Hê-rốt rất tức giận vì các môn đồ Chúa Jêsus đi khắp nơi rao truyền Tin Lành nên ra lệnh chém đầu Gia-cơ.

   Gia-cơ: “Vừa rồi em tôi là Giăng, cùng với hai bạn tôi là Phi-e-rơ và Anh-rê đã kể cho các em nghe việc Chúa Jêsus cầu thay cho chúng tôi. Các em biết không, Chúa Jêsus cũng cầu thay cho bất cứ ai tin Ngài. Chúa cầu nguyện: “Không những con cầu thay cho những người nầy, mà còn cầu thay cho tất cả những ai nghe họ mà tin đến con nữa”.

   Chúa Jêsus yêu thương các em cũng như Ngài yêu thương Gia-cơ và những môn đồ khác. Chúa Jêsus đã cầu xin Đức Chúa Trời giúp các môn đồ yêu thương nhau, Ngài cũng mong muốn các em biết yêu thương lẫn nhau. Hiện nay, ở trên trời Ngài vẫn cầu thay cho các em vì Ngài yêu thương các em.

  1. Ứng dụng.

   Hướng dẫn các em mở sách học viên, cùng đọc chung bài học và dùng câu hỏi trong phần: “Cùng suy nghĩ” để giúp các em ôn bài.

  Cho các em xem mục: “Họ cần sự cầu nguyện của em” và thảo luận xem họ cần cầu thay về vấn đề gì? (Ví dụ: Công việc của mục sư, sức khỏe của ba mẹ, những người thân chưa tin Chúa…).

   Sau đó, cho các em chọn đối tượng để cầu thay rồi giáo viên cầu nguyện kết thúc.

  Khuyến khích các em đem bài tập về nhà cho ba mẹ xem và thực hiện trong giờ cầu nguyện lễ bái, hãy nhớ những người nêu trên mà cầu nguyện. Cảm tạ Chúa vì họ, và xin Chúa giúp những gì họ cần. Mỗi người trong gia đình đều lần lượt cầu nguyện cho họ.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

in NHI ĐỒNG on 20 Tháng Năm, 2024

BÀI 4. XÂY DỰNG ĐỀN TẠM

I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 35:4-35; 36:1-7; 39:27-43; 40:17-38.

II.CÂU GỐC: “Con sẽ hát bài ca chúc tụng danh Đức Chúa Trời, lấy sự cảm tạ mà tôn cao Ngài” (Thi thiên 69:30).

III. BÀI TẬP.

A. CÙNG SUY NGHĨ.

Em xem hình và trả lời các câu hỏi.

1. Dân chúng cảm thấy thế nào khi dâng các lễ vật để dựng đền tạm?

………………………………………………………………………………….

  1. Theo em, việc gì sẽ xảy ra nếu họ không muốn dâng các lễ vật?

…………………………………………………………………………………………………….

  1. Môi-se có bắt buộc dân chúng phải dâng lễ vật không?………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..
  2. Tại sao dân chúng dâng nhiều lễ vật quí báu như vậy?

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..

B. NGƯỜI TỐT VIỆC TỐT.

Em xem hình dưới đây và cho biết các bạn trong hình đã làm để tỏ lòng yêu mến Chúa?

Còn em, em có thể làm gì để tỏ lòng yêu mến Chúa? Hãy viết vào đường kẻ dưới đây.

……………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………..

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

in NHI ĐỒNG on 20 Tháng Năm, 2024

BÀI 4. XÂY DỰNG ĐỀN TẠM

I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 35:4-35; 36:1-7; 39:27-43; 40:17-38.

II. CÂU GỐC: “Con sẽ hát bài ca chúc tụng danh Đức Chúa Trời, lấy sự cảm tạ mà tôn cao Ngài” (Thi thiên 69:30).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em                                                                   

– Biết: Môi-se và dân sự xây dựng đền tạm đẹp đẽ để thờ phượng Đức Chúa Trời.

– Cảm nhận: Được thờ phượng Chúa với các tín hữu khác trong đền thờ là điều vui mừng.

– Hành động: Cùng hợp sức làm công việc Chúa và thờ phượng Ngài.

IV. PHẦN SUY GẪM CỦA GIÁO VIÊN.

Một trong những nhiệm vụ mà Đức Chúa Trời giao cho Môi-se là dựng Đền Tạm. Trải qua suốt Sáng Thế Ký, Chúa đồng đi cùng với dân Ngài (Hê-nóc, Nô-ê, Áp-ra-ham, các tộc trưởng…), nhưng giờ đây Ngài ở cùng họ. Việc Chúa ngự trong trại quân là một vinh dự đối với dân Y-sơ-ra-ên (Rô-ma 9:4-5). Nhưng hưởng được vinh dự thì cũng phải có trách nhiệm – họ phải dựng Đền Tạm để thờ phượng Chúa. Đức Chúa Trời cho Môi-se biết rằng ông phải làm mọi thứ theo như kiểu mẫu đã được Ngài hướng dẫn. Đức Chúa Trời cũng đã chuẩn bị vật liệu cho việc xây dựng Đền Tạm từ khi dân Y-sơ-ra-ên còn ở xứ Ai-cập. Lúc nầy, dân Y-sơ-ra-ên đang ở trong sa mạc và họ chỉ có thể dâng lên cho Ngài những gì Ngài ban cho họ từ trước. Đức Chúa Trời cũng trang bị cho những người làm việc có các kỹ năng và sự khôn ngoan cần có. Dân Y-sơ-ra-ên vui lòng góp công, góp của xây dựng Đền Tạm đẹp đẽ để thờ phượng Đức Chúa Trời.

Dù là việc xây dựng Đền Tạm trong thời Cựu Ước, xây dựng Hội Thánh trong thời Tân Ước, hay việc gây dựng đời sống chức vụ của chúng ta ngày nay, Đức Chúa Trời đều trang bị cho chúng ta và giúp chúng ta có thể làm trọn mọi việc Đức Chúa Trời giao phó. Được thờ phượng Chúa với các tín hữu khác trong Hội Thánh là một ơn phước Chúa cho. Bạn có thấy rằng được thờ phượng Chúa, được phục vụ Ngài là phước hạnh trong cuộc đời nầy không? Vậy hãy hết lòng thờ phượng và phục vụ Ngài bạn nhé.

V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Trò chơi “Hỏi đáp”.

  1. Mục đích: Giúp các em nhớ lại những điều đã học.
  2. Vật liệu: Nhiều tờ giấy (7x12cm), viết lông.
  3. Thực hiện: Giáo viên ghi ra một số câu hỏi căn cứ theo những câu chuyện Kinh Thánh đã kể trong những bài trước lên các mảnh giấy nhỏ để các em trả lời. (Ví dụ: Em ghi ra một trong Mười Điều Răn). Phát cho mỗi em một mảnh giấy có ghi 1 câu hỏi. Nếu các em trả lời sai, giáo viên cần đính chính lại. Giúp các em nhớ đúng bài học Kinh Thánh.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

 (Chuẩn bị thị cụ: Hình Đền Tạm trong phần phụ lục).

  1. Vào đề.

Em có thường đến nhà thờ để thờ phượng Chúa không? Trong giờ thờ phượng, chúng ta có những cách thức gì để bày tỏ lòng yêu mến tôn kính của chúng ta đối với Đức Chúa Trời? (Hát Thánh ca, cầu nguyện, đọc Kinh Thánh, nghe giảng Lời Chúa, dâng hiến v.v…) Phương thức nào em thích dùng để thờ phượng Đức Chúa Trời? (Cho các em trả lời).

Ngày xưa Đức Chúa Trời phán truyền cho Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên dựng lên một nơi đặc biệt để có thể thờ phượng Ngài khi đang đi trong đồng vắng. Để biết rõ hơn, mời các em theo dõi bài học nầy nhé.    

  1. Bài học.

Sau khi Môi-se truyền Mười Điều Răn cho dân sự, ông nhắc họ phải luôn luôn học tập, sống xứng đáng là tuyển dân của Chúa. Họ cần phải dựng đền tạm để có nơi nhóm lại thờ phượng Đức Chúa Trời, mặc dù họ đang trên đường tiến đến đất hứa, và thường phải ở trong những căn lều tạm bợ.

Một ngày nọ, Môi-se triệu tập dân chúng lại và thông báo: “Đức Chúa Trời mong muốn mỗi chúng ta dâng hiến lễ vật để thực hiện một việc quan trọng”. Dân chúng ngạc nhiên, lắng nghe xem việc gì? Môi-se nói tiếp: “Chúng ta sẽ dựng một lều trại thật đẹp để thờ phượng Đức Chúa Trời, gọi đó là đền tạm. Muốn vậy, cần có vàng, bạc, vải, các loại hương liệu, gỗ, châu ngọc và những thứ khác. Nếu ai có lòng thành, hãy dâng những gì mình có”. Môi-se nói thêm: “Ngoài ra, còn cần sự giúp đỡ của những người biết may để may các tấm vải làm đền tạm, những người biết nghề thợ mộc, thêu, dệt vải và làm đồ vàng, đồ bạc”.

Mọi người đều trở về lều của mình xem lại hành trang có vật gì quí để dâng hiến. Chẳng bao lâu sau, họ đã lũ lượt đem đến cho Môi-se nào là vàng, đồ trang sức và các thứ quí giá khác (giáo viên để các vật như vàng, bạc, áo… lên bàn), nhiều đến nỗi Môi-se phải tuyên bố: “Đừng mang lễ vật đến nữa, chúng ta có đủ rồi”.

Đức Chúa Trời chỉ dạy Môi-se cách thức dựng đền tạm, bao gồm cả kích thước, vật liệu, thậm chí màu sắc nữa. Môi-se hướng dẫn dân Y-sơ-ra-ên làm theo ý Chúa. Họ bắt tay vào công việc một cách phấn khởi.

(Cho các em xem hình Đền Tạm trong khi kể chuyện.) Những người giỏi về nghề mộc thì lo xẻ gỗ. Những người thợ bạc thì dùng những đồ trang sức làm nên những vật dụng cần thiết như thau hoặc chân đèn bằng vàng, bạc. Các phụ nữ khéo tay thì dệt các loại chỉ màu xanh, tím, đỏ, tạo ra những tấm vải để dựng hội mạc.

Dân chúng chỉ dẫn nhau để có nhiều người góp sức dựng Đền tạm. Môi-se hướng dẫn công việc để đền tạm hoàn tất theo ý của Đức Chúa Trời. Ai nấy đều hân hoan, họ hết lòng làm từng phần của công việc.

Khi mọi việc đã chuẩn bị xong, những người nam dựng những cây cột có bọc vàng và treo các tấm vải đẹp đẽ lên trên, rồi phủ bên ngoài một lớp da thú để tránh ánh nắng của mặt trời và khỏi bị mưa thấm vào trong. Tất cả đồ dùng đều để đúng nơi thích hợp. Chung quanh Đền Tạm là một hành lang vây quanh. Bàn dâng của lễ đặt ở giữa, mọi thứ đều chuẩn bị tươm tất. Đền tạm đã được hoàn tất. Nơi thờ phượng Đức Chúa Trời thật đẹp đẽ biết bao!

Bỗng một đám mây sà xuống bao phủ đền tạm. Mọi người biết Đức Chúa Trời đẹp ý với công việc của họ. Đây sẽ là nơi họ trò chuyện với Đức Chúa Trời.

Dân chúng thường xuyên đem lễ vật đến dâng để ca ngợi và cảm tạ Đức Chúa Trời trong suốt mười hai ngày. Họ phấn khởi vì được trở thành dân của Đức Chúa Trời. Họ vui mừng vì có nơi để thờ phượng Ngài.

  1. Ứng dụng.

Cho các em mở tập học viên, dùng các câu hỏi trong phần A, giúp các em ôn lại bài học. Nói với các em: Sau khi Môi-se và dân sự dựng xong Đền Tạm, họ đem lễ vật dâng cho Đức Chúa Trời và ca hát để tỏ lòng vui mừng và kính yêu Ngài. Họ cùng nhau làm việc, cùng nhau thờ phượng Đức Chúa Trời.

Cho các em xem hình trong phần B và hỏi: Các bạn trong hình bày tỏ tình yêu thương đối với Đức Chúa Trời như thế nào? (Học tập, làm bài tập, học câu gốc…) Còn các em, các em làm gì trong Hội Thánh để tỏ lòng yêu thương Đức Chúa Trời?

Mời một em đọc lớn tiếng câu gốc, sau đó hỏi: Khi các em dùng tiếng hát để ca ngợi Đức Chúa Trời thì Ngài có vui không? Em ca ngợi Chúa bằng cách nào khác nữa? (Kể cho bạn bè và người thân những việc Đức Chúa Trời đã làm, cầu nguyện, học câu gốc…) Sau khi các em viết xong cách thờ phượng và ca ngợi Chúa, thì mời các em đọc câu gốc. Hướng dẫn cầu nguyện kết thúc.

VI. PHỤ LỤC.

* Đền Tạm.

  1. Vật liệu: Một tấm bìa lớn, viết lông.
  2. Cách làm: Giáo viên vẽ hình dưới đây vào tấm bìa rồi tô màu thật đẹp để làm thị cụ dạy học.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 16 Tháng Năm, 2024

BÀI 3. DỐI GẠT NHAU

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 29:1-13; 30:25-34; 31:1-7, 17-29, 36-55.

II. CÂU GỐC: “Hãy bỏ sự bạo hành và áp bức, hãy làm điều công minh, chính trực. Hãy ngừng cướp bóc tài sản của dân Ta, Chúa Giê-hô-va phán vậy.” (Ê-xê-chi-ên 45:9).

III. BÀI TẬP.

  1. CÙNG SUY NGHĨ.

Em xem hình và trả lời các câu hỏi sau.

  1. La-ban lừa gạt Gia-cốp như thế nào?

……………………………………………………………………………………..

  1. Gia-cốp lừa La-ban ra sao?

……………………………………………………………………………………..

  1. Họ lừa gạt nhau như vậy nên cảm thấy điều gì?

…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

  1. Trong hình cho thấy việc gì xảy ra?

…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

  1. Theo em, tình cảm của họ sẽ thế nào?

      ……………………………………………………………………………

 

  1. NẾU LÀ EM, EM SẼ LÀM SAO?

Em đoán thử xem hai bạn này đang chơi trò chơi gì? Theo em, bạn gái ở trong hình nhìn thấy Minh đang làm gì không? Nếu em là bạn gái đó thì em sẽ làm gì?

Nếu Minh tiếp tục lừa gạt bạn?

…………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

 

Nếu Minh không gạt bạn nữa?

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 16 Tháng Năm, 2024

BÀI 3. DỐI GẠT NHAU

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 29:1-13; 30:25-34; 31:1-7, 17-29, 36-55.

II. CÂU GỐC: “Hãy bỏ sự bạo hành và áp bức, hãy làm điều công minh, chính trực. Hãy ngừng cướp bóc tài sản của dân Ta, Chúa Giê-hô-va phán vậy.” (Ê-xê-chi-ên 45:9).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp  các em

– Biết: Gia-cốp và La-ban lừa dối nhau gây ra bất hòa.

– Cảm nhận: Dối gạt nhau luôn đem đến những điều xấu.    

– Hành động: Quyết tâm sống chân thật, không dối gạt nhau.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Liên tưởng.

  1. Mục đích: Giúp các em học tập và nhận biết những từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa nhau.
  2. Vật liệu: 16 tờ giấy cứng (8x12cm), 8 cây viết màu khác nhau.
  3.    Thực hiện:

Giáo viên viết sẵn các từ vào giấy bìa. Mỗi tấm bìa một từ. Mỗi cặp từ trái nghĩa hoặc đồng nghĩa dùng chung một màu viết: Thành thật / nói dối; công bình / thiên vị; giúp đỡ / hãm hại; cậu / cháu; đúng / sai; thích / ghét; lòng tham / rộng rãi; chiên con / người chăn.

Giáo viên đặt tám từ để ngửa và tám từ lật úp, xếp thành hai hàng trên bàn. Sau đó giải nghĩa tám từ để ngửa cho học sinh, đồng thời giải thích thế nào là từ trái nghĩa (như lạnh khác nóng) và từ có nghĩa liên quan (như bà / cháu).

Cho các em lần lượt lật từng tấm bìa úp, giải nghĩa và xếp với từ để ngửa cho thích hợp.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH,

  1. Vào đề.

Minh hứa cho em gái là Châu mượn chiếc xe đạp nếu Châu cho chó con ăn dùm. Khi Châu làm vừa xong, Cường đến rủ Minh lấy xe đạp đi chơi, Minh nhớ lại lời hứa với Châu. Nếu Minh đi với Cường, thì chuyện gì sẽ xảy ra? Nếu Minh đưa xe đạp cho Châu thì sẽ thế nào? Minh nên làm gì? Tại sao?

Kinh Thánh có nói đến hai người phải quyết định thực hiện lời hứa. Bây giờ các em cùng lắng nghe quyết định của họ nha!

  1. Bài học.

            Sau một chặng đường dài, Gia-cốp đến nhà La-ban. Cậu cháu rất vui mừng khi gặp nhau. La-ban bảo Gia-cốp ở lại giúp ông, vì ông có rất nhiều chiên và dê mà Gia-cốp lại chăm sóc chiên rất giỏi. Trong thời gian Gia-cốp sống tại nhà La-ban, Gia-cốp làm việc rất siêng năng. Nhờ Gia-cốp chăm sóc nên đàn chiên của La-ban ngày càng béo tốt và đông hơn. La-ban mừng lắm. Vì tham muốn có thêm nhiều chiên nên La-ban tìm cách dối gạt Gia-cốp. Ông hứa trả công cho Gia-cốp, nhưng cuối cùng không giữ lời hứa. Gia-cốp vẫn cần cù làm việc cho La-ban và đã lấy hai người con gái của ông là Lê-a và Ra-chên làm vợ.

            Nhiều năm trôi qua, Gia-cốp đã có một gia đình lớn với nhiều con cái. Ông quyết định lìa khỏi nhà cậu để trở về nhà mình. Khi Gia-cốp nói với La-ban điều đó, La-ban tỏ vẻ buồn. Ông nói với Gia-cốp: “Cháu hãy ở lại. Nếu cháu muốn gì cứ nói, cậu sẽ giúp cho”. Gia-cốp nói: “Cháu muốn có tất cả chiên và dê có đốm; những con không có đốm thuộc về cậu”.

La-ban đồng ý ngay, vì ông biết đàn chiên của ông rất ít con có đốm. Gia-cốp tiếp tục miệt mài chăm sóc đàn chiên. Mấy năm sau, bầy chiên ngày càng nhiều con có đốm, tức là những con thuộc về Gia-cốp, còn chiên không đốm thuộc về La-ban thì ngày càng ít đi.

Các con trai của La-ban bắt đầu phàn nàn, vì Gia-cốp ngày càng giàu có. Gia-cốp không còn thân thiện trong mắt La-ban nữa, vì La-ban và các con ông đều cho rằng Gia-cốp  dối gạt họ.

            Một hôm, Gia-cốp quyết định dắt vợ con và bầy súc vật trốn khỏi nhà La-ban.

            Khi nghe tin Gia-cốp đã trốn đi, La-ban lập tức kéo các đầy tớ đuổi theo Gia-cốp, suốt bảy ngày mới bắt kịp. La-ban  giận dữ hỏi: “Vì sao cháu ra đi mà không cho cậu biết trước?” Gia-cốp nói: “Vì cháu sợ cậu không cho cháu dắt vợ con và gia súc cùng đi”. La-ban càng giận và nói: “Cậu đã làm gì mà cháu nghĩ như vậy?” Gia-cốp nhìn La-ban rồi chậm rãi nói: “Cháu hết lòng làm việc cho cậu trong hai mươi năm nay, nhưng đã mười lần cậu không giữ đúng lời hứa với cháu. Cậu dối gạt cháu làm sao cháu tin cậu được nữa?”

La-ban nhận biết Gia-cốp nói đúng. Vì ông dối gạt nhiều lần nên Gia-cốp không tin ông nữa. Gia-cốp cũng biết mình không nên bỏ trốn như vậy vì người ta có thể hiểu lầm ông đã làm điều xấu. Cuối cùng La-ban và Gia-cốp cùng cầu nguyện, hứa với Đức Chúa Trời là sẽ không bao giờ lừa gạt, làm hại nhau. Sau đó, họ ngồi lại cùng ăn tối với nhau. Hôm sau, họ từ giã nhau, Gia-cốp tiếp tục dắt vợ con trở về quê hương.

  1. Ứng dụng.

Hướng dẫn các em mở sách học viên. Dùng các câu hỏi trong phần “Cùng suy nghĩ” giúp các em ôn bài.

            Sau đó giáo viên hỏi: Các bạn nhỏ trong hình đang làm gì? Em biết trò chơi trốn tìm chưa? Thảo luận trong lúc chơi đùa mà dối gạt nhau thì xảy ra chuyện gì? Hướng dẫn các em so sánh hậu quả của việc dối gạt và kết quả của việc làm chân thật.

            Sau đó, mời một em đọc câu gốc. Hỏi các em: Chân thật có ích lợi gì?” Khi các em trả lời xong, giáo viên kết luận: “Kinh Thánh dạy chúng ta làm việc tốt và ích lợi”. Cuối cùng hướng dẫn các em cầu nguyện xin Chúa giúp các em làm việc đúng và tha thứ mọi lỗi lầm.

 

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

in NHI ĐỒNG on 15 Tháng Năm, 2024

BÀI 3. HAI CÂU CHUYỆN VỀ SỰ CẦU NGUYỆN

I. KINH THÁNH: Lu-ca 18:1-14.

II. CÂU GỐC: “Hãy vui mừng mãi mãi, cầu nguyện không thôi” (1Tê-sa-lô-ni-ca 5:16).

III. BÀI HỌC.

  1. Nối các câu phù hợp với những người trong hình bằng mũi tên:

– Khoe khoang về bản thân trước người khác.

– Cảm thấy xấu hổ trước Chúa.

– Một người chỉ nói đếnlợi ích riêngmình.

– Một người chỉ cầu xin Chúa tha thứ.

* Hãy nghĩ xem Chúa thích lắng nghe lời cầu xin của ai?

  1. Nối các câu sau đây với những người trong hình bằng mũi tên:

Người này không ngừng cầu xin giúp đỡ.

Người này hoàn toàn không để ý đến bà.

Người này vẫn tiếp tục khẩn khoản cầu xin.

Cuối cùng người này đồng ý giúp đỡ bà.

IV. CÙNG SUY NGHĨ.

  1. Tại sao lúc đầu quan án từ chối lời cầu xin của người đàn bà?
  2. Chúa có giống với quan án không? Vì sao?
  3. Người Pha-ri-si đã phạmlỗi gì khi cầu nguyện?
  4. Lời cầu nguyện của người thâu thuế có điểm gì đáng cho chúng ta học tập?

BÁNH XE CẦU NGUYỆN.

*Cách chơi.

Hai em cùng chơi với nhau. Em thứ nhất chọn một ô của vòng ngoài, rồi nói rõ về những điều sẽ cầu nguyện với Chúa, còn em kia chọn một đáp án ở vòng trong, và suy nghĩ xem đáp án này dẫn đến việc gì? Hai em có thể đổi vai cho nhau.

 

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

in NHI ĐỒNG on 15 Tháng Năm, 2024

BÀI 3. HAI CÂU CHUYỆN VỀ SỰ CẦU NGUYỆN

I. KINH THÁNH: Lu-ca 18:1-14.

II. CÂU GỐC: “Hãy vui mừng mãi mãi, cầu nguyện không thôi” (1Tê-sa-lô-ni-ca 5:16).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Chúa Jêsus dạy các em biết cách cầu nguyện để được Đức Chúa Trời nhậm lời.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời luôn yêu thương và lắng nghe lời cầu nguyện của các em.

– Hành động: Em cầu nguyện cách chân thành và bền đỗ.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

*Bàn tay cầu nguyện.

  1. Mục đích: Giúp các em hiểu rằng tư thế khi cầu nguyện biểu hiện sự kính trọng Chúa.
  2. Vật liệu: Mỗi em một tờ giấy để vẽ và một hộp bút chì màu.
  3. Cách thực hiện: Giáo viên vẽ sẵn hình hai bàn tay chắp lại cầu nguyện.

– Giáo viên giải thích tại sao khi cầu nguyện các em phải nhắm mắt và chắp hai tay lại với nhau? Điều đó chứng tỏ em kính trọng Chúa. Sau đó, cho các em vẽ bàn tay cầu nguyện theo mẫu đã vẽ sẵn (em nào không vẽ được thì vẽ theo bàn tay đặt lên giấy), rồi tô màu.

   Sau khi các em vẽ xong, mời tất cả nhắm mắt, chắp tay và giáo viên hướng dẫn các em cầu nguyện.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

   Các em có thích nghe kể chuyện không? (Cho các em trả lời). Chúa Jêsus đã từng kể nhiều câu chuyện rất hay. Hôm nay các em sẽ được nghe hai câu chuyện về sự cầu nguyện do Chúa Jêsus kể.

  1. Bài học.

   Bây giờ các em cùng theo dõi câu chuyện thứ nhất nhé!

   Tại một thành phố kia có một quan án gian ác, không kính sợ Đức Chúa Trời. Tại đó cũng có một bà góa bị người khác lừa gạt, đến xin quan tòa xét xử, mong đòi lại được của cải. Bà thưa với quan án: “Thưa quan, tôi bị người ta lừa gạt, xin quan giúp tôi vì ngoài quan chẳng ai có thể giúp tôi đòi lại của cải cả”.

   Quan tòa không thèm nghe lời cầu xin đó vì bà không có tiền đút lót. Nhưng bà góa vẫn không nản lòng, cứ van nài mãi, vị quan vẫn không nghe, bà đành phải ra về.

   Hôm sau, bà lại đến tìm quan án tiếp tục khẩn cầu nhưng quan tòa vẫn làm ngơ. Tuy thế, bà góa cứ nài nỉ mãi cho đến khi quan tòa cảm thấy bực mình. Ông nghĩ thầm: “Bà góa nầy thật đáng ghét, nếu mình không xét xử, bà ấy cứ đến quấy rầy hoài chịu sao nổi. Thôi thì xét xử cho bà ta để khỏi phiền phức”.

   Thế là cuối cùng vị quan tòa lắng nghe nỗi khổ của bà góa và xét xử cho bà.

   Các em thấy không, lúc đầu quan tòa không muốn nghe lời kêu oan của bà góa nhưng vì bà nài xin mãi nên vị quan phải đồng ý giúp bà, huống chi Đức Chúa Trời là Đấng yêu thương các em. Ngài khác hẳn vị quan kia. Ngài luôn lắng nghe lời cầu nguyện của các em. Ngài thích các em nói chuyện với Ngài. Ngài muốn các em kiên nhẫn kể cho Ngài nghe những nhu cầu của mình. Tuy nhiên, không phải lúc nào Đức Chúa Trời cũng ban cho các em tất cả những điều các em cầu xin, nhưng sự trả lời của Ngài là điều tốt đẹp nhất cho các em. Chúa yêu thương các em vô cùng. Ngài biết rõ những điều các em cần.

   Chúa Jêsus lại kể một câu chuyện khác về sự cầu nguyện. Câu chuyện đó như sau:

   Có hai người đến đền thờ cầu nguyện, một người thuộc phái Pha-ri-si và người kia làm nghề thu thuế. Người Pha-ri-si chọn đứng ở một nơi mà mọi người đều trông thấy rồi lớn tiếng cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, con tạ ơn Ngài, vì con không phải như những người khác: tham lam, bất nghĩa, gian dâm, cũng không phải như người thu thuế nầy. Con kiêng ăn mỗi tuần hai lần, và nộp một phần mười về mọi lợi tức của con.” Người Pha-ri-si liên tục kể về những điểm tốt của mình trong khi cầu nguyện.

   Còn người thu thuế thì cầu nguyện khác hẳn. Ông đứng xa mọi người, cúi đầu, mắt đẫm lệ, thì thầm cầu nguyện với Đức

Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót con, vì con là một tội nhân!”.

   Khi hai người cầu nguyện xong, họ ra về. Các em nghĩ Đức Chúa Trời vui lòng với lời cầu nguyện của ai? Vì sao? (Cho các em trả lời). Người Pha-ri-si cầu nguyện với mục đích khoe khoang, còn người thu thuế thật lòng xin Chúa tha thứ những lỗi lầm của mình.

   Câu chuyện nầy giúp các em hiểu rằng, Chúa muốn các em cầu nguyện cách chân thành, khiêm nhường, xưng nhận những lỗi lầm của mình và cầu xin Ngài tha thứ.

   Như vậy, qua hai câu chuyện nầy Chúa Jêsus dạy các em điều gì? (Cho các em trả lời). Xin Chúa cho các em biết hạ mình trước mặt Chúa, ăn năn về những lỗi lầm mà mình đã vi phạm và bền đỗ trong sự cầu nguyện.

  1. Ứng dụng.

   Cho các em mở sách học viên, giáo viên giải thích trò chơi: “Bánh xe cầu nguyện”. Vành ngoài cho biết trong mỗi tình huống phải cầu nguyện ra sao. Vành trong cho biết câu trả lời sau khi cầu nguyện.

   Sau đó, giáo viên hướng dẫn các em chơi. Ví dụ: “Trí, em hãy chọn một hình ở vòng ngoài và nghĩ xem trong hoàn cảnh nầy bạn nhỏ trong hình sẽ cầu nguyện như thế nào? Trí nói đúng lắm! Bây giờ Mỹ Duyên chọn một đáp án ở vành trong cho Trí. Ví dụ: Đức Chúa Trời trả lời “không”, chuyện gì sẽ xảy ra?…”. Giáo viên cứ thế tiếp tục hướng dẫn các em tham gia trò chơi.

   Giáo viên giúp các em hiểu rằng dù Đức Chúa Trời trả lời như thế nào, các em cũng đều phải cảm ơn Ngài, bởi vì Ngài luôn ban cho các em điều tốt lành nhất.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

in NHI ĐỒNG on 13 Tháng Năm, 2024

BÀI 3.   DÂN Y-SƠ-RA-ÊN KHÔNG TUÂN GIỮ ĐIỀU  RĂN

 CỦA CHÚA

I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 24; 32.

II. CÂU GỐC: “Vậy, anh em phải cẩn thận thực hành mọi việc đúng như Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã truyền dạy; anh em không được xây qua bên phải hoặc bên trái.”(Phục truyền 5:32).

III. BÀI TẬP.

A. XEM PHIM VÀ TRẢ LỜI.

Em xem phim và những câu Kinh Thánh trong hình rồi chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống của mỗi câu trong khung.

B. NÊN HOẶC KHÔNG NÊN LÀM.

Đôi khi em cũng bị người ta dụ dỗ làm những việc sai trái.

Em hãy xem sự đòi hỏi của nhân vật trong những hình vẽ sau đây, rồi viết ra câu trả lời của em.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 1/2024

in NHI ĐỒNG on 13 Tháng Năm, 2024

BÀI 3. DÂN Y-SƠ-RA-ÊN KHÔNG TUÂN GIỮ ĐIỀU RĂN

 CỦA CHÚA.

I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 24; 32.

II. CÂU GỐC: “Vậy, anh em phải cẩn thận thực hành mọi việc đúng như Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã truyền dạy; anh em không được xây qua bên phải hoặc bên trái.”(Phục truyền 5:32).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Dân Y-sơ-ra-ên không vâng giữ điều răn của Đức Chúa Trời, thờ lạy hình tượng khiến Đức Chúa Trời trừng phạt họ.

– Cảm nhận: Vâng theo Lời Chúa giúp em không phạm tội với Ngài.

– Hành động: Xin Chúa giúp em luôn làm theo Lời Chúa.

IV. PHẦN SUY GẪM CỦA GIÁO VIÊN.

Dù đã nghe về luật pháp của Đức Chúa Trời, đã nhìn thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, đã hứa vâng giữ luật pháp ấy rồi, nhưng dân Y-sơ-ra-ên lại phạm một tội trọng – thờ lạy con bò vàng! Họ phạm tội sau khi đã kinh nghiệm quyền năng và sự thương xót của Đức Chúa Trời! (Được giải cứu khỏi Biển Đỏ, được chu cấp thức ăn và nước uống, được Đức Chúa Trời dẫn dắt ra khỏi Ai-cập). Dân Y-sơ-ra-ên đã từ bỏ vinh hiển của Đức Chúa Trời chân thật, hằng sống mà đi thờ một con vật! Bởi vì không vâng lời Đức Chúa Trời, làm theo ý riêng nên dân Y-sơ-ra-ên phạm tội. Nếu cứ vững lòng tin cậy, vâng lời Chúa, thì dân Y-sơ-ra-ên sẽ không lo sợ cho dù Môi-se ở trên núi lâu không xuống. Và họ cũng không yêu cầu A-rôn đúc con bò vàng! Dân Y-sơ-ra-ên đã phải gánh lấy hậu quả cho việc tội lỗi mà họ làm.

Nhưng ở đây chúng ta cũng thấy lỗi lầm của A-rôn. Là người lãnh đạo, nhưng ông lại không có lập trường! Ông đã làm theo yêu cầu của dân sự, khiến họ phạm một tội trọng với Đức Chúa Trời.

Bạn là người hướng dẫn các em về phần thuộc linh, bạn cần phải có lòng tin quyết nơi Chúa, luôn làm theo ý muốn tốt lành của Ngài để các em noi theo. Xin Chúa giúp bạn làm trọn trọng trách mà Ngài giao phó. Amen.   

V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Đi theo ai?

  1. Mục đích: Cho các em lấy thí dụ tiêu biểu để suy nghĩ tầm quan trọng của việc vâng theo chỉ thị.
  2. Thực hiện: Kể cho các em nghe một ví dụ như: Giả sử em phải tìm một địa điểm ở ngoại ô để du lịch. Vừa lúc đó em gặp A và B. A nói với em: “Đi theo tôi, tôi đã từng đến chỗ đó, chúng ta sẽ không bị lạc đường”. B nói với em: “Tốt nhất bạn hãy đi với tôi, bởi vì tôi có tấm bản đồ của khu vực nầy, chúng ta có thể dựa theo sự chỉ dẫn trên bản đồ tìm ra chỗ đó”. Như vậy, em sẽ đi theo ai? Vì sao? Nếu em đi theo A, em nghĩ có thể xảy ra chuyện gì? (Cho các em nói ra cách nghĩ của mình).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn hình trong phần phụ lục rồi tô màu cho đẹp).

  1. Vào đề.

Tuần trước các em đã biết Đức Chúa Trời phán cùng dân Y-sơ-ra-ên từ trong đám mây mịt mù phủ khắp núi Si-nai. Các em có nhớ Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời ban cho dân sự không? Trong số Mười Điều Răn, có những điều dạy dân sự cách tôn thờ Chúa và những điều dạy dân sự cách đối xử với nhau. Khi Môi-se thuật lại những luật lệ của Đức Chúa Trời, dân sự chú tâm nghe Lời Chúa phán dặn, và đồng thanh hứa rằng sẽ vâng giữ luật lệ của Ngài. Thế nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó họ lại thất hứa. Bài học nầy sẽ giúp các em biết rõ hơn về điều đó.     

  1. Bài học.

Đức Chúa Trời lại bảo Môi-se lên núi, Ngài sẽ giao cho hai bảng đá ghi Mười Điều Răn để dạy dân sự làm theo. Rồi Môi-se sắp xếp cho A-rôn và Hu-rơ thay ông lo cho dân sự, còn ông dẫn người trợ giúp mình là Giô-suê lên núi. Môi-se đi khuất vào đám mây. Dân chúng đứng dưới núi nhìn lên thấy đám mây trên đỉnh núi rực sáng chói lòa. Nhưng nhiều ngày trôi qua, Môi-se vẫn chưa trở lại. Dân chúng nói với A-rôn: “Chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với Môi-se. Ông hãy làm nên một thần để dẫn dắt chúng tôi thay cho Môi-se”.

Trong các Điều Răn mà Đức Chúa Trời ban cho dân Y-sơ-ra-ên, có một điều cấm họ không được làm hoặc thờ bất cứ hình tượng nào. Mọi người đều hứa sẽ vâng giữ luật lệ của Đức Chúa Trời, thế nhưng chỉ trong một thời gian ngắn họ đã quên mất lời hứa của mình.

A-rôn bảo: “Các ngươi hãy cởi những bông tai bằng vàng đem đến cho ta”. Dân chúng phấn khởi vâng theo, họ tháo đồ trang sức ra giao cho A-rôn. A-rôn nấu chảy tất cả vàng thu được, rồi làm thành một con bò vàng. Dân chúng sung sướng reo hò: “Đây là thần của chúng ta”. Thấy dân sự vui mừng như vậy, A-rôn liền lập một bàn thờ trước tượng con bò đó và nói rằng: “Ngày mai chúng ta sẽ có một lễ hội tôn vinh thần nầy”.

Sáng sớm hôm sau, họ dâng của lễ thiêu, nhảy múa chung quanh tượng con bò đó. Họ ăn uống, vui chơi thỏa thích. Đức Chúa Trời biết tất cả mọi sự đang xảy ra, Ngài phán với Môi-se: “Con hãy xuống núi, dân Y-sơ-ra-ên đang làm trái điều răn của Ta”. Đức Chúa Trời buồn giận vì việc làm của dân Y-sơ-ra-ên, Ngài định hủy diệt họ. Nhưng Môi-se khẩn xin Đức Chúa Trời tha thứ cho dân sự, vì cớ Ngài đã từng hứa sẽ cho Y-sơ-ra-ên trở nên một nước lớn. Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện của Môi-se, không trừng phạt họ nữa.

Môi-se vội vàng xuống núi, cầm theo hai bảng đá có khắc Mười Điều Răn. Khi đến gần nơi dân Y-sơ-ra-ên đóng trại, Môi-se và Giô-suê nghe thấy tiếng ồn ào, la hét. Giô-suê nói: “Nghe như một trận chiến đang diễn ra nơi đó”. Môi-se đáp: “Đó không phải là tiếng reo hò chiến đấu, mà là tiếng ca hát cuồng nhiệt”.

Khi đến gần, Môi-se thấy dân sự đang nhảy múa quanh tượng con bò vàng. Quá tức giận, Môi-se liệng hai bảng đá bể ra từng mảnh dưới chân núi. Ông lấy tượng con bò vàng đốt trong lửa rồi đem nghiền ra thành bột, rắc trên nước, bắt dân Y-sơ-ra-ên uống. Môi-se hỏi A-rôn: “Tại sao anh lại khiến dân sự phạm tội nặng như thế?” A-rôn phân bua: “Em đừng giận anh! Em biết rằng những người nầy độc ác và bướng bỉnh. Họ bảo anh làm cho họ một thần tượng, nên anh bảo họ đem vàng đến và làm thành con bò vàng nầy”.

Môi-se đứng nơi cửa trại, kêu gọi: “Ai thuộc về Đức Chúa Trời đến đây với ta”. Lập tức có một số người đứng về phía Môi-se. Còn những người không chịu nhận tội, từ chối vâng phục thì bị chết hết.

Qua hôm sau, Môi-se nói cùng dân sự rằng: “Các ngươi đã phạm một tội rất nặng. Nhưng bây giờ ta sẽ lên núi cầu xin Đức Chúa Trời tha tội cho các ngươi”.

Vì yêu thương dân sự, Môi-se nài xin Đức Chúa Trời tha thứ cho dân Y-sơ-ra-ên, nếu không, ông sẵn lòng gánh lấy hình phạt thay họ. Nhưng Đức Chúa Trời phán rằng: “Ta phải trừng phạt họ vì những tội họ đã phạm”. Rồi Đức Chúa Trời giáng xuống cho dân Y-sơ-ra-ên một bệnh dịch đáng sợ vô cùng.

  1. Ứng dụng.

Cho các em mở bài 3 trong sách học viên ra, dựa theo gợi ý làm bài tập trong phần A để ôn lại câu chuyện. Giáo viên nói với các em: Đôi khi chúng ta cũng giống như A-rôn vậy, chiều theo sự cám dỗ mà phản nghịch Đức Chúa Trời. Em thử nghĩ xem, có người nào hoặc điều gì làm cho em không vâng theo Lời Chúa không? (Cho các em tự do chia sẻ). Sau đó, để các em dựa theo gợi ý làm bài tập “Nên hoặc không nên làm”.    

  1. PHỤ LỤC.

Hình 1 và 2.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 10 Tháng Năm, 2024

BÀI 2. GIA-CỐP TRÒ CHUYỆN VỚI CHÚA

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 28:10-22.

II. CÂU GỐC: Lạy Đức Giê-hô-va là Vầng Đá và là Đấng Cứu Chuộc của con, nguyện lời nói của miệng con, và sự suy ngẫm của lòng con được đẹp ý Ngài! (Thi Thiên 19:14).

III. BÀI TẬP.

A. CÙNG SUY NGHĨ.

Em xem hình và trả lời những câu hỏi nầy nhé!

  1. Tại sao Gia-cốp phải bỏ nhà ra đi?

…………………………………………………….

………………………………………………..

  1. Ông nằm ngủ ở đâu?

………………………………………………..

………………………………………………..

  1. Ông nằm mơ thấy gì?

…………………………………………………

…………………………………………………

  1. Đức Chúa Trời hứa với ông điều gì?

………………………………………………….

………………………………………………….

  1. Theo em khi Gia-cốp tỉnh giấc, ông cảm thấy thế nào? Tại sao?

……………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………..

B. NẾU LÀ EM, THÌ EM LÀM SAO?

Nếu em là Minh, thì em sẽ làm sao? (Đánh dấu X vào câu em chọn).

  1. Minh và Trung chơi đá banh, Minh lỡ đá bể kính cửa sổ nhà bên cạnh. Một phụ nữ trong nhà đi ra hỏi: “Chuyện gì xảy ra thế?” Minh nên trả lời thế nào?

…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..

 

Con lỡ đá trái banh làm vỡ cửa kính của cô. Bạn Trung làm vỡ kính đấy ạ!
Có mấy đứa nào đó giật trái banh của con rồi đá vỡ kính đấy ạ! Con không biết, con mới vừa đi ngang qua.
  1. Hôm qua Minh nói dối là không biết tại sao cửa sổ bị vỡ kính, hôm nay Minh nên làm thế nào?

…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..

 

Chuyện hôm qua mình đã quên rồi! Hôm nay, mình vẫn nói là người khác đá vỡ kính.
Mình sẽ nói với cô chủ nhà là hôm qua đã nói dối, và sẽ xin lỗi cô ấy và mong cô ấy tha lỗi. Mình sẽ xin Đức Chúa Trời tha tội, nhưng sẽ không thú thật với cô chủ nhà đó đâu!