Latest News From Our Blog

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 10.05.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 10.05.2015

in NAM GIỚI on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 10.05.2015.

1. Đề tài: LỄ MẪU THÂN.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 101.

3. Câu gốc: “Tôi sẽ ăn ở cách khôn ngoan trong đường trọn vẹn; ồ! Chúa chừng nào sẽ đến cùng tôi? Tôi sẽ lấy lòng trọn vẹn mà ăn ở trong nhà tôi” (Thi 101:2).

4. Đố Kinh Thánh: E-xơ-ra 5-10.

5. Thể loại: Kịch 5’.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 01.02.2015.

* CÂU CHUYỆN THAM KHẢO.

PHƯỚC CHO NGƯỜI HIẾU KÍNH CHA MẸ.

Federick, vua nước Prussia xưa là một vị vua rất thương dân. Một hôm ông bấm chuông gọi người hầu, nhưng không thấy anh vào. Ông liền bước ra để tìm. Ông thấy anh đang úp mặt ngủ mê. Ông rón rén lại gần và thấy có một bức thơ ở túi anh lộ ra ngoài. Ông tọc mạch rút nhẹ ra xem. Đây là bức thư của mẹ anh gởi đến cám ơn anh lâu nay đã nhịn ăn mặc tiêu pha gởi một phần lương mình về nuôi bà.

Sau khi đọc xong, vua bước nhẹ về phòng lấy một túi bạc đầy, rón rén nhét vào túi anh với cả bức thư mẹ anh nữa. Xong, ông bước vào phòng nhấn chuông mạnh hơn. Anh hầu phòng tỉnh dậy sợ hãi chạy ra trình diện. Vua nói: Chà, anh ngủ ngon quá!

Anh hầu chẳng biết chữa lỗi ra sao, nên bối rối bỏ tay vào túi. Tay anh đụng vào bức thư và túi bạc. Anh móc túi bạc ra và tái mặt khóc oà, không nói được một lời. Vua hỏi: Sao, có điều gì vậy?

Anh tâu: Kính tâu hoàng thượng!

Rồi sấp mình dưới chân vua và tâu thêm: Tâu có người muốn hại con. Con chẳng hiểu biết gì về túi bạc nầy cả. Con vừa rờ phải trong túi con đây.

Vua đáp: Hỡi người bạn trẻ ơi! Thường thường Đức Chúa Trời cũng thi hành công việc lớn lao cho chúng ta trong khi chúng ta ngủ chớ… Anh hãy gởi số bạc đó cho mẹ anh và thay tôi chào thăm mẹ anh, và nói rằng tôi sẽ chăm nom cả mẹ anh và anh nữa.

Con cháu biết hiếu kính và tôn trọng cha mẹ thì Chúa không quên bỏ đâu. Chúa thường ban thưởng những người con, cháu biết tưởng nhớ, giúp đỡ ông bà, cha mẹ. Con cháu ngỗ nghịch không vâng lời cha mẹ, bất hiếu thì bị Chúa rủa sả (Ê-phê-sô 6:1-3).

PHẦN THƯỞNG CỦA NGƯỜI HIẾU KÍNH CHA MẸ.

Vua Gustave III của Thụy Điển xưa, ngày kia một mình cỡi ngựa ngang qua một làng quê gần kinh đô. Vua khát nước mà bầu nước đem theo đã hết, lại không có quân hầu đi theo nên không sao có nước uống. Bỗng vua thấy có một cô gái đang múc nước ở một giếng nước bên đường, vua bèn thúc ngựa chạy đến xin nước uống. Cô thiếu nữ nghe xin vội vàng đổ vò nước mời vua uống. Uống xong, vua nói: Cám ơn cô cho tôi uống nước. Nếu cô bằng lòng theo tôi về Stockhom, tôi sẽ cho cô một địa vị tốt đẹp hơn.

Cô gái đáp: Thưa ông, tôi không thể nhận lời đề nghị của ông được. Tôi không có ý leo lên địa vị cao hơn địa vị mà Chúa đã cho tôi. Vả lại, tôi không muốn đi đâu xa đây cả.

Vua ngạc nhiên hỏi: Sao vậy cô?

Cô gái thưa: Vì mẹ tôi nghèo và bệnh hoạn chẳng có ai giúp đỡ, yên ủi trong cơn đau đớn, buồn thảm. Tôi không thể rời bỏ mẹ tôi được. Không có gì có thể khiến tôi bỏ phận sự làm con đối với mẹ tôi được.

Vua hỏi: Hiện thời mẹ cô ở đâu?

Cô đáp: Thưa, ở trong cái chòi kia!

Cô vừa nói vừa chỉ vào cái lều lụp xụp, tồi tàn. Vua xin phép theo cô đến thăm. Khi vua bước vào, thấy một bà già tàn tật ngồi trên một cái giường rơm rất thương tâm, vua nói: Thưa bà, tôi rất buồn khi thấy bà trong cảnh đau yếu đáng thương thế nầy.

Bà cụ nói: Thưa ông, tôi thật đáng thương, nhưng tôi vẫn quan tâm, thương xót đứa con gái đã làm việc mệt nhọc để nuôi tôi và giúp tôi không thiếu thứ gì. Nó an ủi tôi nhiều lắm. Cầu xin Chúa nhớ đến điều lành mà con tôi đã làm cho tôi.

Nói xong, bà lấy tay lau nước mắt. Vua Gustave vô cùng xúc động. Chưa khi nào vua cảm động bằng lần nầy khi nghe lời nói của bà và lòng chí hiếu của người con gái. Vua liền rút ra một túi bạc đặt vào tay thiếu nữ và nói: Hãy tiếp tục săn sóc và chăm nom mẹ cô. Tôi sẽ sớm giúp cô hiệu quả hơn để cô có thể săn sóc mẹ cô tốt đẹp hơn. Tôi xin từ giã cô. Cô hãy tin tưởng vào lời hứa của vua cô nhé!

Thế rồi sau khi về hoàng cung ở Stockhom, vua liền cấp cho mẹ cô gái một trợ cấp trọn đời, và khi mẹ cô qua đời, cô vẫn tiếp tục được thừa hưởng nữa.

MẸ ƠI! CON CHỈ CẦN MẸ.

Một cô bé nọ bị tàn tật lâu năm và phải ở mãi trong nhà. Thế nhưng mẹ cô bé lại là một người đàn bà ham vui. Bà không thích ở nhà mãi với con mình nên thuê một người vú em về chăm sóc cô bé. Bà đi du lịch khắp nơi và thỉnh thoảng gởi quà về cho con mình. Đôi khi bà gởi sách vở hoặc hình ảnh và cũng có khi gởi đồ nữ trang nữa.

Vào ngày sinh nhật của cô bé, bà gởi về tặng cho con một lọ cắm hoa của Ý rất đẹp. Khi người vú em mang tới, cô bé nhìn chiếc lọ rồi bảo: Cất đi, cất đi! Đừng gởi quà về cho con nữa! Con không cần sách vở, không cần hình ảnh hoặc lọ hoa đâu. Mẹ ơi, con chỉ cần mẹ thôi!

Rồi cô oà lên khóc nức nở.

Biết bao người tin Chúa nhưng cứ đòi giàu sang, may mắn, đòi ơn phước nầy nọ, cứ đòi mãi. Cho đến khi nào chúng ta cảm biết rằng “Tôi chỉ cần một mình Chúa thôi”, lúc đó đức tin chúng ta mới trưởng thành và ơn phước của Chúa tự nhiên sẽ theo chúng ta, như Đa-vít đã nói “Phước hạnh và sự thương xót sẽ theo tôi” (Thi 23:6).

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 03.05.2015

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG BAN NAM GIỚI 03.05.2015

in NAM GIỚI on 1 Tháng Bảy, 2015

Chúa nhật 03.05.2015.

1. Đề tài: NƯỚC VINH HIỂN ĐỜI ĐỜI.

2. Kinh Thánh: 2Phi-e-rơ 3:9-14; Khải Huyền 21:1-8.

3. Câu gốc: “Vả, theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở” (2Phi 3:13).

4. Đố Kinh Thánh: E-xơ-ra 1-4.

5. Thể loại: Phỏng vấn.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 22.02.2015.

* GỢI Ý PHỎNG VẤN.

(Sau khi người hướng dẫn giới thiệu thể loại chương trình thờ phượng, phóng viên từ dưới phòng nhóm đi lên và Phi-e-rơ từ ngoài bước vào).

– Phóng viên: Dạ xin  kính chào cụ Phi-e-rơ!

– Phi-e-rơ: Chào các cháu!

– PV: Chúng cháu rất vui vì được cụ đến thăm hôm nay. Thay cho các bạn thanh niên trong Hội Thánh, cháu xin có lời chào mừng và hoan nghênh cụ. Nhân buổi gặp gỡ nầy cụ có thể giúp chúng cháu tìm hiểu về Nước vinh hiển đời đời xảy ra trong tương lai không thưa cụ?

– Phi-e-rơ: Được, các cháu cứ hỏi, ta sẽ giúp các cháu trong khả năng của ta.

– PV: Xin cụ vui lòng cho chúng cháu biết vì sao Chúa chưa trở lại?

– Phi-e-rơ: Theo 2Phi 3:9 cho biết lý do Chúa chưa trở lại là vì cớ chờ đợi người có tội ăn năn, chớ chẳng phải Ngài không trở lại.

– PV: Thưa cụ, có hình ảnh nào để minh chứng chắc chắn Chúa sẽ trở lại để chúng cháu giúp đỡ những người còn nghi ngờ hoặc hờ hững với sự tái lâm?

– Phi-e-rơ: Các cháu có thể dùng nhiều lời tiên tri của Chúa Giê-xu, các tiên tri, và các sứ đồ được chép trong Kinh Thánh để dẫn chứng trong khi nói chuyện với những người vô tín. Các cháu cũng có thể dùng hình ảnh cơn nước lụt trong thời Nô-ê để minh chứng Đức Chúa Trời đã hủy diệt thế giới loài người gian ác bằng cơn nước lụt.

– PV: Cám ơn cụ về sự giúp đỡ nầy. Thưa cụ, trong ngày cuối cùng Đức Chúa Trời sẽ hủy diệt thế giới tội lỗi nầy như thế nào?

– Phi-e-rơ: Theo lời Chúa, trời đất vẫn được giữ nguyên để dành cho lửa trong ngày phán xét sau cùng. Sự phán quyết của Kinh Thánh là lời cảnh cáo người vô tín và nhắc nhở những ai còn nghi ngờ về sự tái lâm của Đấng Christ.

– PV: Cụ có thể mô tả rõ ràng về ngày tận cùng của muôn vật không thưa cụ?

– Phi-e-rơ: Lời Chúa chép: “Các thể chất bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả… các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán” (2Phi 3:10,12).

– PV: Thưa cụ, khi nào Chúa dựng nên trời mới, đất mới và dựng nên như thế nào?

– Phi-e-rơ: Phía sau của sự tiêu hủy thế giới cũ đầy tội lỗi, một khung cảnh huy hoàng tinh khiết của trời mới đất mới hiện ra. Sự dựng nên mới nầy đã được tiên tri Ê-sai dự ngôn và trong sự hiện thấy của sứ đồ Giăng (Ê-sai 66:22; Khải 21:1).

– PV: Thưa cụ, tại sao Đức Chúa Trời tiêu hủy công việc sáng tạo, là công việc mà trước kia Ngài phán thật rất “tốt lành” và dựng nên trời mới, đất mới?

– Phi-e-rơ: Mọi công việc Ngài làm đều rất toàn hảo. Nhưng tiếc thay vì sự xâm nhập của tội lỗi, vì sự bất tuân của loài người nên con người không những chịu sự đoán phạt của Đức Chúa Trời mà còn gây ảnh hưởng tai hại cho mặt đất. Chính vì vậy, Đức Chúa Trời đốt cháy trời đất trong ngày phán xét cuối cùng để thanh lọc người ác, tẩy sạch vật sáng tạo vì đã bị uế nhiễm bởi tội lỗi.

– PV: Xin cụ vui lòng cho chúng cháu biết thêm về Nước vinh hiển.

-Phi-e-rơ: Nước vinh hiển là Nước toàn thiện của Ngài trên đất. Là nơi “sự công bình ăn ở”, nơi không có bóng của tội lỗi, nơi dành cho người được chuộc bởi ân điển Ngài (2Phi 3:13).

– PV: Thưa cụ, vậy là cuộc sống của con người nơi Nước vinh hiển khác hẳn cuộc sống nơi thế giới cũ tội lỗi phải không cụ?

– Phi-e-rơ: Các cháu nói rất đúng. Sự khác biệt nầy có thể thấy rõ trong những điểm sau đây:

– Trong thế giới cũ con người bị bịnh tật, sự chết, nước mắt, buồn rầu, đau đớn, tội lỗi, và cách xa Đức Chúa Trời.

– Nhưng trong Nước vinh hiển con người được sự sống đời đời, vui mừng, thánh khiết, phước hạnh trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời.

– PV: Cám ơn cụ đã giúp chúng cháu hiểu rõ hơn về Nước vinh hiển trong tương lai. Biết rõ điều nầy chúng cháu hứa sẽ giúp người khác hiểu biết về Nước vinh hiển và có sự ước ao vào sống trong Nước vinh hiển.

NHD: Thưa các bạn! Chúng ta vừa nghe cụ Phi-e-rơ giãi bày về Nước vinh hiển trong tương lai. Nguyện Chúa Thánh Linh ban năng lực để các bạn làm trọn những điều mình hứa nguyện với Chúa qua bài học nầy. Mời các bạn đứng lên và mời cụ Phi-e-rơ cầu nguyện cho chúng cháu.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Thế giới chúng ta đang sống là thế giới đầy dẫy nan đề vượt quá tầm tay của con người. Mặc dầu sự tiến bộ của khoa học hiện đại có thể giải quyết được một số vấn đề nhất thời của nhân loại nhưng con người không có cách nào để ngăn chận sức lan tràn của tội lỗi đang bành trướng mỗi ngày một thêm. Sự băng hoại đạo đức bên trong lòng người đã đến mức độ trầm trọng. Đó là nguyên nhân của bạođộng, xáo trộn không dừng mà chúng ta thấy khắp nơi trong xã hội loài người. Như thế tình trạng nầy cứ tiếp diễn mãi theo sự xoay vần của trái đất và bất biến với thời gian không? Thế giới loài người sẽ đi về đâu?

Kinh Thánh đã nói đến sự bắt đầu của thế giới, và cũng nói đến ngày cuối cùng của muôn vật. Điều nầy sẽ xảy ra như thế nào? Bên kia sự tận cùng là gì? Và có mục đích gì trong chương trình sáng tạo và cứu rỗi của Đức Chúa Trời đối với loài người trên đất?

I. DẪN GIẢI.

A. SỰ CUỐI CÙNG CỦA MUÔN VẬT.

1. Nền tảng Kinh Thánh về ngày tận thế.

Ngày tận thế là điều chắc chắn theo như lời tiên tri trong Kinh Thánh.

– Mathiơ 24:3-14: Chính Chúa Giê-xu đã bày tỏ cho môn đồ biết những biến cố sẽ xảy ra dẫn đến ngày tận thế.

– 1Phi-e-rơ 4:7: Sứ đồ Phi-e-rơ cũng đã cảnh tỉnh con cái Chúa về sự cuối cùng của muôn vật hầu gần.

– 2Phi-e-rơ 3:3-9: Chúa không chậm trễ về sự hiện đến của Ngài. Lý do Ngài chưa đến là vì cớ chờ đợi người có tội ăn năn, chớ không có nghĩa Ngài sẽ không trở lại để thi hành sự đoán phạt thế gian. Trong thời Nôê, thế giới loài người đã có lần bị hủy diệt bằng cơn nước lụt. Tuy nhiên, trời đất theo lời Chúa vẫn được giữ nguyên để dành cho lửa trong ngày phán xét sau cùng của nhân loại. Sự phán quyết của Kinh Thánh là lời cảnh cáo người vô tín khinh lờn về ngày chung kết của thế gian, và nhắc nhở những ai còn nghi ngờ về sự tái lâm của Đấng Christ.

2. Thời điểm và diễn tiến về sự tận cùng của muôn vật.

Theo các diễn tiến nói đến trong Khải Huyền 20:7,11, thì biến cố của ngày tận thế sẽ xảy ra sau thời đại Thiên hi niên, và trước ngày phán xét cuối cùng của thế giới. “Bấy giờ tôi thấy một tòa lớn và trắng cùng Đấng đương ngồi ở trên; trước mặt Ngài trời đất đều trốn hết” (c.11).

Sự tận cùng của muôn vật được mô tả trong biến động với tiếng vang rền của các từng trời, sự đốt cháy của lửa và hết thảy đều bị thiêu hủy: “Các thể chất bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả… các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán” (2Phi 3:10,12).

B. SỰ DỰNG NÊN TRỜI MỚI ĐẤT MỚI.

Phía sau của sự tiêu hủy thế giới cũ đầy tội lỗi, một khung cảnh huy hoàng tinh khiết của trời mới đất mới hiện ra. Sự dựng nên mới nầy đã được tiên tri Ê-sai dự ngôn và trong sự hiện thấy của sứ đồ Giăng (Ê-sai 66:22; Khải 21:1).

Trong Sáng 1:1-3; Giăng 1:3, bày tỏ sự dựng nên muôn vật là công việc của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Và trong sự làm mới muôn vật cũng là công việc của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Trong Khải 21:6, Đức Chúa Trời được xưng bằng danh hiệu “An-pha và Ô-mê-ga”, là danh hiệu cũng được dùng cho Đức Chúa Con. Điều nầy cho thấy sự bình quyền và đồng công của Đức Chúa Trời Ba Ngôi.

Nói đến sự dựng nên mới, có thể một câu hỏi được nêu lên: Tại sao Đức Chúa Trời tiêu hủy công việc sáng tạo trước kia, là công việc mà Ngài phán thật rất “tốt lành” và dựng nên trời đất mới? Chúng ta có thể tìm thấy trong những lý do sau đây:

Đức Chúa Trời là Đấng Toàn thiện, Toàn mỹ. Mọi công việc Ngài làm đều toàn hảo. Nhưng tiếc thay vì sự xâm nhập của tội lỗi, trên trời với sự dấy loạn của Lu-xi-phe đã kéo theo một số thiên sứ, kết hợp thành nước của sa-tan chống nghịch với Đức Chúa Trời (Êph 6:12); dưới đất, sa-tan cám dỗ loài người bất phục Đức Chúa Trời, sự phạm tội của loài người chẳng những chuốc lấy sự đoán phạt của Đức Chúa Trời, lại còn gây ảnh hưởng tai hại cho mặt đất (Sáng 3:17-19). Cho nên với sự đốt cháy trời đất trong ngày phán xét cuối cùng, Đức Chúa Trời có mục đích thanh lọc người ác, tẩy sạch vật sáng tạo vì đã bị uế nhiễm bởi tội lỗi và dựng nên mới là để bắt đầu cho Nước vĩnh viễn, toàn thiện của Ngài trên đất, nơi “sự công bình ăn ở”, nơi không có bóng của tội lỗi, dành cho người được chuộc bởi ân điển Ngài (2Phi 3:13).

C. THÀNH GIÊ-RU-SA-LEM MỚI.

Trong cảnh trời mới, đất mới, thành Giê-ru-sa-lem mới cũng được xuất hiện. Tính từ “mới” diễn tả trọn vẹn sự toàn hảo, trong sạch của nước vinh hiển đời đời. Danh hiệu Giê-ru-sa-lem mới còn được gọi là “Thành của Đức Chúa Trời”, “thành thánh”, “vợ mới cưới là vợ Chiên Con” (Khải 3:12; 21:1,9). Những danh hiệu nầy có thể bao gồm hai ý như sau: (1) Giê-ru-sa-lem mới nói về thủ đô của nước Đức Chúa Trời, với sự ngự trị của Ngài ở giữa dân sự Ngài (Khải 21:3). (2) Giê-ru-sa-lem mới ám chỉ người, một tập thể của những người được chuộc, tức là Hội Thánh của Đấng Christ. Trong ý nghĩa nầy, Giê-ru-sa-lem mới cũng được gọi là “Giê-ru-sa-lem ở trên cao” (Gal 4:26).

Theo Khải Huyền 21:9-22:5, Giê-ru-sa-lem mới được diễn tả như sau: Là một thành hình vuông lập phương, có cạnh dài khoảng 1.500 dặm, chiếm diện tích 2.250.000 dặm vuông. Thành có một bức tường cao lớn, với 12 cửa, mỗi cửa làm bằng hột châu nguyên khối. Các cửa được sắp theo bốn hướng; ba cửa phía Đông, ba cửa phía Tây, ba cửa phía Nam và ba cửa phía Bắc. Mỗi cửa đề tên một chi phái Y-sơ-ra-ên. Tường thành được đặt trên 12 nền, trên đó có đề tên 12 sứ đồ. Mỗi nền được trang điểm bằng một thứ ngọc quí như bích ngọc, đá lam bửu, lục mã não, lục cẩm, hồng mã não, hoàng ngọc, ngọc hoàng bích, ngọc thủy thương, ngọc hồng bích, ngọc phỉ túy, hồng bửu, tử bửu. Đường phố lót bằng vàng ròng. Ở giữa thành và trên hai bờ sông có cây sự sống trổ mỗi tháng một mùa. Thành không cần mặt trời vì Chiên Con là sự sáng của thành.

Thành Giê-ru-sa-lem mới theo sự diễn tả trên cho chúng ta thấy có những đặc điểm và ý nghĩa sau đây:

(1) Đây là một thành thực sự.

(2) Đây là thành thánh từ trời, ở nơi Đức Chúa Trời hiện xuống, là thành mà các nhà giải kinh cho là nơi Chúa Giê-xu phán hứa với môn đồ trước khi Ngài về trời (Giăng 14:3).

(3) Đây là thành có sự ngự trị của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Đức Cha là Đền thờ của thành, Đức Con là Sự sáng của thành và Đức Thánh Linh là Sự sống của thành.

(4) Thành của sự cứu rỗi và sự cứu rỗi đến từ tuyển dân Y-sơ-ra-ên. Tên 12 chi phái ghi mỗi cửa tiêu biểu cho tuyển dân Y-sơ-ra-ên. Hạt châu làm cửa chỉ về Chúa Giê-xu, Đấng được sanh ra trong dòng dõi Đa-vít, là “Cửa” dẫn vào sự cứu rỗi (Giăng 4:22;10:9).

(5) Một thành bao la rộng lớn như được mô tả trong kích thước (Khải 21:16).

(6) Một thành hoàn hảo. Kiểu hình vuông lập phương, Kinh Thánh thường dùng làm tiêu biểu cho sự hoàn hảo trọn vẹn (Xuất 27:1; 30:2; 1Vua 6:20).

(7) Một thành được xây trên nền xinh đẹp vô cùng (Khải 21:18-19). Nền chỉ về các sứ đồ trong sự xây dựng Hội Thánh trên lẽ thật của Tin Lành (Êph 2:20).

(8) Một thành của vua vinh hiển, rực rỡ, vinh quang như được diễn tả trong chất liệu kiến trúc bằng vàng ròng (Khải 21:18).

(9) Cây sự sống của vườn Ê-đen mà loài người đã đánh mất được tìm lại trong thành Giê-ru-sa-lem mới.

(10) Dân sự của thành Giê-ru-sa-lem mới là người có tên trong sách sự sống, tức là người được cứu chuộc bởi huyết của Đấng Christ.

Qua những đặc điểm trên cho thấy người trong trời mới đất mới và Giê-ru-sa-lem mới khác hẳn với cảnh trạng của người trong thế giới cũ. Sự khác biệt nầy có thể thấy rõ trong những điểm sau đây:

– Trong thế giới cũ: Bịnh tật, sự chết, nước mắt, buồn rầu, đau đớn, tội lỗi, và cách xa Đức Chúa Trời.

– Trong thành Giê-ru-sa-lem mới: Sự sống đời đời, vui mừng, thánh khiết, phước hạnh, không có ban đêm, và ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời mãi mãi.

Khi cảnh trời mới đất mới xuất hiện, chúng ta nghe có tiếng phán của Đức Chúa Trời “Xong rồi” (Khải 21:6). Lời phán nầy có thể xem như một lời tuyên bố về sự hoàn thành chương trình vĩ đại của Đức Chúa Trời trong công cuộc sáng tạo và cứu chuộc loài người. Và sự lập nước vĩnh viễn cho người được chuộc là cứu cánh cuối cùng của chương trình cứu rỗi của Ngài.

Một tuyệt điểm của tình yêu thương Ngài được chiếu sáng trong quang cảnh rực rỡ của thành Giê-ru-sa-lem mới với những người được chuộc bởi ân điển Ngài qua sự xả thân của Đấng Christ.

Một câu hỏi có thể nêu lên là: Khi nước Thiên hi niên đi vào nước vĩnh viễn, nghĩa là từ vương quốc của Đấng Christ đến vương quốc của Đức Chúa Trời theo điều nói đến trong 1Cô-rinh-tô 15:24-28, thì quyền trị vì của Đấng Christ có chấm dứt không hay vẫn tiếp tục?

Theo sự bình giải của Me Alaim, vấn đề trên có thể hiểu như sau:

(1) Khi người thù sau cùng của Đức Chúa Trời là sa-tan đặt dưới chân của Đấng Christ, Vua Trung Bảo, bấy giờ mục đích của nước Thiên hi niên hay vương quốc trung bảo sẽ được trọn.

(2) Lúc đó Đấng Christ sẽ trao vương quốc trung bảo cho Đức Chúa Trời để trở thành vương quốc vĩnh viễn. Không có sự phân chia nào giữa hai vương quốc nầy (1Côr 15:24-26).

(3) Đây không có nghĩa chấm dứt quyền tể trị của Đấng Christ. Ngài chỉ dừng chức vụ trung bảo, nhưng vì là Con, vị phẩm Ngôi Hai trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời hiệp nhất, Ngài sẽ tiếp tục trị vì với Chúa Cha trong cõi đời đời. Vinh dự của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh được thấy rõ trong vương quốc thần quyền vĩnh viễn, một sự hiệp một trọn vẹn trong sự tể trị muôn vật (Khải 21:10; 22:1-5; Giăng 17:23).

Tóm lược.

1. Trong ngày cuối cùng của thế giới, trời đất sẽ bị thiêu hủy bằng lửa. Trời mới đất mới sẽ được dựng nên để làm nơi ở vĩnh viễn cho người công bình.

2. Giê-ru-sa-lem mới là thủ đô của Nước vĩnh viễn đời đời. Đây là thành thánh, từ trời giáng xuống với sự ngự trị của Ba Ngôi Đức Chúa Trời, đầy dẫy vinh hiển, rực rỡ oai nghiêm.

3. Trong thành Giê-ru-sa-lem mới không còn có sự chết, nước mắt và đau khổ.

4. Chỉ có người được ghi tên trong sách sự sống của Chiên Con mới được nhận làm công dân của Nước vĩnh viễn.

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. a. Ma-thi-ơ 24:3-14: Chúa Giê-xu cho môn đồ biết trước điều gì sẽ xảy đến cho thế giới?

b. 1Phi-e-rơ 4:7: Sứ đồ Phi-e-rơ nhắc con cái Chúa điều gì?

c. 2Phi 3:9-12; Khải 20:7,11: Sự cuối cùng của muôn vật sẽ được xảy ra khi nào? Tại sao chúng ta biết điều nầy là chắc chắn?

2. Xin tóm lược những điểm quan trọng làm dẫn chứng cho người không tin có sự tận thế hay còn nghi ngờ về lời hứa của Chúa (2Phi 3:3-7).

3. a. Ê-sai 66:22; Khải Huyền 21:1: Sau sự tiêu hủy muôn vật sẽ có điều gì?

b. Ê-sai 65:17; Khải Huyền 21:6 so sánh với Sáng Thế Ký 1:1; Giăng 1:3: Trời mới đất mới sẽ do ai dựng nên?

4. Sáng 3:17-19,22-24;6:5-6; 2Phi-e-rơ 3:12-13: Tại sao thế giới bị hủy diệt và sự dựng nên trời mới và đất mới nhằm mục đích gì?

5. a. Khải Huyền 21:3;3:12;21:9: Thành Giê-ru-sa-lem mới còn được gọi bằng những danh hiệu nào khác và có nghĩa gì?

b. Khải Huyền 22:3,10,22-23: Trong thành Giê-ru-sa-lem mới có sự hiện diện của ai?

c. Khải Huyền 21:9-22:5. Cho biết về sự xây cất, kích thước của thành Giê-ru-sa-lem. Quang cảnh nầy có ý nghĩa gì?

d. Khải Huyền 22:8,27. Điều kiện nào để được trở thành công dân của thành Giê-ru-sa-lem mới?

6. a. Xin tóm lược những đặc điểm của thành Giê-ru-sa-lem mới.

b. Người ở trong thành Giê-ru-sa-lem mới được hưởng những phước hạnh gì? So sánh người trong thành Giê-ru-sa-lem mới với thế giới cũ (Khải 21:3-4,23-27).

7. a. Khải Huyền 21:6: Đức Chúa Trời xưng Ngài trong danh hiệu nào? Và danh hiệu nầy cũng được ai xưng nữa? (Khải 1:17; 22:13. Điều nầy có nghĩa gì?

b. Lời phán của Đức Chúa Trời “xong rồi” trong Khải 21:1-6, có nghĩa gì đối với chương trình sáng tạo và cứu chuộc của Ngài?

8. Bạn có đủ điều kiện được nhận vào Nước vinh hiển đời đời không? Vì sao bạn biết?

BẢN TIN CẦU THAY &CẢM TẠ SỐ 4 – Tháng 4/2015

BẢN TIN CẦU THAY &CẢM TẠ SỐ 4 – Tháng 4/2015

in CẢM TẠ & CẦU THAY on 22 Tháng Tư, 2015

VIỆC LỚN CHÚA LÀM

BẢN TIN CẦU THAY &CẢM TẠ SỐ 4 – Tháng 4/2015

Để bài làm chứng và cảm tạ được phong phú, chúng tôi rất cần lời làm chứng của tất cả quý đầy tớ Chúa về những việc quyền năng mà Đức Chúa Trời đã làm trong Hội Thánh và khu vực của quý vị. Cứ mỗi một hoặc hai tháng, xin quý đầy tớ Chúa vui lòng dành chút thời gian gửi cho chúng tôi vài dòng làm chứng. Chúng tôi tin chắc chắn rằng Chúa sẽ dùng những lời chứng nầy để nâng đỡ, khích lệ, làm mạnh mẽ sự hầu việc Chúa của nhiều Mục sư, Tín hữu khác.

Ngoài hai vị MS thường xuyên góp phần trong mục vụ nầy là MSNC Giàng A Pảo và MSNC Giàng Quang Sở, nay Chúa cho có thêm thầy Trần Văn Quảng. Hy vọng trong tháng tới sẽ có nhiều bài làm chứng từ quý đầy tớ Chúa. Chân thành cảm ơn.

Lời Làm Chứng Của Thầy Trần Văn Quảng – Hội Thánh EadRăng, Đăk Lăk. 

 

Vào khoảng đầu tháng 1 năm 2015,chúng tôi ra thăm mẹ thầy Thoại ở Komtum, bệnh viện đã trả mẹ của thầy về để chờ ngày về với Chúa.Họ đã khoét một phía bên hông của bà để dẫn chất thải ra ngoài.Chúng tôi đã cầu nguyện cho bà và bây giờ bà đã đi ngoài như một người bình thường,vết khoét đã lành. Tên bà là Y Đay, năm nay 69 tuổi.Qua đó con của bà tức là thầy Thoại đã mạnh mẽ trở lại.

 

Còn người thứ hai là chị của Thầy A Net bị bệnh phổi, khi chúng tôi cầu nguyện thì chị đã được chữa lành. Qua đó,có một hội thánh độc lập gia nhập với HTTGPA.

 

Nhờ MS Đoàn Anh Tuấn hướng dẫn tôi cách vừa cầu nguyện nhân danh Chúa Giê-xu vừa cầm tay người bệnh bước đi. Đó là điều tôi chưa bao giờ làm trong 19 năm hầu việc Chúa. ChiềuChúa Nhật 12/4/15, cháu Y Luât 13 tuổi, bệnh viện trả về. Đến nhà, tôi thấy cháu nằmgiữa nhà đắp mềm, cứ ba phút lên cơn co giật. Chúng tôi, các cháu thiếu nhi cùng với cháu Y Luât hiệp ý cầu nguyện. Tôi nhớ điều MS Tuấn hướng dẫn, tôi hỏi cha mẹ cháu Y Luât có tin Chúa làm phép lạ không?Họ trả lời có.Sau đó, chúng tôi hát Thánh Ca.Tôi mời các anh em cầu nguyện, rồi tôi vừa cầu nguyện nhân danh Chúa Giê-xu vừa cầm tay cháu Y Luât dắt đi. Sau cháu ra mồ hôi,rồi cháu ăn và hết bệnh. Ha-lê-lu-gia, Chúa thật Quyền Năng!

 

Lời Làm Chứng Của MSNC Giàng A Pảo – Hội Thánh Tắc Cai 2.

 

Chiều Chúa Nhật 5/4/2015, chúng tôi có tổ chức Lễ Kỷ Niệm Chúa Phục Sinh. Sau bài giảng và kêu gọi có một bà tiếp nhận Chúa.Khi bà về tới nhà, chồng bà là Sùng Seo Lùng bị ma nhập, phá rối vợ con và gia đình, đồng thời ông cũng đốt luôn quyển Kinh Thánh.Ông còn nói khi nào vợ ông đi nhóm ông sẽ giết luôn để xem Hội Thánh sẽ làm gì ông!

 

Nghe vậy, tôi cùng với MSQN Giàng Seo Sì và thầy Giàng Seo Nhà hiệp lại tại nhà thầy Nhà cầu nguyện cho ông bà. Chúng tôi nhân danh Chúa Giê-xu mà đuổi quỷ ra khỏi ông Lùng. Hai đứa con của ông bà Lùng trên đường về nhà, khoảng giữa đường, người anh chạy trước, người em chạy sau cách khoảng 10 m. Người em thuật lại là em thấy một cái gì đen xì bèn la lớn tiếng lên. Về đến nhà, người anh hỏi sao em la lớn như vậy, người em thuật lại câu chuyện. Điều kỳ diệu làkhi bước vào nhà thì cha của họ, ông Sùng Seo Lùng đã bình phục hoàn toàn như chẳng có việc gì xảy ra trước đó. Sáng thứ hai 06/04/2015,người anh đến nhà tôi cảm tạ Chúa và cảm ơn chúng tôiđã cầu nguyện cho cha của họ. Tôi thật vui mừng, cảm tạ Chúa vô cùng vì Ngài cho phép lạ xảy ra lớn quá!

 

Lời Làm Chứng Của MSNC Giàng Quang Sở – Hội Thánh Tắc Cai 1.

 

Tối thứ Tư 18/2/2015, em Giàng Quang Diu trong Hội Thánh tôi bị đau sau lưnglàm choem rất khó cử động. Sáng ngày 19/2/2015 tức mùng một Tết Âm Lịch lúc 6:30, em Diu gọi ĐT nhờ tôi cầu nguyện Chúa chữa lành. Khi hai vợ chồng tôi đến nơi thì thấy người em không cử động được, em cho chúng tôi biết rằngsáng nay em không thể hướng dẫn chương trình được. Sau khi tôi đặt tay cầu nguyện xong thì em được lành bệnh, và 20 phút sau, em có mặt tại Hội Thánh hướng dẫn chương trình thờ phượng Tết mừng năm mới. Thật cảm ơn Chúa.

 

Tối thứ Năm 2/4/2015, có một chị tín đồ được Chúa chữa lành. Chị tên là Giàng Thị Chá. Chị đi rừng và bị đau tê cả thân thể. Hai đùi bị tê cứng khó hoạt động, còn hai bàn chân thì bị ung độc. Chị bị bệnh nầy đã 2 ngày trên rừng, tối lúc 6:30 ngày 2/4/2015, chúng tôi đi đến nhà nguyện cầu nguyện, thì hai vợ chồng chị đến xin tôi cầu nguyện xin Chúa chữa lành. Sau khi chúng tôi đặt tay cầu nguyện thì bệnh đã bớt đi khoảng 60% và đến ngày hôm sau 3/4/2015 thì bệnh đã hết hoàn toàn. Cả những ung độc ở bàn chân cũng hết. Cảm ơn Chúa.

 

MS Đoàn Anh Tuấn – Chịu trách nhiệm thu nhận những báo cáo, hiệu đính và gửi về cho Tổng Hội. Nếu quý Đầy Tớ Chúa nào được sự cảm động, muốn tham gia mạng lưới cầu nguyện hoặc muốn gửi những nan đề cần cầu thay, những lời làm chứng hoặc cảm tạ, xin liên lạc và gửi điện thư cho MS Đoàn Anh Tuấn tại địa chỉsau:gabrieljdoan1@yahoo.com. ĐT: (864) 373-4146.

Tháng 4/2015

 

 

 

 

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 26.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 26.04.2015

in Thanh niên on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 26.04.2015.

1. Đề tài: NƠI Ở ĐỜI ĐỜI CỦA NGƯỜI ÁC.

2. Kinh Thánh: Khải Huyền 9:2-11; 20:11-15; 21:8.

3. Câu gốc: “Còn những kẻ hèn nhát, kẻ chẳng tin, kẻ đáng gớm ghét, kẻ giết người, kẻ dâm loạn, kẻ phù phép, kẻ thờ thần tượng, và phàm kẻ nào nói dối, phần của chúng nó ở trong hồ có lửa và diêm cháy bừng bừng: Đó là sự chết thứ hai” (Khải 21:8).

4. Đố Kinh Thánh: Ê-xê-chi-ên 44-48.

5. Thể loại: Thảo luận.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 18.01.2015.

Đề tài 1: Người chết còn có cơ hội được cứu. 

                        Đề tài 2: Không còn cơ hội được cứu cho người đã chết. 

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Trên cõi tạm nầy, một vấn đề thật khó hiểu là sự hưng thạnh của người ác và sự chịu khổ của người công bình. Một sự trái ngược vô cùng, một điều xem có vẻ quá bất công! Tuy nhiên, điểm quan trọng giữa hai hạng người nầy là chỗ ở cuối cùng của họ trong cõi đời đời.

Qua Lời Kinh Thánh, chúng ta biết được cảnh trạng tạm cư hay trạng thái trung gian của người ác sau khi chết để chờ đợi ngày phán xét. Như vậy sau khi chịu sự phán xét của Chúa, số phận đời đời của người ác là gì? Và có sự khác nhau thế nào so với tương lai vĩnh viễn của người công bình?

I. DẪN GIẢI.

A. ÁN PHẠT CỦA NGƯỜI ÁC.

1. Sự chết thứ hai.

Sự chết thứ hai là án phạt đã định cho người ác trong ngày phán xét sau cùng. Án phạt nầy cũng đồng nghĩa với sự hình phạt là hồ lửa đời đời (Khải 20:14). Tại sao gọi là sự chết thứ hai?

Sự chết nói chung là án phạt trên dòng dõi loài người phạm tội. Tuy nhiên án phạt nầy không tác dụng tức khắc cho con người như phải có ngay trong hiện tại, nhưng được thể hiện qua những giai đoạn. Trước hết, theo luật Đức Chúa Trời định cho mọi người phải trải qua sự chết thể xác để chờ đợi sự phán xét của Ngài (Hê-bơ-rơ 9:27). Đây có thể gọi là sự chết thứ nhất. Sau khi chết, người ác bị giam cầm nơi âm phủ cho đến ngày thẩm phán chung kết. Khi đó, họ được sống lại để ứng hầu trước tòa án trắng và lớn của Chúa. Án phạt cuối cùng của họ là sự chết đời đời trong nơi khổ hình mà Kinh Thánh gọi đó là sự chết thứ hai nghĩa là linh hồn vĩnh viễn bị xa cách với Đức Chúa Trời.

Án phạt về sự chết cũng được Kinh Thánh nói đến trong những từ gọi khác nhau như sau:

2. Hư mất hay bị hư mất (Phil 1:28; 3:19).

Từ nầy được Kinh Thánh Tân Ước thường dùng ám chỉ về sự vĩnh hình. Tình trạng hư mất của tội nhân có nghĩa là không đạt đến mục đích tối hậu của Đức Chúa Trời đã định cho mình. Cho nên trước mặt Chúa người ấy bị xem vô dụng, như bình gốm bị bể và bị người ta vứt bỏ mà thôi!

3. Diệt vong.

Chữ hư mất trong Giăng 3:16 có nghĩa là diệt vong, chỉ về sự xa cách đời đời khỏi sự hiện diện của Chúa (2Tês 1:9).

4. Tuyệt vọng, không có sự trông cậy (Êph 4:18).

Điều này chỉ về sự bị loại ra khỏi đặc ân và đặc quyền của Chúa.

5. Bị phân rẽ với Đấng Christ, không có sự sống của Ngài (1Giăng 5:12).

6. Bị quăng ra chốn tối tăm (Mat 8:12).

Chỉ người trong tình trạng bị loại ra ngoài ân điển cứu rỗi của Chúa, bị đặt vào một tình trạng vô cùng khốn khổ.

7. Bị đặt dưới cơn thạnh nộ của Chúa (Giăng 3:36).

Tóm lại án phạt trên người ác là:

(1) Án phạt có tính cách đời đời.

(2) Sự chết trong án phạt nầy không có nghĩa là sự tiêu tan và trở thành hư vô, nhưng người ác ở trong tình trạng vĩnh viễn bị phân cách với Đức Chúa Trời, bị loại ra khỏi Nước Đức Chúa Trời, bị mất phần ân điển cứu rỗi của Đấng Christ, và bị đặt dưới cơn thạnh nộ của Ngài.

(3) Không còn có tia hy vọng nào, không còn có cơ hội thứ hai cho người bị án phạt trong hồ lửa đời đời.

B. NƠI HÌNH PHẠT NGƯỜI ÁC.

Chỗ hình phạt người ác được Kinh Thánh nói đến trong hai từ sau:

1. Địa ngục (Mat 5:22,29-30,18:9).

Chữ “Địa ngục” được dịch từ chữ Hy-lạp là Ge-hen-na và tiếng Hy-bá-lai gọi là “trũng Hi-nôm”. Có chừng 13 lần Kinh Thánh Tân Ước đề cập đến chữ nầy. Theo nghĩa đen, Ge-hen-na hay trũng Hi-nôm, là một địa điểm cách thành Giê-ru-sa-lem chừng một dặm rưỡi về phía Đông Nam là nơi trước kia dân ngoại thiêu con cái họ trong lửa để cúng tế cho thần Mô-lóc, một điều vô cùng gớm ghiếc trước mặt Đức Chúa Trời (2Các 23:10). Sau nầy, người Do Thái dùng chỗ ấy làm nơi đổ rác, hoặc những vật ô uế thừa thải, có lửa cháy không dứt, và dần dần trở thành một hầm lửa. Vì vậy, chữ Ge-hen-na được Kinh Thánh dùng làm tượng trưng cho nơi đau khổ, rủa sả hình phạt người gian ác vĩnh viễn trong tương lai, nơi Chúa Giê-xu bày tỏ “sẽ có khóc lóc và nghiến răng” (Mat 24:51), mà chúng ta gọi là địa ngục.

2. Hồ lửa và diêm (Khải 20:10,14-15).

Hồ lửa và diêm hay gọi là “hồ cháy bằng lửa và lưu huỳnh chẳng hề tắt”. Lưu huỳnh là chất cháy tỏa ra năng lượng rất cao. Sự nóng bỏng nầy diễn tả được nơi đau đớn kinh khiếp hình phạt người ác!

Một câu hỏi có thể nêu lên ở đây là: Lửa đoán phạt người ác có phải là lửa hữu hình không? Với độ nóng của diêm sanh thì xác thịt nào có thể chịu nổi? Hơn nữa, sa-tan và các thiên sứ là thuộc thể linh, thì làm sao có thể bị đốt cháy trong hồ lửa diêm sanh?

Thật ra, lửa diêm sanh là hình bóng chỉ về thứ lửa vô hình. Trong cõi đời nầy, lửa hữu hình thích hợp vật chất thể nào thì trong cõi đời sau, lửa vô hình cũng thích ứng với thể linh như vậy. Vì thể chất tiêu tán nên lửa hữu hình cũng có khi tắt. Nhưng với linh thể bất diệt, thì ngọn lửa vô hình kia cũng sẽ chẳng hề tắt. Thực ra, điểm chính không phải là tính chất của lửa, nhưng lửa được Kinh Thánh nói đến để chúng ta có thể nhờ đó mà nhận biết được sự kinh khiếp của nơi đoán phạt người ác trong cõi đời đời.

Tóm lại, địa ngục hay hồ lửa là nơi vĩnh hình của người ác. Kinh Thánh không xác định địa điểm của nơi nầy, nhưng là một nơi có thực, nơi Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho người ác. Trong ngày phán xét cuối cùng, người ác được tạm giam trong âm phủ sẽ được chuyển vào nơi hỏa ngục là nơi vĩnh hình của chúng.

3. Những đối tượng chịu hình phạt nơi hồ lửa.

Người ác được nói đến trong Khải Huyền 21:8 có thể được liệt vào hạng người cứng lòng chẳng bao giờ ăn năn, và kết hợp với sa-tan không thôi chống nghịch Đức Chúa Trời, khinh lờn, phạm thượng đến Đức Thánh Linh (Rô 2:5; Mác 3:29), cho nên họ cũng chung số phận với sa-tan trong hồ lửa đời đời. Về những người lộng ngôn với Đức Thánh Linh, nhà thần đạo A.H. Strong luận như sau: “… là người chẳng dứt phạm tội, sự chẳng dứt phạm tội đó đã chuốc lấy cho họ sự đau đớn đời đời, đó là hình phạt đã định, tức là sự đoán phạt đời đời”.

C. CẢNH TRẠNG CỦA NGƯỜI ÁC TRONG NƠI VĨNH HÌNH.

Cảnh trạng người ác trong
hỏa ngục.- Sống chung với sa-tan và các ác quỉ.- Đời đời xa cách Đức Chúa Trời.

– Đau khổ khóc lóc và buồn thảm ngày đêm chẳng dứt.

– Bị rủa sả, không được dự phần trong ân điển cứu rỗi của Chúa.

– Tuyệt vọng không được giải cứu.

– Ở trong sự tối tăm và hổ thẹn.

Cảnh trạng người công bình nơi Thiên đàng.- Được sống với Chúa.

– Được giao thông với Ngài.

– Vui thỏa, phước hạnh mãi mãi trong sự hiện diện của Chúa.

– Được dự phần cơ nghiệp trong sự cứu rỗi của Chúa.

– Được sung mãn trong thế giới vô biên.

– Được mặc lấy thân thể vinh hiển sáng láng lạ lùng.

Bảng so sánh trên cho thấy hai bức ảnh tương phản giữa người công bình và người ác. Trong cõi đời nầy người công bình bị người ác áp bức. Nhưng trong cõi đời sau, người công bình được phước, và người ác bị đoán phạt tùy theo công việc họ làm. Đức Chúa Trời là Đấng công bình dường nào! Đây là điều an ủi người công bình đang chịu khổ, cũng như cảnh cáo người ác về sự đoán phạt của Chúa, nếu không ăn năn.

Vì vậy, sống trong cõi đời tạm, người công bình hãy bền lòng tin cậy Chúa, sống với tình yêu thương, đem ân điển cứu rỗi của Chúa cho mọi người để họ không bị sa vào hồ lửa đời đời.

Về sự vĩnh hình, với các thuyết như phục hồi, tiêu diệt, và cơ hội thứ hai là điều không thể chấp nhận được theo như lẽ thật Kinh Thánh chúng ta đã học. Vì những lẽ sau đây:

1. Hỏa ngục là nơi hình phạt người ác chớ không là nơi cải thiện người ác. Không phải Đức Chúa Trời không có tình yêu thương, vì Ngài đã ban cho loài người cơ hội để ăn năn (2Phi 3:9-10), và đây là lúc sự công nghĩa phải được thi hành.

2. Trong câu chuyện người giàu có và La-xa-rơ, chúng ta thấy rõ không có cơ hội thứ hai để được cứu sau khi qua đời (Lu 16:19-31).

3. Nếu người ác bị tuyệt diệt trong hỏa ngục, thì tại sao lửa hỏa ngục đời đời chẳng hề tắt? (Khải 20:10).

Như vậy, điểm nguy hại của các thuyết trên là khiến cho tín đồ bê trễ trong việc rao giảng Tin Lành; cũng như người ta thờ ơ với ơn cứu rỗi của Chúa trong khi còn có dịp tiện là “ngày nay”, vì nghĩ rằng “không sao”, còn có cơ hội thứ hai… Và cho dù có sa vào nơi khổ hình, thì cũng có ngày được phục hồi nhận cứu ân của Chúa?

Tóm lược.

1. Án phạt của người ác trong ngày phán xét cuối cùng là sự chết thứ hai, tức là sự chết đời đời.

2. Hỏa ngục là nơi vĩnh hình của người ác.

3. Trong cõi đời đời người ác sẽ cùng chung số phận với Sa-tan trong hỏa ngục.

4. Không có sự tận diệt, không có sự phục hồi, không có cơ hội thứ hai cho người bị hình phạt trong hỏa ngục, tỏ rằng sự công nghĩa của Đức Chúa Trời nghiêm trọng là dường nào!

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. a. Khải Huyền 20:14: Án phạt trên người ác trong ngày phán xét cuối cùng là gì? Và có nghĩa gì?

b. Sự hình phạt đời đời trên người ác còn được Kinh Thánh nói đến trong những từ nào khác và có nghĩa gì? (Ê-phê-sô 1:9; Phi-líp 3:19, 1Giăng 5:12, Ma-thi-ơ 8:12, 25:41,46, Giăng 3:36).

2. Xin tìm hiểu ý nghĩa những chữ sau đây:

a. Địa ngục: Ma-thi-ơ 5:22,29-30;18:9.

b. Hồ lửa: Khải Huyền 20:10,15.

3. Theo ý nghĩa trên cho chúng ta hiểu thế nào về nơi hình phạt người ác?

4. Khải Huyền 20:10,14-15; 21:8: Trong nơi đoán phạt nầy gồm có những ai? Tại sao họ phải chịu chung hình phạt với ma quỉ?

5. Xin tóm lược những điều nói về án phạt và nơi hình phạt. Xin tìm hiểu cảnh trạng của người ác thế nào trong nơi vĩnh hình nầy? (Xem thêm Khải 9:2,11; 20:10b).

6. So sánh cảnh trạng của người công bình và người ác trong nơi Thiên đàng và địa ngục. Sự khác nhau nầy cho chúng ta nhận biết trách nhiệm gì của mình trong cuộc sống trên cõi tạm nầy đối với chính mình, với người nhà mình và những người chung quanh chúng ta?

7. Bạn có thái độ nào đối với Chúa khi học biết về sự công nghĩa của Ngài?

8. Biết được sự vĩnh hình của người ác, bạn có nhận thức gì về trách nhiệm của mình trong cõi đời nầy đối với người chưa tin Chúa?

 

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 19.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 19.04.2015

in Thanh niên on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 19.04.2015.

1. Đề tài: VẤN ĐỀ TỰ HỦY HOẠI THÂN THỂ.

  1. Kinh Thánh: Thi Thiên 139:13-16; 1Cô-rinh-tô 3:16-17.

3. Câu gốc: “…Chẳng có người nào trong chúng ta vì chính mình mà sống, cũng chẳng có người nào trong chúng ta vì chính mình mà chết; vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, và nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa” (Rô 14:7-8a).

4. Đố Kinh Thánh: Ê-xê-chi-ên 39-43.

5. Thể loại: Giải đáp thắc mắc.

* CHỈ DẪN: Giải đáp thắc mắc.

1. Thông báo đề tài “Vấn đề tự hủy hoại thân thể” đến tất cả ban viên và thu thập những thắc mắc gởi cho ủy viên linh vụ.

2. Ủy viên linh vụ nhờ người có kinh nghiệm thuộc linh và có kiến thức về xã hội tốt để giải đáp thắc mắc.

3. Các câu hỏi phải sắp xếp theo đúng bố cục để người nghe dễ dàng hiểu được nội dung của chủ đề. Sau mỗi câu trả lời, cần dành ít phút để ban viên thảo luận hoặc hỏi thêm.

4. Ban hướng dẫn cần kiên nhẫn tìm hiểu ban viên của mình và nêu lên những thắc mắc thay họ, vì có một số câu hỏi mà họ không dám hỏi. Ngoài ra, ban hướng dẫn cũng nên soạn trước một số câu hỏi dựa theo nội dung của bài học, phòng khi có quá ít câu hỏi, bạn cũng có thể hoàn tất mục tiêu được đề ra cho buổi nhóm.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Theo cuộc thăm dò của một tổ chức Y tế thế giới, ước lượng mỗi ngày trên thế giới có khoảng 1.000 người tự sát. Riêng tại Hoa Kỳ hằng năm có hơn 25.000 người tự sát. Con số này hiện nay đang gia tăng, nhất là trong vòng giới trẻ từ 15 đến 24 tuổi. Tỷ lệ tự sát vì cớ thất vọng ở lứa tuổi thanh thiếu niên mỗi ngày chiếm 13/5.000 người. Tỷ số người tự sát tăng lên gấp đôi nhiều hơn mười năm về trước và gấp ba so với hai mươi năm về trước.

Tại sao số người tự sát nhảy vọt giữa vòng tuổi thanh thiếu niên? Một chuyên viên y tế và tâm lý trả lời rằng: Vì chúng không tin vào tương lai.

Sự tự sát chẳng những xảy ra trong vòng người không tin Chúa, nhưng đôi lúc cũng có trong cộng đồng Hội Thánh Chúa. Vì vậy, chúng ta cần xem xét để tìm hiểu vấn đề thế nào theo sự soi dẫn của Lời Kinh Thánh?

I. DẪN GIẢI.

A. NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ TỰ SÁT.

Có nhiều lý thuyết giải thích nguyên nhân tự sát. Vì sự tự sát có những trường hợp khác nhau, nên nguyên nhân cũng cần được nhìn trong nhiều khía cạnh.

1. Khía cạnh xã hội: Vì bối cảnh văn hóa và xã hội.

Theo thuyết Durkheim cho rằng tỷ số người tự sát tùy thuộc vào bối cảnh của nền văn hóa và xã hội. Nhiều sự kiện cho thấy tỷ số người tự sát ở các nước không liên kết cao hơn ở các nước liên kết. Ở các nước như Hà Lan, Ái Nhĩ Lan, Na Uy, Tây Ban Nha, mức độ người tự sát thấp hơn ở các nước Thụy Sĩ và Đan Mạch.

2. Khía cạnh tâm lý: Vì khủng hoảng tinh thần.

Theo các nhà tâm lý học và tâm bệnh học cho rằng, sự tự sát có thể xảy ra khi người ta cảm thấy bị cô thế, thất bại cá nhân, tự ái bị tổn thương, tự ti mặc cảm, mất tự tin, mất hy vọng, chán nản, ghét đời, ghét chính mình. Như A-bi-mê-léc tự sát vì sợ bị sỉ nhục (Các Quan Xét 9:50-54), vua Sau-lơ tự sát vì cô thế tuyệt vọng (1Sa 31:4-6), A-hi-tô-phe tự sát vì tự ái bị tổn thương (2Sa 17:23). Cũng có trường hợp tự sát để bày tỏ lòng thành, như người đầy tớ vua Sau-lơ tự sát vì thấy chủ của mình chết (1Sa 31:5).

3. Khía cạnh tâm linh: Vì mặc cảm tội lỗi.

Tự sát có thể xảy ra khi không tìm được sự tha thứ, khi lương tâm bị giày vò cắn rứt không có sự bình an. Như Xim-ri tự thiêu vì mặc cảm tội lỗi chống nghịch Chúa (1Các Vua 16:18-19). Giu-đa Ích-ca-ri-ốt treo cổ chết vì mặc cảm phản Chúa (Mat 27:3-5).

Theo quyển “Theory of Suicide”, tác giả Farber cố gắng dung hòa sự tương quan giữa yếu tố cá nhân và xã hội. Ông cho rằng hoạt động cá nhân có tương quan đến hy vọng. Hy vọng có thể định nghĩa như là một ước mơ, tin tưởng điều ta mong mỏi sẽ trở thành sự thật. Bác sĩ Calvin Frederick cũng nhận rằng nguyên nhân chính khiến giới trẻ tự sát hiện nay tại Hoa Kỳ có thể gồm trong ba chữ KHÔNG: Không may mắn, không được giúp đỡ, không hy vọng. Người trẻ tuổi không tin tưởng ở tương lai. Đây là tình trạng của người sống trong quyền lực của tối tăm, không có Đức Chúa Trời hằng sống (Êph 2:1-12).

B. TỰ SÁT VÀ DẠY DỖ CỦA KINH THÁNH.

Chúng ta phân biệt ý nghĩa của chữ tự sát và hiến thân. Tự sát có nghĩa tự hủy hoại thân mình vì mục đích ích kỷ cá nhân. Còn hiến thân nghĩa là tự nguyện hy sinh mạng sống của mình cho một lý tưởng, một chính nghĩa hay một mục đích cao thượng vô kỷ.

Theo ý nghĩa trên và theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, tự sát là điều không hợp lẽ đối với niềm tin của Cơ Đốc nhân, vì những lý do sau đây:

1. Sự sống, sự chết của con người thuộc quyền tể trị của Đức Chúa Trời.

Con người ra đời với số ngày đã được Đức Chúa Trời định. Và Chúa có thời điểm cho mỗi đời sống con người theo chương trình tốt lành của Ngài (Gióp 14:5; Thi 139:13-16).

2. Xúc phạm sự sống con người là xúc phạm đến Đức Chúa Trời.

Trong Xuất Ê-díp-tô Ký 20:13, Đức Chúa Trời ban điều răn cho dân Y-sơ-ra-ên ngăn cấm sự giết người, vì con người được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời (Sáng 9:6). Song song với điều răn, Đức Chúa Trời cũng có mạng lịnh cho dân sự hãy yêu thương người lân cận, cũng như lời khuyên hãy chăm sóc chính thân mình (Lê-vi Ký 19:18; Êph 5:23-29,33). Như vậy, có nghĩa chúng ta không được phép cất mạng sống kẻ khác, cũng như không nên hủy hoại chính thân mình.

3. Sự sống con người là quà tặng quý báu từ Đức Chúa Trời.

Chúng ta có trách nhiệm gìn giữ và sống vì cớ danh Ngài (Rô 14:6-7).

4. Thân thể chúng ta là đền thờ của Đức Thánh Linh ngự trị.

Sự phá hủy thân thể là phá hủy đền thờ của Chúa. Thân thể chúng ta cần được gìn giữ khỏi sự ô uế của thế gian, cần được chăm sóc để trở thành đồ dùng của sự công bình, làm sáng danh Đức Chúa Trời (1Côr 3:16-17; 6:19-20).

5. Đức Chúa Trời chăm sóc và nâng đỡ kẻ ngã lòng.

Khi Môi-se ngã lòng vì mệt mỏi với gánh nặng chăn dắt dân Y-sơ-ra-ên, ông cầu xin Chúa cất mạng sống mình, nhưng Đức Chúa Trời chuẩn bị có những người giúp đỡ Môi-se. Khi tiên tri Ê-li bị hoàng hậu Giê-sa-bên hăm dọa và sợ hãi chạy trốn trong đồng vắng, ông cầu xin Chúa cất mạng sống mình, nhưng Đức Chúa Trời sai thiên sứ đem bánh và nước bổ sức lại cho Ê-li, và cho ông một sứ mạng mới (1Các Vua 19:1-8). Khi tiên tri Giô-na bất mãn ngã lòng vì thấy Đức Chúa Trời không hình phạt dân thành Ni-ni-ve, ông cầu xin Chúa cất lấy mạng sống của mình, nhưng Đức Chúa Trời khiến dây dưa mọc lên che chở cho Giô-na khỏi bị nắng nóng và dạy cho ông bài học về lòng thương xót của Ngài (Giô-na 4:1-6).

Tóm lại, những điểm trên cho chúng ta thấy rõ ý chỉ của Đức Chúa Trời là Ngài muốn chúng ta sống gìn giữ và quý trọng sự sống Ngài ban cho, theo thời điểm Ngài đã định để tôn vinh Đấng tạo hóa, làm thành mục đích tốt đẹp của Ngài đối với đời sống chúng ta. Trái lại, ma quỉ thường xui khiến con người hủy hoại thân mình (Mác 5:1-5).

C. ĐỀ PHÒNG SỰ TỰ SÁT.

Sự tự sát có những trường hợp khác nhau, tuy nhiên nhìn qua các nguyên nhân của sự tự sát, có thể nói điểm chính khiến con người tự sát là vì không có hy vọng, họ tuyệt vọng đến mức tột cùng. Ngoại trừ người cố ý tự sát, thì khó có cách hữu hiệu để đề phòng. Nhưng nói chung người tự sát trong giờ phút cuối cùng vẫn còn muốn được giúp đỡ. Vì vậy trong sự đề phòng tự sát, chúng ta cần nói đến hai khía cạnh: Chủ quan (về phía người tự sát) và khách quan (về phía người giúp đỡ).

1. Chủ quan (về phía người tự sát): Làm thế nào tránh khỏi sự cám dỗ tự sát. Trước sự cám dỗ tự sát, chúng ta cần nhận biết những điều gì? Và có hành động gì?

a. Tự sát không phải là cách khôn ngoan để giải quyết vấn đề. Đó chỉ là sự thất bại, một quyết định dại dột (Gióp 2:8-10).

b. Tự sát là sự xúi giục của ma quỉ, chớ không phải là ý chỉ của Đức Chúa Trời. Vậy hãy nhờ Chúa xua đuổi ý nghĩ tự sát khỏi tâm trí chúng ta.

c. Vẫn còn hy vọng, vẫn còn có lối thoát: Đức Chúa Trời chúng ta là Đức Chúa Trời của hy vọng (Rô 15:13). Hy vọng của Cơ đốc nhân khác hơn “hy vọng chết” của người mượn cái chết làm lối thoát như sự diễn tả của Nietzsche: “Ý nghĩ tự sát đôi lúc là sự an ủi lớn và bởi cách ấy, ta có thể vượt qua nhiều giày vò của một đêm ác mộng!” Nhưng hy vọng của người Cơ Đốc là hy vọng sống, vì được đặt trong Chúa Giê-xu Christ, Đấng Sống bất biến. Niềm hy vọng vững chắc này sẽ đưa chúng ta đến chân trời tươi mới, đến lối thoát vượt qua những khủng hoảng đen tối của cuộc đời.

d. Vẫn còn có lời hứa thành tín: Đức Chúa Trời hứa ở cùng nâng đỡ người trong cơn nguy biến, ban cho họ sự bình an, vui mừng và giải cứu họ (Ê-sai 43:1-2; Giăng 14:18-27). Vậy chúng ta hãy để thì giờ đọc Kinh Thánh, tìm kiếm Chúa và nương cậy sự thành tín của Ngài.

e. Vẫn còn có nơi nương tựa: Hãy biết rằng Chúa Giê-xu Christ là nơi an nghỉ của chúng ta. Chúa kêu gọi kẻ mệt mỏi đến cùng Ngài, trao mọi gánh nặng cho Ngài, vì Ngài chăm sóc chúng ta (Mat 11:28; 1Phi 5:8). Vậy chúng ta hãy đặt hết lòng tin cậy Chúa, cầu nguyện tìm kiếm sự giải cứu của Ngài trong giờ phút nguy nan đường cùng của đời sống.

2. Khách quan (phía người giúp đỡ).

Có một số dấu hiệu để nhận biết người nào thực sự có ý định tự sát như: (1) Người đó nói cho người bạn thân về ý định tự sát, không muốn sống nữa. (2) Người đó ở trong tình trạng khủng hoảng tinh thần ở mức độ trầm trọng. (3) Người đó chuẩn bị viết di chúc, soạn giấy tờ bảo hiểm… và bắt đầu cách ly với bạn bè.

Cho nên chúng ta cần có sự nhạy cảm theo dõi từng bước, để có thể nhờ ơn Chúa khuyên giải, hoặc nhờ người có chuyên môn, hoặc có những hành động giúp đỡ kịp thời lúc khẩn cấp.

Với vấn đề tự sát, người Cơ đốc có đáp ứng thế nào?

Năm 1906 có một tổ chức đầu tiên mang tên “Save a Life League” (Liên Đoàn Cứu Sự Sống) tại thành phố Nữu Ước do Harry Warren, một Mục sư của hội Báp-tít thành lập, với mục đích giúp đỡ người trong tình trạng tuyệt vọng, tránh khỏi tự sát. Sau đó có những tổ chức tương tự như tổ chức mang tên “The Samaritans” (Người Sa-ma-ri) vào năm 1953, do Chad Urah, linh mục người Anh, có chương trình cũng giống tổ chức trên. Đến năm 1966, tổ chức này có 75 chi nhánh ở khắp nước Anh. Hiện nay, với tỷ số người tự sát càng gia tăng, chúng ta có đáp ứng gì? Chẳng những chúng ta có trách nhiệm chăm sóc người anh em trong Chúa lúc ngã lòng, nhưng chúng ta cũng nên lưu tâm đến những người tuyệt vọng bên ngoài Hội Thánh, nhạy cảm với nhu cầu của họ, nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh đến với họ kịp lúc, hầu giúp họ tìm được niềm hy vọng và sự giải cứu trong Đấng Christ.

3. Vài câu hỏi về sự tự sát.

a. Người tin Chúa tự sát, đi Thiên đàng hay địa ngục? Đây là câu hỏi khó có câu trả lời xác định, vì những lý do sau đây:

– Kinh Thánh có ghi nhận một số sự kiện tự sát nhưng không có lời trực tiếp lên án sự tự sát. Tuy nhiên Kinh Thánh cũng bày tỏ tự sát là điều trái với ý chỉ của Đức Chúa Trời đối với con người thọ tạo.

– Đức Chúa Trời là Đấng thương xót người trong lúc ngã lòng. Ngài thấu rõ lòng người trong mọi hoàn cảnh. Chúng ta không lạ gì người tự sát vì mặc cảm tội lỗi như Giu-đa. Nhưng chúng ta cũng thắc mắc khó hiểu đôi lúc thấy có người rất tin kính Chúa lại tự chấm dứt cuộc đời cách bi thảm như W. Cowper, nhà sáng tác nhạc truyền giảng Tin Lành với nhiều bài hát thật rung cảm bày tỏ tình yêu thương và ơn tha thứ của Chúa. Chúng ta tin rằng Chúa biết rõ mọi suy nghĩ và hành động của mỗi người, và Ngài đoán xét theo sự công bình, hoặc theo lòng yêu thương tha thứ của Ngài. Đây là điều thuộc thẩm quyền của Chúa. Vì vậy chúng ta chẳng nên định tội hay lên án kẻ tự sát, nhưng cầu nguyện giao phó họ trong bàn tay thương xót của Chúa. Phần của chúng ta là làm thế nào để giúp người tránh khỏi sự tự sát.

b. Sự tự sát vì bệnh tật đau đớn kéo dài là điều hợp lẽ không?

Chúng ta cảm thông nỗi đau khổ của bệnh tật. Chúng ta biết Đức Chúa Trời yêu thương con người trong đau khổ. Ngài không những ban Con Ngài đến thế gian để mang lấy tội lỗi và bệnh tật của con người, nhưng Ngài cũng dự bị cho con người những phương thuốc làm giảm cơn đau và những người thân chăm sóc, giúp đỡ lúc cần. Vậy trong hoàn cảnh đau đớn bệnh tật, tốt hơn chúng ta nên kiên nhẫn, chờ đợi đến thời điểm của Chúa, để mục đích tốt lành của Ngài được hoàn thành trên đời sống chúng ta.

Tóm lược.

1. Sự tự sát có thể đến từ những nguyên nhân như áp lực của xã hội, sự khủng hoảng trong tinh thần và mặc cảm tội lỗi trong tâm linh. Và điểm chính là không còn có hy vọng.

2. Sự tự sát là điều trái với ý chỉ của Đức Chúa Trời, xúc phạm đến Đức Chúa Trời và quyền tể trị của Ngài, vì không quý trọng, chăm sóc và gìn giữ sự sống như món quà quý báu của Chúa ban cho để làm sáng danh Ngài.

3. Quyết định dứt bỏ ý nghĩ tự sát ra khỏi tâm trí. Tìm kiếm Đức Chúa Trời của hy vọng và bình an, đọc Kinh Thánh nắm chắc lời Chúa hứa, hết lòng tin cậy nương náu mình trong Chúa Giê-xu, trao gánh nặng của mình cho Ngài. Đó là những cách tránh sự cám dỗ tự sát.

4. Chẳng những chúng ta đề phòng tự sát, nhưng còn có trách nhiệm giúp đỡ, khuyên giải người có ý định tự sát.

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Xin đọc Kinh Thánh và tìm hiểu tại sao những người này tự sát: Các Quan Xét 9:50-54; 1Sa-mu-ên 31:4-6; 17:23; 2Các Vua 16:18-19; Ma-thi-ơ 27:3-5.

2. Những lý do nào khiến người ta tự sát?

3. Xin đọc những câu Kinh Thánh sau đây và tìm hiểu:

a. Xuất 20:13; Sáng Thế Ký 9:6: Đức Chúa Trời có điều răn gì cho dân Y-sơ-ra-ên? Tại sao?

b. Gióp 14:5; Thi Thiên 139:13-16: Đời sống của mỗi cá nhân thuộc thẩm quyền của ai?

c. 1Cô-rinh-tô 3:16-17; 6:19-20; Ê-phê-sô 5:23-29,33: Chúng ta có trách nhiệm thế nào đối với thân thể mình? Tại sao?

d. Dân Số Ký 11:10-17; 1Các Vua 19:1-8; Giô-na 4:1-6: Tiên tri Môi-se, Ê-li và Giô-na xin Đức Chúa Trời điều gì? Tại sao họ xin như vậy? Chúa đáp ứng thế nào với điều họ xin?

4. Sự tự sát là điều hợp lẽ với người Cơ Đốc không? Xin trình bày.

5. Xin đọc những câu Kinh Thánh sau và tìm hiểu:

a. Gióp 2:8-10: Tự sát có phải là cách khôn ngoan để giải quyết vấn đề không?

b. Rô-ma 15:13: Trong Đức Chúa Trời chúng ta tìm được điều gì?

c. Rô-ma 14:7-8: Mục đích của đời sống chúng ta trên đất là gì?

d. Ê-sai 43:1-2; Giăng 14:18-27; 1Cô-rinh-tô 10:13: Chúa có lời hứa gì cho con cái Ngài?

e. Phi-líp 4:4-6; 1Phi-e-rơ 5:8: Chúng ta nên làm gì khi gặp khó khăn?

6. Điểm quan trọng nào để đề phòng sự tự sát có thể xảy ra?

7. Câu hỏi thảo luận:

– Người tin Chúa tự sát thì đi Thiên đàng hay địa ngục?

– Sự tự sát vì cớ đau đớn của bệnh tật là điều hợp lẽ không?

– Dấu hiệu nào biết người có quyết định tự sát? Làm thế nào để giúp họ trong trường hợp ấy?

8. Xin cho biết:

– Khi gặp chán nản hay trong hoạn nạn bạn thường nghĩ gì?

– Bạn quý trọng và gìn giữ sự sống Chúa ban cho như thế nào?

– Bạn làm gì giúp người đang ở trong sự chán nản và không muốn sống nữa?

 

 

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 12.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 12.04.2015

in Thanh niên on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 12.04.2015.

1. Đề tài: NƠI Ở ĐỜI ĐỜI CỦA NGƯỜI CÔNG BÌNH.

2. Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 25:34; Giăng 14:2-3.

3. Câu gốc: “Hỡi các ngươi được Cha Ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất” (Mat 25:34b).

4. Đố Kinh Thánh: Giê-rê-mi 41-45.

5. Thể loại: Trò chơi lớn.

* CHỈ DẪN: Xem chỉ dẫn Chúa nhật 25.01.2015.

* Diễn tiến trò chơi.

             a. Mở đầu.

                             BHD cho các nhóm tranh đua với nhau. Nhóm xếp hàng dọc trước BHD. Khi các nhóm đã ổn định, người hướng dẫn giới thiệu chủ đề: Nơi ở đời đời của người công bình.

Thưa các bạn! Theo sự bày tỏ của Kinh Thánh, người tin Chúa sau khi chết, linh hồn được sống với Ngài trong Ba-ra-đi để chờ đợi sự cứu chuộc thân thể. Khi Đấng Christ tái lâm, người tin Chúa được sống lại và vào nơi vinh hiển của mình. Để hiểu biết thêm về nơi ở và đời sống phước hạnh của người tin, mời các bạn cùng tham gia trò chơi hôm nay.

             b. Xuất phát.

Tất cả các nhóm phải tập trung tại điểm xuất phát. Ban tổ chức phổ biến thể lệ cuộc thi và mỗi nhóm cử ra một người, đại diện nhóm để “Vượt chướng ngại vật”.

(“Chướng ngại vật” là những câu hỏi do ban tổ chức soạn ra như: Vì sao con người phải chết? Sau khi chết, con người sẽ đi về đâu?…)

Đại diện của nhóm nào vượt qua được “chướng ngại vật” mới được nhận mật thư.

* Mật thư 1: TIMF CAAU HOIR DWIS QUYEENR KINH THANHS TAIJ TOAF GIANGR.

± Chìa khóa: Chữ điện tín.

Trạm 1.

± Yêu cầu:

– Tập trung nhóm thành hàng dọc, báo cáo số người trong nhóm.

– Phát câu hỏi viết sẵn ra giấy, cho nhóm thảo luận và trả lời câu hỏi.

1. Đọc Rô-ma 2:7; 6:23; Ma-thi-ơ 25:46 cho biết trong sự phán xét của Chúa, người công bình nhận được ân phúc gì?

                        2. Đánh X vào câu đúng nhất.

Sự sống đời đời là:

                                                ¨ Sự sống từ Chúa.   ¨ Sự sống trong Chúa.

            ¨ Sự sống với Chúa.             ¨ Tất cả các câu trên.

* Mật thư 2:

± Chìa khóa:

T

I M N G U
G C H U T O
N A N G H I
A Đ N E I C
B G N A M O


Trạm 2.

± Yêu cầu:

– Tập trung nhóm thành hàng dọc, báo cáo số người trong nhóm.

– Phát câu hỏi viết sẵn ra giấy, cho nhóm thảo luận và trả lời câu hỏi.

(1) Đánh X vào câu đúng nhất.

Nơi ở đời đời của người công bình là:

¨ Ba-ra-đi. ¨ Thiên đàng. ¨ Một nơi khác.

(2) Trả lời câu hỏi.

   – Theo Kinh Thánh, Thiên đàng còn có những tên gọi nào?                            

* Mật thư 3:

T P I H M U D O O C
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
N H G A C N H H U
11 12 13 14 15 16 17 18 19

± Chìa khóa: Trước lẻ, sau chẵn. 

Trạm 3.

± Yêu cầu:

– Tập trung nhóm thành hàng dọc, báo cáo số người trong nhóm.

– Phát câu hỏi viết sẵn ra giấy, cho nhóm thảo luận và trả lời câu hỏi.

Đọc Ma-thi-ơ 25:46; 3:11,12; 22:3-4; Rô-ma 8:17, kể ra những phước hạnh của người công bình trong nơi ở đời đời.

3. Kết thúc.

                                Thưa các bạn!

Chúng ta biết Chúa ban sự sống đời đời cho người công bình. Tại thiên đàng, người công bình được giao thông với Chúa mặt đối mặt, được nhận biết đầy trọn, được vui vẻ và thỏa mãn, được thoát khỏi quyền lực của tội lỗi, được hưởng cơ nghiệp trong Đấng Christ, được hầu việc và thờ phượng Chúa…

                                Nguyện mỗi người chúng ta có sự chuẩn bị trong đời nầy để hưởng trọn niềm vui sống với Ngài trên Thiên đàng. 

                                – Cầu nguyện theo sự dạy dỗ.

– Công bố kết quả và phát thưởng.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Luận về vấn đề sống chết của con người, theo sự bày tỏ của Kinh Thánh thì loài người trên trần gian nầy sẽ đi vào ba giai đoạn. Thứ nhất, phải trải qua sự chết. Thứ hai, sau khi chết linh hồn người tin được sống với Ngài trong Ba-ra-đi gọi là nơi tạm cư để chờ đợi sự cứu chuộc thân thể, còn linh hồn người ác bị giam giữ nơi Âm phủ để chờ đợi sự phán xét. Và giai đoạn thứ ba, với sự tái lâm của Đấng Christ, người tin được sống lại và vào nơi vĩnh viễn của mình, còn người chẳng tin cũng được sống lại để chịu sự phán xét và đi vào nơi hình phạt đời đời của mình. Trong bài học nầy chúng ta tìm xem người công bình sẽ nhận được sự ban thưởng gì? Đâu là nơi ở của người công bình? Và đời sống nơi đó sẽ như thế nào?

I. DẪN GIẢI.

A. PHƯỚC HẠNH CỦA NGƯỜI CÔNG BÌNH.

Trong ngày phán xét cuối cùng, người ác lãnh án phạt là sự chết đời đời. Trái lại người công bình nhận lãnh phước hạnh là sự sống đời đời.

1. Ý nghĩa của chữ “đời đời”.

“Đời đời” theo nguyên văn Hy-lạp là Aion (danh từ); hoặc Aaionios (tính từ). Trong Kinh Thánh Tân Ước, chữ đời đời được dùng trong hai hình thức danh từ và tính từ. Về cách dùng nầy, nhà thần đạo A. A Hodge luận như sau:

“Ngoài hai chữ Hy-lạp aion và aionios, chẳng có chữ nào sáng tỏ hơn để diễn tả ý niệm vĩnh cửu vô cùng, vô tận, vô biên. Mặc dầu trong Kinh Thánh Tân Ước có vài chữ đời đời được dùng để chỉ thời gian hữu hạn, nhưng hầu hết những chỗ khác, chữ đời đời đều được ám chỉ thời gian vô hạn. Trong ý nghĩa nầy, chữ đời đời được dùng để chỉ về sự vĩnh hằng của Đức Chúa Trời Ba Ngôi; chỉ về tương lai phước hạnh vĩnh viễn của người công bình cũng như tương lai vĩnh hình của người ác(1Tim 1:17; Khải 1:18; Hê-bơ-rơ 9:14; Giăng 6:57; Rô 2:7; Mat 25:46).

Như thế, theo cách diễn giải trên thì nỗi khổ hình đời đời của người ác, cũng như cảnh phước lạc đời đời của người công bình sẽ mãi mãi lâu dài bằng với sự vĩnh hằng bất biến của Đức Chúa Trời. Hiểu được nghĩa của chữ đời đời, chúng ta cảm nhận phước hạnh  tương lai dành cho người công bình lớn biết bao, đồng thời cũng cảm thấy án phạt trên người ác trong tương lai thật là kinh khiếp dường nào!

2. Ý nghĩa của “sự sống đời đời”.

Sự sống đời đời gọi là vĩnh sanh bao gồm những ý nghĩa như sau:

(1) Sự sống bất diệt, nghĩa là sự sống hằng còn mãi mãi, sự sống chẳng hề chấm dứt (Giăng 3:16; Mat 19:16; 25:46).

(2) Sự sống thật hay sự sống chân thật: Chỉ về sự sống đến từ Đấng Christ, Ngài là nguồn sống vô tận, và người tin nhận Ngài sẽ nhận được sự sống ấy (Giăng 14:6; 3:36).

(3) Sự cứu rỗi: Sự cứu rỗi đồng nghĩa với sự sống đời đời, vì người được cứu, tức là được nhận lấy sự sống của Chúa (Mác 16:16; Rô 5:10).

(4) Sự sống đời đời bắt đầu ngay trong hiện tại, tức lúc còn ở trong đời nầy: Khi người thật lòng tin Chúa, được tái sanh, thì nhận được sự sống đời đời. Và từ đó sự sống của Đấng Christ cứ mãi tuôn tràn và người bước vào sự sống bất tận trong cõi đời sau: Sự sống đời đời trong một thân thể được biến hóa vinh hiển không hư nát!

(5) Sự sống đời đời là lẽ trông cậy lớn của người tin Chúa, là phước hạnh mà họ được tận hưởng nơi Ngài trong tương lai (Giăng 17:3).

(6) Sự sống đời đời là nhận biết Đức Chúa Trời là Chân Thần duy nhất, và Chúa Giê-xu là Đấng Cha sai đến (Giăng 17:3).

Tóm lại, sự sống đời đời là sự sống từ Chúa, sự sống trong Chúa, và sự sống với Chúa, là sự sống chỉ có ở trong người được tái sinh, được giải cứu khỏi hậu quả của tội lỗi, được xưng nghĩa bởi huyết Đấng Christ, được thánh hóa bởi Đức Thánh Linh, được sự giao thông với Đức Chúa Trời, được ở trong sự hiện diện của Ngài mãi mãi, và tận hưởng phước hạnh bất tận của Ngài.

B. NƠI Ở CỦA NGƯỜI CÔNG BÌNH.

Đâu là nơi ở đời đời của người công bình trong tương lai?

Trong Ma-thi-ơ 25:34, Thiên đàng được Chúa Giê-xu nói đến, là nơi ở vĩnh viễn dành cho người công bình và cũng là nơi Ngài phán hứa với các môn đồ (Giăng 14:3).

Thiên đàng là gì? Thiên đàng phải là Ba-ra-đi không? Trong Kinh Thánh Tân Ước chữ “Ba-ra-đi” được dùng ba lần (Lu 23:43; 2Côr 12:4; Khải 2:7). Chữ nầy theo nguyên văn Hy-lạp là Paradeisos, nghĩa đen là công viên, trong tiếng Hy-bá-lai là Părdès, có nghĩa là khu rừng. Theo nghĩa bóng Ba-ra-đi gọi là Lạc viên ám chỉ về cảnh vườn Ê-đen, nơi của sự sống đời đời, nơi có sự hiện diện của Chúa. Trước khi Chúa Giê-xu về trời, Ba-ra-đi được đặt ở phía trên của âm phủ là nơi ở trung gian của người công bình sau khi qua đời. Nhưng khi Chúa thăng thiên, Ba-ra-đi được cất lên trời cùng với các thánh của thời Cựu Ước (Êph 4:8), là nơi những người tin Chúa được tiếp về sau khi qua đời để chờ đợi sự giải cứu của thân thể.

Khi Chúa Giê-xu tái lâm, người chết trong Chúa được sống lại và đồng trị với Ngài trong Nước ngàn năm bình an. Sau thời đại Thiên hi niên, người công bình sẽ được vào nơi ở vĩnh sanh, từ chốn Ba-ra-đi lên Thiên đàng.

Chữ Thiên đàng được dùng cho ba nghĩa. Thiên đàng chỉ về bầu trời được bao bọc bởi bầu khí quyển, nơi có sinh vật sống động. Người Do Thái thường gọi đó là từng trời thứ nhất. Nghĩa thứ hai, Thiên đàng chỉ về các tinh tú trong khoảng không gian ngoài tầng khí quyển mà người Do Thái gọi đó là từng trời thứ hai. Và chữ “từng trời thứ ba” được Phao-lô dùng trong 2Côr 12:2, để phân biệt với hai từng trời trong vũ trụ hữu hình. Để chỉ về nơi vô hình vượt quá sự hiểu biết của con người, nơi ngự trị của Ba Ngôi Đức Chúa Trời, nơi huyền nhiệm vô cùng, nơi hiện hữu của thế giới thiện mỹ thần linh.

Thiên đàng cũng được Chúa Giê-xu gọi là “Nhà Cha Ta” (Giăng 14:2), là nơi Chúa sắm sẵn cho người công bình cư trú đời đời (Giăng 14:3; Mat 25:34): “Hãy đến mà nhận lấy nước Thiên đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất”. Thiên đàng, nơi sắm sẵn cho người công bình còn được gọi là Thiên thành, hay thành Giê-ru-sa-lem mới trên trời, hay thành thánh, thành của Đức Chúa Trời. Theo sự bày tỏ của Kinh Thánh, sau thời đại Thiên hi niên, là kỳ cuối cùng của muôn vật, trời đất sẽ bị thiêu đốt trong lửa và trời mới đất mới sẽ được tái tạo. Khi ấy, Giê-ru-sa-lem mới sẽ từ trời ngự xuống, là quê hương đời đời cho người công bình trong nước vĩnh viễn của Đức Chúa Trời (2Phi 3:13; Khải 21:1-8).

C. PHƯỚC HẠNH TRONG NƠI VĨNH SANH.

Trong nơi vĩnh sanh, đời sống của người công bình là đời sống của phước hạnh. Như được mô tả trong những điểm sau đây:

1. Phước hạnh của đời sống được ở trong Nhà Cha là nơi vinh hiển, rực rỡ vô cùng (Khải 21:1-3,25).

2. Phước hạnh của đời sống được ở với Chúa: Được thấy mặt Chúa, và giao thông với Ngài (Mat 5:8; 1Côr 13:12).

3. Phước hạnh của đời sống được yên nghỉ: Vì đã được giải cứu khỏi sự rủa sả của tội lỗi, không còn có sự lao khổ “làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn” (Sáng 3:18-19).

4. Phước hạnh của đời sống vui vẻ và sung mãn: Không còn có giọt lệ, không còn có sự khao khát vì Chúa là nguồn Nước sống làm thỏa mãn mọi ước vọng của tâm hồn (Khải 21:4-6).

5. Phước hạnh của đời sống thánh khiết: Trong cảnh trời mới đất mới hoàn toàn vắng bóng người ác vì là nơi ở của người công bình, nơi ở của niềm vui trong sự thiện lành trong sạch (Khải 21:27).

6. Phước hạnh của đời sống vinh hiển: Được vinh hiển trong nơi ở, trong sự hiện diện vinh hiển của Chúa, trong thân thể biến hóa, trong mão miện sáng chói Ngài ban thưởng (Khải 2:10; Côl 3:4; 2Côr 4:17).

7. Phước hạnh của đời sống được thông biết Chúa đầy trọn, là sự hiểu biết quí hơn hết (Phil 3:8; 2Phi 3:18; 1Côr 13:12).

8. Phước hạnh của đời sống phục vụ và tôn thờ Chúa. Đây là đặc ân của người được cứu chuộc (Khải 22:3; 7:9-11).

9. Phước hạnh của đời sống được thừa hưởng cơ nghiệp vinh hiển của Chúa. Được đồng thừa hưởng mọi sự giàu có vô hạn trong Đấng Christ (Rô 8:17; Khải 21:7).

10. Phước hạnh được sống trong cõi đời đời: Có người nghĩ, người công bình cứ mãi mãi ca ngợi Chúa thì chắc chán lắm? Đó chỉ là sự suy nghĩ theo lý trí con người trong thế giới hữu hạn. Trong cõi vũ trụ vật chất mà Đức Chúa Trời đã dựng nên, con người vẫn mãi hứng thú khám phá những điều kỳ diệu, huống chi trong cõi vô hình, vô hạn, Đức Chúa Trời không sắm sẵn những điều vô cùng huyền diệu cho chúng ta khám phá sao? Người trong cõi vĩnh sanh với thân thể biến hóa, không còn bị chi phối bởi công lệ thiên nhiên, có thể chu du trong cõi vô tận, và sẽ không bao giờ khám phá hết những điều kỳ diệu của Đức Chúa Trời! Sẽ không bao giờ dứt tiếng ca ngợi ân điển Ngài, sẽ không bao giờ hết công việc của người được thừa hưởng cơ nghiệp giàu có không thể dò lường trong Đấng Christ!

Tóm lược.

1. Sự sống đời đời là phước hạnh Chúa ban cho người công bình trong cõi vĩnh sanh.

2. Thiên đàng, hay thành Giê-ru-sa-lem mới trên trời là nơi ở vĩnh viễn của người công bình trong tương lai.

3. Trong cõi vĩnh sanh, người công bình sẽ nhận được phước là sự sống đời đời, được giao thông với Chúa mặt đối mặt, được nhận biết đầy trọn, được vui vẻ và thỏa mãn, được thoát khỏi quyền lực của tội lỗi, được hưởng cơ nghiệp trong Đấng Christ, được hầu việc và thờ phượng Chúa.

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Trong sự phán xét của Chúa, người công bình nhận được phước hạnh gì? (Rô-ma 2:7; 6:23; Ma-thi-ơ 25:46).

  1. a. Ý nghĩa của chữ đời đời.

b. Giăng 3:16: Phản nghĩa với sự sống đời đời nghĩa là gì?

c. Giăng 10:28; 14:6: Sự sống đời đời đến từ đâu?

d. Giăng 3:36; 3:3: Thế nào để được sự sống đời đời? Theo điều kiện nầy, sự sống đời đời bắt đầu trong người tin khi nào?

e. Mác 16:16; Công Vụ 4:12: Sự sống đời đời còn được hiểu trong chữ nào khác?

g. Giăng 17:3: Sự sống đời đời có nghĩa gì?

h. Tít 1:2; 3:7: Sự mong đợi của người tin là gì? Tại sao?

3. Xin tóm lược những điểm quan trọng về sự sống đời đời.

  1. a. Giăng 14:2-3: Chúa Giê-xu hứa gì với môn đồ?

b. Nơi Chúa sắm sẵn được Kinh Thánh nói đến trong những khía cạnh nào? (Ma-thi-ơ 25:34,44, Hê-bơ-rơ 3:13, 2Phi-e-rơ 3:13, Khải Huyền 21:2-3, 22-27).

5. Những ghi nhận trên, xin tóm lược và cắt nghĩa đầy đủ đâu là quê hương vĩnh viễn của người công bình và nơi ấy như thế nào?

6. Xin kể ra những phước hạnh của người công bình trong nơi ở đời đời (Ma-thi-ơ 25:44; 3:11,12; 21:4,7,26-27; 22:3-4; Rô-ma 8:17).

7. Với những điều trên xin tìm hiểu tại sao đó gọi là phước hạnh?

8. Xin ghi nhận những lẽ thật quan trọng của Kinh Thánh về nơi ở vĩnh viễn của người công bình.

9. Bạn đã chuẩn bị như thế nào để xứng đáng với địa vị vĩnh viễn Chúa ban cho? Điều gì bày tỏ bạn có lòng tin và biết ơn Chúa về sự sắm sẵn của Ngài cho người thuộc về Ngài?

 

 

 

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 05.04.2015

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 05.04.2015

in Thanh niên on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 05.04.2015.

1. Đề tài: TINH THẦN ĐÓN CHÚA PHỤC SINH.

2. Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 28:8-10.

3. Câu gốc: “Đức Chúa Giê-xu phán rằng: Ta là sự sống lại và sự sống; người nào tin Ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi” (Giăng 11:25).

4. Đố Kinh Thánh: Ê-xê-chi-ên 34-38.

5. Thể loại: Chia sẻ.

* CHỈ DẪN: Chia sẻ.

1. Mời người chia sẻ từ 2 tuần trước.

2. Ghi ra giấy đề tài, phần Kinh thánh làm nền, câu gốc, phần Kinh thánh tham khảo và giao cho người chia sẻ để người ấy chia sẻ đúng nhu cầu và chương trình của ban Thanh niên. Nếu cần, bạn cho mượn cả phần tài liệu tham khảo.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

TINH THẦN ĐÓN CHÚA PHỤC SINH

Khác với các tôn giáo khác, Cơ Đốc giáo chúng ta rất hãnh diện về vị giáo chủ của mình, vì Chúa Giê-xu đã phục sinh. Các giáo chủ khác đều đã chết và cứ chết luôn không bao giờ sống lại; còn sự phục sinh của Chúa chúng ta là một sự kiện lịch sử không ai phủ nhận được. Nếu ai đó có cách nào chứng minh Chúa Giê-xu không bao giờ sống lại thì Cơ Đốc giáo sẽ sụp đổ ngay tức khắc.

Ngay từ lúc tin tức Chúa Giê-xu phục sinh được loan báo ra, những người chống đối Chúa đã vội tìm cách bác bỏ và phủ nhận. Tiếc thay, nỗ lực của họ như một bong bóng bị nổ tung vì Chúa sống lại hiện ra sờ sờ làm sao chối bỏ được. Chính sự hiện diện của Chúa là bằng chứng hùng hồn, là năng lực sống động của Hội Thánh đầu tiên.

Sách Công Vụ kể lại thể nào Hội Thánh đầu tiên được khởi đầu và phát triển mạnh mẽ nhờ vào sự rao giảng của những người chứng kiến Chúa đã phục sinh. Kể từ đó đến nay, đã gần 2000 năm qua, Cơ Đốc giáo vẫn cứ tiếp tục phát triển và bành trướng.

Trong không khí rạo rực của mùa Lễ Phục Sinh năm nay, chúng ta nên có tinh thần thể nào?

Xin chúng ta cùng tra xem Lời Chúa mà học theo gương các nữ môn đồ khi xưa. Theo Ma-thi-ơ 28:8-10, khi quý bà biết Chúa đã sống lại, họ liền có những thái độ và hành động như sau:

I. VUI MỪNG.

“Hai người đàn bà đó bèn vội vàng ra khỏi mộ… cả mừng” (c.8). Tất cả những nỗi âu lo, sợ sệt, thất vọng, chán chường khi chứng kiến cảnh Chúa bị xử, bị đóng đinh, rồi tắt thở, được khâm liệm và được đem chôn, đã hoàn toàn tan biến như ánh bình minh vừa ló dạng xua đi màn đêm tăm tối u sầu. Họ sung sướng với niềm vui Chúa phục sinh tràn ngập tâm hồn.

Trước kia họ đã vui biết bao khi chứng kiến cảnh Chúa chữa lành những người câm, điếc, đui, què, phung, bại. Trước kia họ đã cũng từng vui biết bao khi nhìn thấy Chúa hóa bánh cho hàng ngàn người ăn, phán một tiếng thì ma quỉ chạy xa, hoặc nhìn thấy những người đã chết được Chúa ban cho sống lại. Nhưng tất cả những niềm vui đó không thể nào sánh bằng niềm vui được biết Chúa phục sinh, vì Chúa sống lại từ cõi chết đã thay đổi tất cả. Con người từ nay đã có hy vọng và không còn phải chịu bó tay dưới quyền lực của tử thần. Trong Chúa phục sinh, quyền năng của tử thần đã bị vô hiệu hóa.

Trong mùa Phục Sinh năm nay, nguyện xin Chúa cho chúng ta kinh nghiệm được niềm vui thiên thượng nầy cách mới mẻ. Chúa chúng ta đã sống lại và đang sống (Giăng 11:25), cho nên chúng ta không có lý do gì cứ sống trong buồn lo, sầu thảm mãi. Cuộc sống đời nầy sẽ có lúc chấm dứt, nhưng chúng ta vẫn cứ sống với Chúa. Dù đời có khắc nghiệt đến mấy, cuối cùng chúng ta sẽ đắc thắng vì chúng ta sẽ sống mãi với Chúa phục sinh. Vậy nên chúng ta “hãy vui mừng mãi mãi” (1Tês 5:16, Phi-líp 4:4).

II. ĐẾN THỜ LẠY CHÚA.

“Hai người cùng đến gần… và thờ lạy Ngài” (c.9).

Nghe tin Chúa phục sinh, trong lòng rộn lên niềm vui cũng chưa đủ. Niềm vui đó cũng chưa trọn vẹn cho đến khi nào được đến thờ lạy Ngài. Khoảng trống trong tâm hồn chúng ta sẽ không bao giờ khỏa lấp cho đến khi được đến gần Chúa và thờ phượng Ngài.

Vinh dự và phước hạnh thay cho những người có lòng yêu mến Chúa! Ngài không kể họ là nam hay nữ, hễ họ có lòng tìm kiếm Ngài thì Ngài cho họ được gặp. Quý bà nầy là những người đã gặp Chúa đầu tiên sau khi Ngài sống lại.

Chúa thấy rõ tấm lòng chờ mong cho mau đến sáng để được đi thăm mộ Chúa của họ. Họ đâu có ngờ rằng đi thăm mộ Chúa lại được gặp Chúa sống lại và hiện ra cho mình xem thấy. Họ đâu có ngờ rằng đi thăm mộ Chúa lại biến thành đi thờ phượng Chúa, vì Chúa đâu còn nằm trong phần mộ nữa.

Trong mùa phục sinh năm nay, nguyện Chúa cho chúng ta kinh nghiệm gặp gỡ Chúa phục sinh một cách mới mẻ khi chúng ta cùng đến tôn thờ Ngài, vì tâm linh chúng ta chỉ thỏa mãn khi thờ phượng Chúa mà thôi.

III. BÁO TIN VUI CHO NGƯỜI KHÁC.

“Đừng sợ chi cả; hãy đi bảo…” (c.10), “hai người… chạy báo tin cho các môn đồ” (c.8).

Niềm vui phục sinh cũng vẫn chưa trọn vẹn cho đến khi được dịp chia sẻ niềm vui đó cho người khác. Cơ Đốc nhân chân chính sẽ không bao giờ thấy thỏa lòng khi chỉ riêng mình có được niềm vui và tâm linh mình được thỏa thích tôn thờ Chúa. Cơ Đốc nhân chân chính sẽ thỏa lòng khi được dịp chia sẻ niềm vui mình có cho những người chưa biết Chúa. Vì không biết và không tin Chúa đã sống lại, nên nhiều người vẫn còn sống trong buồn lo, sợ sệt.

Chúa Giê-xu muốn chúng ta thoát ra khỏi hoàn cảnh buồn lo sợ hãi đó khi chúng ta tin rằng, Ngài đã đắc thắng sự chết. Ngài đã sống lại, đang cầm quyền tể trị trên cả vũ trụ, và Ngài sẽ giúp đỡ chúng ta. Chúa sẽ bênh vực người thuộc về Ngài và xử lẽ công bình cho họ. Nhiều người không biết điều đó nên chúng ta phải đi báo tin vui Chúa phục sinh cho họ hay. Chính sự không biết và thiếu đức tin đã giam cầm biết bao nhiêu người trong ngục tù của bất an, sợ sệt.

Dù có làm môn đồ Chúa đi nữa, nhưng không biết và không tin vào sự kiện Chúa đã phục sinh thì chúng ta cũng có thể sống thiếu bình an. Sự hiểu biết và tin tưởng nầy chỉ có được khi những người đã có kinh nghiệm trong Chúa đi ra rao báo tin mừng. Những nữ môn đồ ngày xưa đã “chạy” (vội vã) đi báo tin, còn chúng ta ngày nay thì sao? Xin Chúa giúp cho chúng ta cũng có tinh thần sốt sắng truyền báo tin vui Chúa đã phục sinh như các nữ môn đồ nầy. “Hãy đi khắp thế gian giảng Tin Lành cho mọi người” (Mác 16:15).

Trong không khí rạo rực của mùa kỷ niệm Chúa phục sinh năm nay, nguyện Chúa cho chúng ta noi gương các nữ thánh đồ ngày xưa kinh nghiệm được niềm vui khôn tả khi nghĩ đến Chúa phục sinh, đến thờ lạy Ngài và sốt sắng ra đi rao báo cho người khác hay tin Ngài đã phục sinh. Thế giới nầy vẫn cứ ở dưới ách thống trị của sa-tan và tội lỗi, cho đến khi mọi người tin tưởng và kinh nghiệm được quyền năng của Chúa phục sinh.

 

 

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 29.03.2015

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 29.03.2015

in Thanh niên on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 29.03.2015.

1. Đề tài: SINH NHẬT – CẢM TẠ CHÚA.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 91.

3. Câu gốc: “Tôi nói về Đức Giê-hô-va rằng: Ngài là nơi nương náu tôi, và là đồn lũy tôi; cũng là Đức Chúa Trời tôi, tôi tin cậy nơi Ngài” (Thi 91:2).

4. Đố Kinh Thánh: Ê-xê-chi-ên 29-33.

5. Thể loại: Sinh nhật – Sinh hoạt.

* CHỈ DẪN: Sinh nhật (Ca ngợi & Cảm tạ).

1. Thông báo danh sách những người có ngày sinh trong quý I (tháng 1,2,3) trước một tuần lễ; bổ sung những tên còn thiếu.

2. Thư ký trao danh sách cho thủ quỹ mua quà. Quà tặng sinh nhật nên mua nhiều hơn số cần, phòng khi có khách, thân hữu… đến dự cũng có ngày sinh trong quý đó.

3. Những người không nhớ ngày sinh, có thể chọn ngày cưới, ngày tin nhận Chúa, ngày chịu báp tem… để làm sinh nhật.

4. Chuẩn bị một chiếc bánh sinh nhật (nếu có thể), kích thước chiếc bánh tùy theo số người tham dự.

5. Mời những người có tên trong danh sách “sinh nhật” lên phía trên, số người còn lại hát chúc mừng. Tất cả cùng cầm dao cắt bánh. Mời người cầu nguyện đặc biệt cho họ.

6. Ban hướng dẫn tặng quà cho những người có sinh nhật.

7. Mời một số người làm chứng, ca ngợi Chúa, chia sẻ những kinh nghiệm thuộc linh… Khi làm chứng nên trình bày thành thật, đừng thổi phồng.

8. Chơi trò chơi, đố vui và ăn bánh sinh nhật…

* TRÒ CHƠI DÀNH CHO NGƯỜI CÓ SINH NHẬT.

THẮP NẾN SINH NHẬT.

– Chuẩn bị: Dùng giấy bìa cứng làm một số cây nến, ghi lời yêu cầu vui, ngắn gọn lên giấy, cuộn lại nhét vào cây nến, dùng băng keo dán cây nến lên bảng (số nến tương đương với số người có ngày sinh trong quí).

Nếu dùng nến thật thì cũng gắn lời yêu cầu vào như nến bằng giấy rồi bạn đốt nến và sắp lên bàn sao cho đẹp mắt.

Ví dụ về lời yêu cầu: “Chúc bạn sinh nhật vui vẻ! Mời bạn uống một lượt 5 ly nước”, hoặc “Mừng sinh nhật bạn! Bạn có thể mời người hát tặng bạn một bài”…

– Cách chơi: NHD sẽ mời lần lượt từng người có ngày sinh trong quí lên và chọn cho mình một cây nến. Tìm xem cây nến xinh xắn có chứa điều gì bí ẩn và khi tìm ra được hãy đọc lớn điều bí ẩn đó lên và thực hiện.

* TRÒ CHƠI TẬP THỂ.

THEO CHÚA.

– Cách chơi: NHD cho các bạn tập trung thành vòng tròn và đếm số từ 1 cho đến hết (mỗi người nhớ số mình). Sau đó, NHD đi xung quanh bên trong vòng tròn và hô lên: “Theo Chúa, theo Chúa!” các bạn đáp lại: “Ai theo, ai theo?”, NHD hô bất kỳ một số nào đó, ví dụ: “số 5 theo”; thì người mang số 5 phải lập tức chạy nhanh về phía NHD, và hai người đứng hai bên phải nhanh chóng nắm tay người đó kéo lại và nói: “bắt bớ”. Nếu “người số 5” bị bắt thì coi như bị loại; còn nếu “người số 5” chạy lên được NHD thì hai bạn hai bên bị loại.

ĐOÁN NHÂN VẬT KINH THÁNH.

– Cách chơi: Chia thành 4 hoặc 5 nhóm. Mỗi nhóm cử một người đại diện lên phía trước. NHD đưa ra 4 hoặc 5 nhân vật Kinh Thánh, đại diện của từng nhóm nhận một nhân vật. Sau đó, các người này lần lượt thông đạt lại cho nhóm của mình nhân vật Kinh Thánh đó chỉ bằng điệu bộ (không được nói). Nếu trong vòng vài phút, nhóm của mình không đoán ra được, thì các nhóm khác được quyền trả lời. Nhóm nào đoán ra được, sẽ được cộng điểm.

 

 

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 22.03.2015

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 22.03.2015

in Thanh niên on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 22.03.2015.

1. Đề tài: CHỨNG NHÂN CHO CHÚA.

2. Kinh Thánh: Thi Thiên 67.

3. Câu gốc: “Kẻ nào gieo giống mà giọt lệ, sẽ gặt hái cách vui mừng” (Thi Thiên 126:5).

4. Đố Kinh Thánh: Ê-xê-chi-ên 24-28.

5. Thể loại: Kịch 5’.

* CHỈ DẪN: Kịch.

1. Mời vài người trong ban chấp sự của Hội Thánh nhóm chung với ban thanh niên và làm giám khảo.

2. Cách thực hiện chương trình.

* Cách 1: Từ nhiều tuần trước, mỗi nhóm của ban thanh niên họp lại để soạn và tập một vở kịch ngắn với đề tài “Chứng nhân cho Chúa”. Tùy theo số nhóm mà định thời gian của vở kịch, nhưng không được quá 5 phút.

* Cách 2: Trước giờ nhóm, ban hướng dẫn chia ban thanh niên ra làm 3 nhóm và cho ngồi riêng ra từng nhóm. Đến tiết mục kịch 5 phút, ban hướng dẫn giao cho mỗi nhóm một câu chuyện ngắn với đề tài về “Chứng nhân cho Chúa”. Trong 20 phút, các nhóm phải biến câu chuyện thành vở kịch, phân vai và tập kịch.

– Các nhóm lần lượt diễn kịch.

– Cách chấm điểm.

+ Thời gian: Đúng giờ (5’) 10 điểm. Mỗi phút dư bị trừ một điểm.

+ Tinh thần: Tất cả nhóm viên đều tham gia vào vở kịch: 10 điểm. Thiếu một người trừ 1 điểm.

+ Diễn xuất: 10 điểm.

+ Nội dung: 10 điểm (nếu là vở kịch tự chọn).

– Phát thưởng.

* NHỮNG CÂU CHUYỆN THAM KHẢO.

TIẾP NHẬN LỜI  MỜI.

Viên đốc công của một xưởng máy ở miền Bắc nước Anh thường nghe giảng Tin Lành, nhưng anh bối rối vì sợ mình không thể đến cùng Chúa Cứu Thế. Ngày kia, ông chủ gởi tới cho anh một tấm thiếp viết rằng: “Mời anh tới nhà riêng của tôi ngay sau giờ làm việc”. Anh tới nhà ông chủ. Ông chủ bước ra, nói giọng xẵng xớm:

– Anh John, anh muốn gì mà lại đến quấy rối tôi giờ này?

Anh hơi ngạc nhiên, nói:

– Thưa ông, tôi có nhận được tấm thiếp của ông bảo tôi tới găp ông sau giờ làm việc mà!

Ông chủ hỏi:

– Anh chỉ nhận được tấm thiếp của tôi mà anh đến liền sao?

Anh đáp:

– Thưa ông, đúng vậy. Tôi không hiểu ý ông, nhưng tôi tưởng ông kêu tôi thì tôi có quyền đến!

Ông chủ nói:

– Vậy mời anh vào nhà, cùng ngồi xuống. Ông mở Kinh Thánh, đọc câu này: “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ” (Mat 11:28). Rồi chủ nói:

– Tôi chỉ là một ông chủ trong xưởng máy mà viết thiếp gọi anh, anh tới ngay. Còn đây, Chúa Cứu Thế là Chủ Tể của nhân loại, đã kêu mời anh như thế, sao lâu quá mà anh chưa chịu đến với Ngài?

Anh đốc công đáng thương này hiểu ý ông chủ, liền nhận lời mời của Chúa Cứu Thế mà tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa của đời mình.

HIỂU BIẾT SỰ YÊU THƯƠNG CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI.

                        Một bà kia không hề biết sự yêu thương của loài người. Bà là một người nghèo khổ bị bỏ quên, bị bạc đãi, bị xử bất công lâu ngày đến nỗi bà thù nghịch với tất cả mọi người.

Một lần kia có một mục sư đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Đức Chúa Trời, song bà chẳng hiểu tình yêu là gì cả. Bà ngước mắt lên nhìn Mục sư và nói:

– “Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối với tôi, tôi cũng không hiểu yêu thương là gì cả”.

Mục sư trở về nói cùng tín đồ trong Hội Thánh rằng có một người chưa hề biết tình yêu thương của Chúa là gì, vậy mọi người hãy giúp cho bà ấy biết được tình yêu của Chúa bằng cách mỗi người lần lượt đến thăm bà, tỏ cho bà biết có người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ bà. Mấy tháng trôi qua, rốt lại, một ngày kia, khi Mục sư tới thăm bà tại ngôi nhà tồi tàn, bà ngước mắt lên nhìn Mục sư và nói rằng:

– “Thưa Mục sư, tôi hiểu biết sự yêu thương là gì rồi, và bây giờ tôi có thể tiếp nhận sự yêu thương của Đức Chúa Trời”.

Bà liền quỳ gối xuống cầu nguyện tiếp nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu làm Chúa của cuộc đời bà và bước đi trong tình yêu thương của Ngài.

NHƯ LÀM CHO CHÚA.

Một giáo sĩ ở Ấn Độ kể chuyện về một sĩ quan đã dừng lại nhà một em bé Ấn Độ nghèo nàn, bảo em đánh giầy cho mình. Cậu bé bắt tay vào việc đó với tất cả sự say mê và lòng nhiệt thành đến nỗi làm cho vị sĩ quan ngạc nhiên. Thay vì làm qua loa bên ngoài, cậu bé hết sức đánh đôi giày cho thật bóng láng mới thôi. Vị sĩ quan hỏi:

– “Tại sao em dùng quá nhiều thì giờ để đánh bóng đôi giày của tôi như thế?”

Cậu bé trả lời:

– “Thưa ông, tuần trước đây Chúa Giê-xu đã ngự vào lòng em và bây giờ em thuộc về Ngài. Từ đó cứ mỗi lần đánh giày cho ai, thì em cứ nghĩ rằng đó là đôi giày của Chúa và em làm hết sức mình. Em muốn Ngài hài lòng”.

* Dù làm bất cứ điều gì, xin Chúa cho chúng ta “không những hầu việc trước mắt họ, như mình tìm cách cho đẹp lòng người ta, nhưng vì kính sợ Chúa, hãy lấy lòng thật thà mà hầu việc. Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta” (Cô-lô-se 3:22-23).

LÀM CHỨNG VỀ CHÚA BẰNG NẾP SỐNG CỦA MÌNH.

                        Một người kia thích nhậu nhẹt, say sưa tối ngày. Một hôm tại quán rượu, anh ta khoe với các bạn rượu rằng:

– “Nếu bây giờ tao dẫn tụi mầy về nhà lúc nửa đêm, rồi bảo vợ tao thức dậy nấu ăn, thì vợ tao sẽ vui vẻ đãi tụi mầy một bữa ăn ngon lành mà không dám phàn nàn chi cả”.

Một bợm rượu nghe vậy tưởng anh nầy nói khoác, bèn thách thức anh ta dẫn về nhà thử xem có đúng như vậy hay không.

Dù nghe lời đòi hỏi vô lý của chồng, người vợ ấy vẫn vui vẻ thức dậy nấu nướng đãi các bạn của chồng một bữa no nê. Sau khi ăn xong, một người trong bọn hỏi chị rằng:             – “Tại sao chị lại vui vẻ làm theo lời đòi hỏi vô lý của anh ấy như thế?”

Chị đáp: – “Khi trước tôi cũng là một người lôi thôi như chồng tôi vậy, song mới đây tôi đã trở thành một tín đồ của Chúa Cứu Thế, đời sống tôi đã thay đổi. Tôi đã cố gắng giúp chồng tôi tin Chúa, nhưng anh không chịu nhận Ngài. Vì đó, tôi biết chắc rồi đây chồng tôi sẽ xuống địa ngục đau khổ đời đời, nên tôi muốn giúp chồng tôi vui vẻ, hưởng thụ cuộc đời tạm bợ trên thế gian, để rủi khi qua đời, anh không còn cơ hội hưởng thụ nữa. Bởi đó, anh ấy muốn gì, tôi cũng sẵn sàng làm cho anh ấy vui”.

Sau khi nghe những lời đó, người chồng cũng như nhiều bạn nhậu của anh rất cảm động và lo sợ cho số phận của mình nên ăn năn tin nhận Chúa. Từ đó anh nầy bỏ tính ghiền rượu, trở nên một người chồng tốt và tín đồ gương mẫu.

* Chắc chắn người chồng và những người bạn tin nhận Chúa không phải chỉ nhờ những lời nói sau cùng của người đàn bà nầy, nhưng nhờ thấy sự nhịn nhục và hòa nhã của người vợ tin kính Chúa. Chị biết làm chứng về Chúa qua nếp sống của mình.  

TẠI SAO KHÔNG CHỊU ĐẾN VỚI CHÚA?

                        Một người tin Chúa và một anh thợ hớt tóc vô thần cùng đến một khu nghèo khổ ở ngoài thành phố. Anh thợ hớt tóc bài bác đạo nói:

– “Những gì tôi với ông thấy hôm nay chứng minh rằng làm gì có Thượng Đế nhân từ, bác ái như ông vẫn thường nói. Nếu Thượng Đế có thật, thì làm sao có cảnh nghèo khổ bệnh tật như thế nầy. Ông ấy chắc cũng phải có quyền năng ngăn cản những người nghiện ma túy hay rượu và những thứ tật xấu làm hư hỏng cả con người chứ!”

Người tin Chúa im lặng không cãi cho đến khi gặp một người quần áo rách rưới, tóc xõa xuống tận nửa lưng và trên mặt còn cả một cụm râu, mới ôn tồn nói: – “Nếu anh là một thợ hớt tóc giỏi, thì anh không thể nào để cho một người đầu tóc như thế đi lang thang mà không hớt tóc, cũng chẳng chịu cạo râu nữa”.

Anh thợ hớt tóc nổi giận nói: – “Tại sao anh đổ lỗi cho tôi? Tôi làm sao cấm cản anh ấy được? Anh ta có bao giờ chịu đến tiệm hớt tóc của tôi đâu? Nếu anh ta chịu đến để tôi hớt tóc, cạo râu, thì chỉ cần nửa giờ sau là anh ta ra người tươm tất ngay!”

Người tin Chúa lúc ấy mới dịu giọng bảo: – “Thế anh cũng không nên đổ lỗi cho Thượng Đế là để cho người nầy tiếp tục sống cuộc đời hư hỏng cho đến nỗi thân tàn ma dại như vậy. Vì Chúa lúc nào cũng mời gọi họ đến với Ngài để được giải cứu. Lý do mà những người ấy vẫn còn làm tôi mọi cho thói xấu và tội ác là vì họ từ chối không chịu đến với Chúa là Đấng đã yêu thương họ, chịu hy sinh chết thay tội lỗi cho họ. Chúa không bất công đâu”.

Người thợ hớt tóc nghe đến đó đã tỉnh ngộ.

 

 

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 15.03.2015

Chương trình thờ phượng Ban Thanh niên Chúa nhật 15.03.2015

in Thanh niên on 15 Tháng Tư, 2015

Chúa nhật 15.03.2015.

1. Đề tài: CÁC CUỘC PHÁN XÉT.

2. Kinh Thánh: Rô-ma 2:1-11; 4:10-12.

3. Câu gốc: “Bởi vì chúng ta thảy đều phải ứng hầu trước tòa án Đấng Christ, hầu cho mỗi người nhận lãnh tùy theo điều thiện hay điều ác mình đã làm lúc còn trong xác thịt” (2Côr 5:10).

4. Đố Kinh Thánh: Ê-xê-chi-ên 19-23.

5. Thể loại: Phỏng vấn.

* CHỈ DẪN: Phỏng vấn.

1. Chọn một người đóng vai Phao-lô và một người làm phóng viên.

2. Dựa trên tài liệu tham khảo và phần Kinh Thánh làm nền để soạn ra nhiều câu hỏi và câu trả lời cho các diễn viên học thuộc. Các câu hỏi và câu trả lời cần phải ngắn gọn nhưng đầy đủ ý nghĩa, đồng thời phải gây hứng thú cho người nghe để họ dễ nhớ nội dung của buổi học Kinh Thánh.

3. Mời trước một người đúc kết buổi phỏng vấn và nêu lên những điều học hỏi được từ câu chuyện. Cầu nguyện kết thúc (có thể mời nhân vật được phỏng vấn cầu nguyện).

* GỢI Ý PHỎNG VẤN.

(Sau khi NHD giới thiệu thể loại chương trình thờ phượng, phóng viên từ dưới phòng nhóm đi lên và Phao-lô từ ngoài bước vào phòng nhóm).

– Phóng viên: Dạ xin kính chào cụ Phao-lô!

– Phao-lô: Chào các cháu!

– PV: Chúng cháu rất vui vì được cụ đến thăm hôm nay. Thay cho các bạn thanh niên trong Hội Thánh, cháu xin có lời chào mừng và hoan nghênh cụ. Nhân buổi gặp gỡ nầy cụ có thể giúp chúng cháu tìm hiểu về các cuộc phán xét xảy ra trong tương lai không thưa cụ?

– Phao-lô: Được, các cháu cứ hỏi, ta sẽ giúp các cháu trong khả năng của ta.

– PV: Xin cụ vui lòng cho biết vì sao Chúa không phán xét ngay trong hiện tại mà phải chờ đợi phán xét trong tương lai?

– Phao-lô: Sự phán xét thuộc quyền tối cao của Chúa và Ngài có thời điểm cho công việc nầy.

– PV: Thì ra là vậy. Xin cụ vui lòng cho biết lý do Đức Chúa Trời thi hành sự phán xét?

– Phao-lô: Sự phán xét là điều phải có vì những lý do sau: (1) Thi hành sự công nghĩa của Ngài. (2) Làm rạng rỡ ơn cứu chuộc kỳ diệu của Đấng Christ mà hiện nay chưa được bày tỏ.

– PV: Cụ có thể cho cháu hiểu mục đích của sự phán xét là gì không?

– Phao-lô: Mục đích của sự phán xét là bày tỏ sự công nghĩa của Đức Chúa Trời trong sự ban thưởng người công bình và hình phạt người ác.

– PV: Thưa cụ, có phải tất cả người công bình đều được thưởng và tất cả người công bình đều bị hình phạt không?

– Phao-lô: Không hề như vậy. Đức Chúa Trời sẽ ban thưởng hay phạt mỗi người tùy theo việc họ làm.

– PV: Thưa cụ, thế nào là người công bình và người không công bình?

– Phao-lô: Theo Kinh Thánh thì không có người công bình trên đất, sự công bình của con người như áo nhớp trước mặt Đức Chúa Trời. Người được Chúa xưng công bình là người tin nhận Giê-xu làm Chúa Cứu Thế và người không công bình là người chẳng tin.

– PV: Thưa cụ, vậy những người sống trong thời đại không có Kinh Thánh, không biết Đức Chúa Trời thì bị liệt vào hạng người không công bình và bị Đức Chúa Trời đoán phạt sao?

– Phao-lô: Đức Chúa Trời là Đấng Công Bình. Sự phán xét của Ngài đặt trên những nguyên tắc căn bản sau:

(1) Với những người có luật pháp hay có Kinh Thánh thì dựa trên luật của Kinh Thánh mà bị xét đoán.

(2) Với những người không có luật pháp thì bởi lương tri và sự tỏ ra của Ngài trong cõi thiên nhiên mà bị xét đoán.

(3) Với những người ở dưới ân điển cứu rỗi thì bởi thái độ của họ tin nhận hay chối bỏ mà bị đoán xét.

– PV: Cám ơn Chúa về sự phán xét công bình của Ngài. Xin cụ vui lòng cho biết thêm về sự phán xét của Đức Chúa Trời.

– Phao-lô: Sự phán xét của Đức Chúa Trời có tính đặc biệt sau:

(1) Cá nhân: Mỗi người phải khai trình việc mình làm với Chúa.

(2) Phổ quát: Mọi người phải ứng hầu trước tòa án của Chúa.

       (3) Công bình: Đức Chúa Trời là Đấng toàn tri, là Đấng thẩm định và thưởng phạt một cách tương xứng nên không có sự khiếu nại.

– PV: Xin cụ cho biết trong các cuộc phán xét nầy ai là quan tòa và ai là bị cáo?

-Phao-lô: Chúa Giê-xu là Quan tòa, còn bị cáo trong mỗi phiên tòa khác nhau.

– PV: Khác nhau như thế nào xin cụ giải thích cho cháu hiểu với.

– Phao-lô: Qua sự bày tỏ của Kinh Thánh, sự xét đoán được diễn tiến như sau:

(1) Phán xét Hội Thánh: Để xét thưởng người được xưng công bình.

(2) Phán xét các nước: Phán xét dân Do-thái và dân ngoại để phân chia người tin và người chẳng tin.

(3) Phán xét thiên sứ ác và sa-tan: Chúa nhốt sa-tan vào địa ngục vào thời đại ngàn năm bình an.

(4) Phán xét cuối cùng: Sau thời đại ngàn năm bình an, những người chẳng tin từ thời A-đam sống lại để chịu sự đoán phạt đời đời trong hỏa ngục, tức là sự chết thứ hai.

– PV: Cám ơn cụ đã giúp chúng cháu hiểu rõ hơn về các cuộc phán xét của Chúa trong tương lai. Biết rõ điều nầy chúng cháu hứa sẽ hầu việc Chúa cách trung tín để được Chúa ban thưởng và sốt sắng đi giải cứu người đang bị đùa đến nơi khổ hình.

NHD: Thưa các bạn! Chúng ta vừa nghe cụ Phao-lô giãi bày về các cuộc phán xét trong tương lai. Nguyện Chúa Thánh Linh ban năng lực để chúng ta làm trọn những điều mình hứa nguyện với Chúa qua bài học nầy. Mời các bạn đứng lên và mời cụ Phao-lô cầu nguyện cho chúng cháu.  

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Một trong những vấn đề con người không thể giải quyết nổi là sự bất công trong xã hội. Với sự lan tràn của tội lỗi, thì thế gian không còn công lý! Tuy nhiên trong lương tri con người vẫn nhận biết có Đấng báo ân, báo oán, có luật công bình ở đời sau. Có những câu răn người ác được thấy trong ca dao Việt Nam như: “Lưới trời lồng lộng mà chẳng lọt ai” hoặc “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ” hay “Gieo gió gặt bão” v.v..

Kinh Thánh nói quả quyết về ngày phán xét công bình của Chúa trên người công bình và người ác. Sự phán xét của Ngài đặt trên tiêu chuẩn nào? Có tính chất gì? Và sẽ được xảy ra như thế nào?

I. DẪN GIẢI.

A. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH CỦA SỰ PHÁN XÉT.

1. Lý do của sự phán xét.

a. Thi hành sự công nghĩa của Chúa.

Sự đoán xét là thuộc quyền tối cao của Chúa, và Ngài có thời điểm cho việc nầy. Luật của Đức Chúa Trời đã định cho loài người phải chết một lần rồi chịu phán xét (Hê-bơ-rơ 9:27). Phao-lô khuyên các tín hữu “chớ xét đoán sớm quá, hãy đợi Chúa đến” (1Côr 4:5).

b. Thể hiện cách trọn vẹn sự công nghĩa của Đức Chúa Trời.

Mặc dầu người ác có hưng thạnh trong đời nầy, nhưng “luật báo ứng” cũng được thấy rõ. Tuy nhiên, điều đó chưa được đầy trọn theo công lý của Chúa. Cho nên sự phán xét chắc sẽ đến như lời Phao-lô cảnh cáo con người về thái độ khinh lờn sự công nghĩa của Chúa, là Đấng sẽ trả cho mỗi người tùy theo công việc mình (Rô-ma 2:5-6).

c. Làm rạng rỡ ơn cứu chuộc kỳ diệu của Đấng Christ mà hiện nay chưa được bày tỏ.

Vì trong ngày phán xét, công lao cứu chuộc của Ngài sẽ được chiếu rạng trong người được chuộc với sự ban thưởng mão miện sáng láng, đồng thời đoán phạt người chẳng tin: “Trong khi Đức Chúa Giê-xu từ trời hiện đến với các thiên sứ của quyền phép Ngài, giữa ngọn lửa hừng, báo thù người chẳng hề nhận biết Đức Chúa Trời, và không vâng phục Tin Lành của Đức Chúa Giê-xu Christ chúng ta. Khi Ngài sẽ đến trong ngày đó, để được sáng danh trong các thánh đồ, được khen ngợi trong mọi người tin…” (2Tês 1:7-8,10).

2. Mục đích của sự phán xét.

Các lý do nêu trên cho thấy điểm chính trong sự phán xét không phải tra xét để chứng tỏ người nầy có tội hay không có tội, cũng không phải để quyết định số phận của người ta. Vì án phạt đã quyết định từ khi con người còn sống trên cõi tạm, và số phận họ cũng đã được định sẵn lúc qua đời. Tuy nhiên án phạt của Chúa có thể bãi bỏ, số phận hư mất tương lai của con người có thể được thay đổi là tùy thái độ của mỗi cá nhân đối với Đức Chúa Trời trong hiện tại, tin hay chối bỏ Ngài, vì sẽ không có cơ hội thứ hai cho con người sau khi chết (Giăng 3:36; 5:24; Lu-ca 16:19-30).

Như vậy mục đích của sự phán xét sau cùng nói chung là bày tỏ sự công nghĩa của Đức Chúa Trời trong sự ban thưởng người công bình và hình phạt người ác, để công khai biểu lộ điều kín giấu của con người và cả vũ trụ nhìn biết sự thưởng phạt của Đức Chúa Trời là công bình (Ma-thi-ơ 12:36; 2Côr 5:10; Lu-ca 12:2,8-9).

Nhà thần học L.C. Turner luận như sau: “Mục đích của sự phán xét là sự ban thưởng và hình phạt. Không phải tất cả người được cứu rỗi đều được thưởng giống nhau, và không phải người hư mất đều bị xử phạt như nhau. Đức Chúa Trời sẽ trả lại cho mỗi người thể theo việc làm của họ. Sự ban thưởng và sự xử phạt sẽ được áp dụng thể theo trường hợp và phẩm hạnh”.

B. TIÊU CHUẨN VÀ TÍNH CHẤT CỦA SỰ PHÁN XÉT.

Theo nhà giải kinh J. D. Olsen, những nguyên tắc trong sự phán xét nói chung được căn cứ trên hai thứ luật pháp của Đức Chúa Trời: Luật đạo đức và luật ân điển.

1. Luật đạo đức.

Luật “đạo đức” phản ảnh đức tánh công nghĩa thánh khiết của Đức Chúa Trời. Hay nói cách khác là do đức tánh nầy mà luật đạo đức được thiết lập và có tính chất bất biến (Ma-thi-ơ 5:17-18). Luật đạo đức phù hợp với con người được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời, tức là được dựng nên trong sự công bình và thánh sạch của lẽ thật, được giống Ngài trong phần đạo đức (Ê-phê-sô 4:24). Cho nên nếu vi phạm luật đạo đức, có nghĩa là xúc phạm bản tánh công nghĩa của Đức Chúa Trời, và hậu quả là nhân cách của con người cũng bị méo mó, hư hỏng. Vì vậy vi phạm luật đạo đức của Chúa là một tội trọng trước mặt Ngài. Luật đạo đức được thể hiện trong ba hình thức.

a. Trong mười điều răn: Trong thời Cựu Ước, luật đạo đức đã đi vào lịch sử của dân Y-sơ-ra-ên. Qua sự kiện Đức Chúa Trời ghi tạc trên bảng đá mười điều răn tại núi Si-nai và trao cho Môi-se truyền dạy dân sự Ngài (Xuất 24:12).

b. Trong Kinh Thánh: Chữ “luật pháp” thường được dùng chỉ về Ngũ Kinh Môi-se, tức là năm sách ghi chép mười điều răn và các mạng lịnh Đức Chúa Trời phán dạy qua Môi-se (Ma-thi-ơ 7:12; Lu-ca 16:16). Tuy nhiên chữ “luật pháp” cũng được dùng chỉ về cả bộ Kinh Thánh hay Lời Đức Chúa Trời. Và Lời Ngài chính là luật đạo đức, vì căn cứ theo Kinh Thánh mà người ta bị xét đoán (Hê-bơ-rơ 4:12-13; Rô 3:19-20).

c. Trong lương tri của con người.

Luật đạo đức của Đức Chúa Trời chẳng những được ghi khắc trên đá, được ghi chép trong Kinh Thánh, nhưng còn được ghi tạc trong lương tri của con người. Bằng chứng cho thấy dầu không có luật pháp bằng văn tự, nhưng trong con người vốn có bản tánh đạo đức của Chúa nên có thể phân biệt điều phải, điều trái. Ý tưởng họ khi thì cáo trách, khi thì bênh vực và lương tâm chính là chứng nhân cho luật pháp đặt trong họ (Rô-ma 2:12-16).

d. Trong cõi thiên nhiên: Thần tánh Đức Chúa Trời chẳng những được khải thị trong Kinh Thánh, nhưng còn được bày tỏ trong cõi thiên nhiên. Con người có thể nhận biết bản tánh thánh thiện, thấy rõ luật công lý “gieo gặt” của Ngài trong thiên nhiên (Rô-ma 1:20).

2. Luật ân điển.

Gọi là “Ân điển” vì luật nầy căn cứ trên công lao cứu chuộc của Đấng Christ. Bởi ân điển và đức tin mà người ta được sự tha tội, được cứu khỏi sự phán xét của Chúa, và được nhận vào sự sống đời đời. Luật ân điển bao gồm hai khía cạnh:

a. Với người tin: Luật ân điển là vầng đá của sự cứu rỗi.

b. Với người chẳng tin: Người chẳng tin tức là người chối bỏ ân điển của Tin Lành, thì luật ân điển sẽ là vầng đá của sự đoán phạt (Giăng 5:24; Rô-ma 8:1; Ma-thi-ơ 21:44; 2Côr 2:15-16). Căn cứ theo đó mà Đấng Christ sẽ xét đoán con người trong tương lai.

Tóm lại, hai thứ luật pháp kể trên cho thấy sự phán xét của Đức Chúa Trời được đặt trên những nguyên tắc căn bản sau đây:

Với những người có luật pháp, hay nói chung là có Kinh Thánh, thì bởi đó mà bị đoán xét.

Với những người không có luật pháp, thì bởi lương tri và sự tỏ ra của Ngài trong cõi thiên nhiên mà bị xét đoán.

Với người ở dưới ân điển cứu rỗi, thì bởi thái độ của họ tin nhận hay chối bỏ mà bị đoán xét.

Kinh Thánh thường nhắc đi nhắc lại rằng Đức Chúa Trời sẽ đoán xét mọi người “tùy theo công việc họ làm” lúc còn trong xác thịt (Rô-ma 2:6; Khải 20:13; 2Côr 5:10; Giăng 5:28-29). Điều này không có nghĩa nhờ việc lành mà chúng ta được cứu khỏi sự đoán phạt của Chúa. Nhưng “việc mình làm” ở đây có thể được hiểu trong hai điểm nầy: (1) Nhấn mạnh trách nhiệm cá nhân, nghĩa là mỗi người đều chịu trách nhiệm về việc mình làm (Ê-xê 18:4). (2) Việc làm bên ngoài là sự chứng nghiệm thực giả bên trong, và căn cứ theo đó Đức Chúa Trời định giá thưởng phạt. Thật ra, Đức Chúa Trời đoán xét từ cớ tích sâu thẳm trong lòng con người, và từ đó nẩy ra lời nói và hành động. Hành động hay việc làm bên ngoài chỉ là “trái” chứng tỏ chân tướng bên trong của con người. Vì trái tốt ra từ cây tốt và trái xấu ra từ cây xấu (Ma-thi-ơ 7:16-20; 1Côr 4:5).

Qua những nguyên tắc trên, chúng ta có thể tìm thấy vài tính chất đặc biệt trong sự phán xét của Đức Chúa Trời:

(1) Cá nhân (Rô-ma 14:12): Mỗi người phải khai trình việc mình làm trước mặt Chúa.

(2) Phổ quát: Mọi người đều phải ứng hầu trước tòa án của Chúa (Rô-ma 14:10-12).

(3) Công bình: Tiêu chuẩn đoán xét của Chúa không ai có thể đối nại. Vì Đức Chúa Trời là Đấng toàn tri thấu biết tận đáy lòng người, nên không ai có thể binh vực mình. Vì Đức Chúa Trời là Đấng thẩm định nghiêm minh, thưởng phạt cách đầy đủ và tương xứng nên không có sự khiếu nại. Do đó đến thì giờ phán xét của Ngài đã định, khi cửa ân điển đã đóng, trước sự phán xét của Ngài, loài người chỉ biết cúi đầu nhận tội mà không cần có luật sư nào để biện hộ, cũng không có lời nào binh vực (Rô-ma 3:19-20; 2:11).

C. THỨ TỰ VÀ KẾT CUỘC TRONG SỰ ĐOÁN XÉT.

1. Đấng đoán xét.

Chúa Giê-xu là Đấng xét đoán (Giăng 5:22).

2. Chương trình xét đoán.

a. Sự xét đoán Hội Thánh.

Thời điểm xảy ra là khi Chúa hiện đến và Hội Thánh được cất lên gặp Ngài tại không trung. Hội Thánh sẽ chịu sự xét đoán của Đấng Christ (1Tês 4:17; 2Côr 5:10). Trong nguyên văn Hy-lạp từ “ngôi xét đoán” hay “tòa án” của Đấng Christ, có hai chữ: (1) Crierion, chỉ về chiếc ghế quan tòa ngồi để xét đoán theo một tiêu chuẩn đã định. (2) Bema, chỉ một nơi cao có nhiều bậc, tiêu biểu cho pháp đình. Theo Harrison, trong các cuộc tranh giải thể thao của người Hy-lạp xưa, vị chủ toạ ngồi ở chỗ gọi là “bema” để ban thưởng cho người thắng cuộc. Ý nầy được Phao-lô dùng trong phương diện thuộc linh. Trong 1Cô-rinh-tô 9:24, sứ đồ Phao-lô khuyên các tín hữu, hãy “chạy” thế nào cho được thưởng. Như vậy mục đích của sự xét đoán Hội Thánh là để ban thưởng cho người có lòng trung tín với Chúa trong thế gian, chớ không phải để đoán phạt họ trong hồ lửa (2Tim 4:6-8). Các việc làm của các con cái Chúa sẽ được Chúa định giá và ban thưởng hay quở trách. Công việc nào đặt nền tảng trên Đấng Christ, tức là việc làm theo ý muốn Đức Chúa Trời, được ví sánh như vàng, bạc, bửu thạch sẽ còn lại sau ngọn lửa thử nghiệm, chỉ về sự đoán xét và được ban thưởng. Trái lại việc làm của người vì cớ tích của xác thịt, của ý riêng, thì ví như rơm rạ, sẽ bị cháy rụi trước ngọn lửa thử nghiệm. Như vậy họ sẽ bị mất phần thưởng (1Côr 3:11-15).

Có năm loại mão triều thiên mà Kinh Thánh nói đến dành cho ngày ban thưởng: Mão Triều Thiên Không Hay Hư Nát (1Côr 9:25); Mão Triều Thiên Của Sự Công Bình (2Tim 4:8); Mão Triều Thiên Của Sự Sống (Khải 2:10); Mão Triều Thiên Của Sự Vinh Hiển (1Phi 5:4); Mão Triều Thiên Bằng Vàng (Khải 4:4).

b. Sự xét đoán các nước (Ma-thi-ơ 25:21-46): Theo các nhà giải kinh, sự phán xét nầy bao gồm sự phán xét dân Do Thái và các dân ngoại, và trong sự phán xét nầy có sự tham dự của 12 sứ đồ (Lu-ca 22:30). Sự phán xét nầy xảy ra sau khi Đấng Christ từ trời hiện xuống. Mục đích của sự phán xét là để phân chia giữa “chiên”“dê”, tức giữa người tin và người chẳng tin. Người tin sẽ được vào hưởng phước trong nước ngàn năm bình an với Chúa, còn người ác sẽ bị đoán phạt đời đời.

c. Sự phán xét thiên sứ ác và sa-tan.

Kinh Thánh nói đến sự bỏ sa-tan vào địa ngục trong thời đại Thiên hi niên, trước ngày phán xét cuối cùng của thế giới (Khải 20:7-10). Kết cuộc là hồ lửa đời đời cho chúng.

d. Sự phán xét sau cùng (Khải 20:11-15).

Sự phán xét này xảy ra sau thời đại ngàn năm bình an, dành cho tất cả người chẳng tin từ đời A-đam. Họ sống lại để chịu phán xét. Kết cuộc là sự đoán phạt trong hồ lửa, tức là sự chết thứ hai.

Tóm lược.

1. Sự phán xét của Đức Chúa Trời là cần thiết, vì sự công nghĩa Ngài được bày tỏ đúng mức, đúng lúc, và công lao cứu chuộc của Đấng Christ phải được tôn vinh.

2. Sự phán xét của Chúa căn cứ trên luật đạo đức và luật ân điển. Tính chất của sự phán xét là: Cá nhân, phổ quát và công bình.

3. Mục đích của sự phán xét là thưởng người công bình, phạt người ác, Đấng đoán xét là Đức Chúa Giê-xu Christ.

4. Sự phán xét bao gồm: Hội Thánh, các dân tộc, thiên sứ ác, Sa-tan, và cuối cùng là cả nhân loại, tức người chẳng tin.

II. CÂU HỎI SUY GẪM VÀ ỨNG DỤNG.

1. Trong những câu Kinh Thánh sau đây xin tìm ba lý do tại sao cần có sự phán xét? Hê-bơ-rơ 9:27; 1Cô-rinh-tô 4:5, Rô-ma 2:5-6, 2Tê-sa-lô-ni-ca 1:6,10.

2. Sự phán xét của Đức Chúa Trời có ý nghĩa và mục đích gì? (Xin xem thêm 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:24-25; Lu-ca 12:2, 8-9; 2Côr 5:10; Khải 20:12).

3. Sự đoán xét của Chúa được đặt trên những nguyên tắc nào? Và có nghĩa gì? Rô-ma 2:6-8,12; Rô-ma 2:12-13; 3:19; Rô-ma 2:14-15; Giăng 3:36; 5:24.

4. Những nguyên tắc trên được đặt trên hai tiêu chuẩn hay hai luật nào? Và được áp dụng cho những ai?

5. Qua những nguyên tắc trên, xin tìm hiểu tính chất của sự đoán xét (Rô-ma 2:6,11; 14:10,12; Ma-thi-ơ 12:36).

6. Xin đọc những câu Kinh Thánh sau đây và tìm hiểu: 1Côr 3:11-15; 2Côr 5:10; 1Tê-sa-lô-ni-ca 4:17; Ma-thi-ơ 25:21.

a. Cuộc đoán xét nầy dành cho ai?

b. Khi nào? Tại sao? Do ai phán xét?

c. Sự đoán xét được đặt trên tiêu chuẩn gì?

d. Với mục đích gì? Kết cuộc thế nào?

e. Xin kể tên những mão miện của sự ban thưởng: 1Côr 9:25; 2Tim 4:8; Khải 2:10;4:4; 1Phi 5:4.

7. Ma-thi-ơ 25:31-46: Sự đoán xét nầy dành cho ai? Khi nào? Do ai đoán xét? Và với mục đích gì?

8. 2Phi 2:4; Giu-đe 6; 1Côr 6:3; Khải 20:10: Sự đoán xét nầy dành cho ai? Khi nào? Và kết cuộc như thế nào?

8. Khải 20:11-15: Sự đoán xét nầy dành cho ai? Khi nào? Do ai đoán xét? Và kết cuộc là gì?

9. Qua sự ghi nhận trên:

a. Xin so sánh sự khác nhau giữa sự đoán xét người tin và người không tin.

b. Theo tiêu chuẩn xét đoán, chúng ta học biết gì về Đức Chúa Trời và sự công nghĩa của Ngài?

10. Các công việc bạn đang làm sẽ được Chúa định giá thế nào trong sự xét đoán của Ngài? Được thưởng hay bị Chúa quở trách?