Tác giả: Mai Hdenayun

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in THIẾU NHI on 19 Tháng Mười Một, 2024

BÀI 11. TRÁI THÁNH LINH TRONG ĐỜI SỐNG HAO-LÔ

I. KINH THÁNH: 2 Cô-rinh-tô 6:3-10.

II. CÂU GỐC: “Đừng để người ta khinh con vì trẻ tuổi, nhưng phải lấy lời nói, cách cư xử, lòng yêu thương, đức tin và sự trong sạch mà làm gương cho các tín hữu.”(1Ti-mô-thê 4:12).

III. BÀI TẬP.

  1. Lời biện hộ của Phao-lô.

   Em viết ra lời chỉ trích của một vài người trong Hội Thánh Cô-rinh-tô đối với Phao-lô, cách giải thích, lời biện hộ của ông và ông đánh giá mình như thế nào?

  1. Thất bại và thành công.

   Trong lời biện hộ của Phao-lô, em tìm ra:

  1. Ông đã gặp phải chuyện gì mà một số người cho là ông đã thất bại? (Viết vào chỗ có )
  2. Ông có những đặc tính nào của trái Thánh Linh? (Viết vào chỗ có )

   * Những khổ nạn xảy đến cho Phao-lô không thể là tiêu chuẩn để đánh giá ông, mà sự đánh giá ông thuộc về Đức Chúa Trời. Điều quan trọng là đời sống ông đẹp lòng Đức Chúa Trời, và nẩy nở bông trái Thánh Linh.

  1. Em làm gương sáng.

Trong 4 phạm vi dưới đây, em ghi ra làm thế nào để em có thể làm gương sáng cho những người ở đó.

   Chúa Jêsus yêu dấu!

   Con sẵn lòng học theo cách cư xử của Phao-lô, cầu xin Ngài giúp con có tình yêu thương đối xử với mọi người cách hòa thuận, chân thành, hiền lành… Xin Ngài giúp con có thể làm gương sáng cho mọi người xung quanh. Con cầu nguyện, nhân danh Chúa Jêsus, A-men!

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in THIẾU NHI on 19 Tháng Mười Một, 2024

BÀI 11. TRÁI THÁNH LINH TRONG ĐỜI SỐNG PHAO-LÔ

I. KINH THÁNH: 2 Cô-rinh-tô 6:3-10.

II. CÂU GỐC: “Đừng để người ta khinh con vì trẻ tuổi, nhưng phải lấy lời nói, cách cư xử, lòng yêu thương, đức tin và sự trong sạch mà làm gương cho các tín hữu.”(1Ti-mô-thê 4:12).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

   – Biết: Phao-lô vâng phục Đức Thánh Linh trong lời nói việc làm, và đời sống được kết trái Thánh Linh.

   – Cảm nhận: Đời sống kết trái Thánh Linh sẽ làm gương và làm chứng về Chúa cho người khác.

   – Hành động: Bày tỏ đời sống có trái Thánh Linh trong Hội Thánh, gia đình, trường học, quan hệ bạn bè, để làm gương tốt cho mọi người.

IV. GIÁO VIÊN SUY GẪM.

   Vào khoảng năm 50 S.C, Phao-lô đến thành phố Cô-rinh-tô. Thành phố nầy đầy dẫy những miếu thờ tà thần, đạo đức xuống thấp. Lúc đó, Phao-lô cộng tác với hai vợ chồng A-qui-la cùng lo công việc Chúa và thành lập Hội Thánh Cô-rinh-tô. Ông hầu việc Chúa tại đó hơn một năm rưỡi. Sau đó bị vu cáo và công kích, nên ông rời khỏi đó.

   Sau khi Phao-lô đi khỏi, Hội Thánh có sự lộn xộn. Các tín đồ chia bè kết đảng, hành vi bại hoại…Phao-lô đã viết một bức thư cho Hội Thánh Cô-rinh-tô nhưng tình trạng vẫn không thay đổi. Thế là ông đích thân đến giải quyết, nhưng kết quả là đôi bên đều không vui.

  1. Trong thư 1Cô-rinh-tô, Phao-lô từng xử lý một anh em trong Hội Thánh Cô-rinh-tô dâm loạn cùng mẹ kế mình. Có lẽ sau nầy, người nầy cùng với vài người nữa trả thù, công kích chức vụ sứ đồ của Phao-lô.
  2. Phao-lô hứa là sẽ đến thăm Hội Thánh Cô-rinh-tô, nhưng ông chưa thực hiện. Những người chống đối ông nói rằng, ông không đáng tin. Họ còn nói Phao-lô quyên góp tiền cứu trợ cho những tín đồ nghèo ở Giê-ru-sa-lem để bỏ túi riêng nữa.

   Phao-lô viết một lá thư khác cho Hội Thánh Cô-rinh-tô và nhờ Tít đem đi. Sau đó, Tít trở về đem theo tin tức các tín đồ đã ăn năn. Trong sự vui mừng, Phao-lô viết thư 2Cô-rinh-tô, giải thích nguyên nhân thay đổi hành trình, bênh vực chức vụ sứ đồ của mình, đồng thời đưa ra lời khuyên bảo các tín đồ.

   Phao-lô khuyên Hội Thánh Cô-rinh-tô phải trở lại hòa thuận với Đức Chúa Trời, dạy bảo họ đừng nhận lãnh ân điển của Chúa một cách vô ích, mà phải đáp ứng ngay, vì “hiện nay là thì thuận tiện” (2Cô-rinh-tô 6:2). Tiếp đến là nội dung khuyên bảo, cũng chính là phân đoạn Kinh Thánh của bài này (2Cô-rinh-tô 6:3 10). Qua phân đoạn Kinh Thánh nầy, chúng ta thấy Phao-lô trung thành phục vụ Chúa, trau dồi những phẩm chất mà một tôi tớ Đức Chúa Trời phải có. Phối hợp với tư liệu bối cảnh, chúng ta có thể biết trái Thánh Linh được nẩy nở trong đời sống của Phao-lô.

   – Tình Yêu Thương: Phao-lô không nuông chiều tín đồ Cô-rinh-tô. Ông dùng lời lẽ nghiêm khắc khiển trách họ. Tuy nhiên, Phao-lô rất yêu thương họ. Ông luôn lấy tình yêu thương của Chúa để dạy bảo họ, đặc biệt là khi Hội Thánh có vấn đề, ông lập tức viết thư và đến thăm. Điều đó thể hiện tình yêu thương trong đời sống một cách cụ thể nhất (“lòng yêu thương thật tình”, câu 6).

   – Sự vui mừng: Phao-lô cũngcó lúc buồn rầu, nhưng buồn rầu không làmcho ông tuyệt vọng. Ngược lại, ông có cách chiến thắng sự buồn rầu. Đó là ông đặt lòng tin nơi Chúa để được vui mừng. “Ngó như buồn rầu, mà thường được vui mừng” (câu 10).

   – Hòa thuận: Chức vụ của Phao-lô là khuyên mọi người trở lại hoà thuận với Đức Chúa Trời, hầu hưởng được ân điển và sự bình an của Ngài. Ngoài ra, ông còn chủ động hòa thuận với các tín hữu Cô-rinh-tô bằng cách viết thư và đến thăm họ.

   – Nhịn nhục: Phao-lô từng bị một số tín hữu Cô-rinh-tô đối xử lạnh nhạt, nhưng ông không nản lòng từ bỏ, mà nhịn nhục chịu đựng sự đối đãi không tốt của người khác. Trong khi đi khắp nơi rao truyền Tin Lành, ông đã chịu đựng mọi thứ hoạn nạn (nhịn nhục, câu 4).

   – Nhân từ: Phao-lô không gây cớ vấp phạm cho người khác. Từ đó, chúng ta có thể thấy được, ông luôn mong muốn người khác được phước, được ích lợi (chẳng làm cho ai vấp phạm, câu 3).

   – Hiền lành: Vì cớ lòng nhân từ nên Phao-lô có những hành động rất hiền lành như: Viết thư khuyên bảo họ phải hòa thuận với Đức Chúa Trời, cải thiện mối quan hệ với nhau…

   – Trung tín: Phao-lô nói với các tín hữu Cô-rinh-tô rằng, ông lấy lòng chân thành, thật thà để đến với họ, hoàn toàn không có động cơ ích kỷ (là kẻ thật thà, câu 9).

   – Khiêm nhu: Sự khuyên bảo của Phao-lô đối với Hội Thánh Cô-rinh-tô hình dung như là người cha nói chuyện với con cái  (2Cô-rinh-tô 6:13).

   – Tiết độ: Phao-lô hạn chế bản thân, từ bỏ cuộc sống thoải mái để rao truyền Tin Lành (câu 3-6).

V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

   *Trò chơi: VU OAN NGƯỜI TỐT.

  1. Chuẩn bị: Vài cái đồ chơi, chọn 2 hoặc 3 em làm “nhân viên bảo vệ”.
  2. Mục đích: Cho các em có cảm nhận và phản ứng như thế nào khi bị người khác vu cáo.
  3. Thực hiện: Chia các em làm 3 hạng người: Nhân viên bảo vệ, nhóm người bình thường, nhóm người đặc biệt. Các em không biết mình ở trong nhóm người nào, chỉ có giáo viên và nhân viên bảo vệ biết mà thôi.

   – Giáo viên mời các em ở hai nhóm chơi đồ chơi đã chuẩn bị sẵn, và cho các em biết là nhân viên bảo vệ sẽ có trách nhiệm giữ trật tự. Nếu ai vi phạm quy tắc thì nhân viên bảo vệ sẽ tịch thu đồ chơi.

   – Nhân viên bảo vệ (theo sự sắp đặt trước của giáo viên) vô cớ chỉ trích nhóm “người bình thường”, cho rằng nhóm nầy đã vi phạm quy tắc. Sau đó tịch thu đồ chơi, trong khi đó “nhóm đặc biệt” không bị như vậy (giáo viên chú ý sự cảm nhận và phản ứng của các em).

   – Sau khi chơi, nói cho các em biết: “Nhóm bình thường” dù giữ quy tắc như thế nào cũng bị cho là phạm quy. Hỏi các em: “Khi bị người khác vu cáo, các em cảm thấy thế nào? Làm thế nào để nhân viên bảo vệ hiểu? Có cách giải quyết nào tích cực không?

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

   Các em thân mến! Khi các embị người khác vu cáo, các em cảm thấy buồn, đôi khi tức giận nữa phải không? Sứ đồ Phao-lô cũng từng bị các tín đồ Hội Thánh Cô-rinh-tô vu cáo. Chúng ta xem ông có phản ứng như thế nào nhé!

  1. Bài học.

   Phao-lô là người đã thành lập Hội Thánh Cô-rinh-tô. Một năm rưỡi sau, ông phải rời khỏi đó vì bị các tín hữu Cô-rinh-tô vu cáo. Một thời gian sau, ông lại nghe trong Hội Thánh xuất hiện sự gian dâm, luông tuồng, tham lam, thờ hình tượng, chia rẽ…Ông liền viết thưc cho Hội Thánh Cô-rinh-tô, dạy họ cách xử lý và vạch kế hoạch trong thời gian sớm nhất sẽ đến với họ.

   Không ngờ, khi Phao-lô đích thân đến giải quyết thì không những họ không nghe, mà còn công kích, chống đối, chỉ trích Phao-lô là kẻ giả dối, không phải là sứ đồ, lấy tiền quyên góp cho các tín hữu nghèo tại Giê-ru-sa-lem để bỏ túi riêng…Nếu ở trong trường hợp của Phao-lô, các em cảm thấy thế nào? Và phản ứng ra sao? (Cho các em nói ra cảm nghĩ của mình).

   Trước tình hình đó, Phao-lô có phản ứng như thế nào? Ông có trái Thánh Linh trong đời sống như điều ông đã dạy trong Ga-la-ti 5:22 không? Chúng ta xem (2 Cô-rinh-tô 6:3-10) nhé! (Cho các em mở Kinh Thánh và đọc phân đoạn nầy).

   – Câu 3 “Chúng tôi không làm cớ vấp phạm cho ai, để chức vụ mình không bị chỉ trích”. Phao-lô nói ông cố gắng trong lời nói, hành vi không gây cớ vấp phạm cho người khác, không làm hòn đá vấp chân khiến họ không nhận lãnh được phước hạnh từ Đức Chúa Trời. Ông luôn quan tâm đến lợi ích của người khác, muốn người khác được phước. Qua đó, các em có thể nêu đặc tính trái Thánh Linh trong đời sống Phao-lô là gì? (Yêu thương, nhân từ).

   – Câu 4-5  “Nhưng trong mọi sự, chúng tôi chứng tỏ mình là đầy tớ của Đức Chúa Trời: rất mực kiên trì trong hoạn nạn, gian khổ, tai ương, đòn vọt, tù đày, loạn lạc, nhọc nhằn, mất ngủ, nhịn đói”. Mới đọc chúng ta thấy dường như Phao-lô đang “khoe” về công lao của mình vậy. Nhưng thực ra, Phao-lô đang khoe sự yếu đuối của mình để quyền phép của Đức Chúa Trời được tỏ ra một cách toàn vẹn nơi ông, và cũng bày tỏ ông là tôi tớ Đức Chúa Trời. Ông kể ra 10 điều mà ông đã trải qua (cho các em kể ra). Dù gặp rất nhiều khó khăn như bị đánh đập, ngồi tù, thiếu thốn, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng, nhưng Phao-lô vẫn trung tín với sứ mạng giảng Tin Lành mà Chúa Jêsus đã giao phó. Ông từ bỏ cuộc sống thoải mái, kiêng ăn, tỉnh thức để việc rao truyền Tin Lành được đẩy mạnh. Qua đó, các em có thể nêu ra 2 đặc tính trái Thánh Linh trong đời sống của Phao-lô không? (Trung tín, tiết độ).

   – Câu 6-7 “trong sự thanh sạch, tri thức, nhẫn nhục, nhân từ, trong Đức Thánh Linh, trong tình yêu thương chân thành, trong lời nói chân thật, và trong quyền năng của Đức Chúa Trời; cầm vũ khí công chính trong cả tay phải lẫn tay trái; ”. Ông muốn làm những việc đẹp lòng Đức Chúa Trời, nên giữ lòng thanh sạch, nói lời chân thật và dùng hành động để bày tỏ tình yêu của Đức Chúa Trời. Ngoài ra, ông cũng khoan dung, nhẫn nhục với các tín hữu Cô-rinh-tô khi họ vu cáo ông. Những phẩm đức tốt đẹp nầy chỉ xuất phát từ Đức ThánhLinh. Các em có thể nêu ra đặc tính của trái Thánh Linh trong đời sống của Phao-lô là gì không? (Yêu thương, nhịn nhục).

   – Câu 9-10, “Bị xem như những kẻ xa lạ, nhưng lại được mọi người biết đến; bị xem như gần chết, nhưng thật chúng tôi vẫn sống; xem như bị hình phạt, nhưng không bị giết chết; xem như buồn bã, nhưng luôn vui mừng; xem như nghèo thiếu, nhưng lại làm cho nhiều người giàu có; xem như không có gì, nhưng lại có tất cả.” Một số tín hữu Cô-rinh-tô chỉ trích chức vụ sứ đồ của Phao-lô. Họ nhìn bên ngoài để đánh giá, nhưng Phao-lô không để ý đến sự đánh giá của người khác, mà chỉ để ý đến người khác có đượclợi ích của Tin Lành hay không mà thôi. Cho nên trong câu 9-10, các em thấy những từ ngữ nào được lặp đi lặp lại nhiều lần? (Ngó như… nhưng mà…). “Ngó như…”, Phao-lô muốn chỉ cách nhìn của vài người nào đó đối với ông, “nhưng mà…” sự thật thì ngược lại.

   Ví dụ “Ngó như kẻ phỉnh dỗ, nhưng là kẻ thật thà”. Một số tín hữu Cô-rinh-tô cho rằng Phao-lô là kẻ giả dối, nhưng Phao-lô nói ông thật thà làm tôi tớ của Đấng Christ. “Ngó như kẻ xa lạ, nhưng là kẻ (ĐứcChúaTrời) quen biết lắm”. Những người chống đối Phao-lô không nhận tư cách sứ đồ của ông, nhưng Đức Chúa Trời hoàn toàn biết ông. Ông tin chắc vào sự kêu gọi của Ngài: “Gần chết…vẫn sống, bị sửa phạt…không đến chịu chết, buồn rầu…thường được vui mừng, nghèo ngặt…làm cho nhiều người được giàu có, không có gì cả…có đủ mọi thứ”. Những điều nầy mới là sự đánh giá đúng đắn nhất về chức vụ của ông. Qua đó, các em có thể nêu ra những đặc tính trái Thánh Linh trong đời sống của Phao-lô là gì? (Vui mừng, bình an, hiền lành…).

   (Sau đó, hướng dẫn các em thực hiện bài tập phần 1 “Lời biện hộ của Phao-lô” và phần 2 “Thất bại và thành công”. Đáp án phần 1: Chịu sự chỉ trích: Kẻ giả dối, lấy tiền quyên góp để bỏ túi riêng, không phải là sứ đồ. Cách giải thích: Viết thư. Biện hộ: Giữ mình không gây cớ vấp phạm cho người khác; chịu khổ, nhịn nhục như là tôi tớ của Đức Chúa Trời, thành thật phục vụ Chúa và anh em…Đánh giá bản thân: Tôi tớ của Chúa, chỉ có Chúa mới đánh giá ông một cách chính xác nhất. Phần 2: Cho các em viết ra trước, sau đó cùng nhau thảo luận. Đáp án: Giáo viên tham khảo trong phần “Giáo viên suy gẫm”).

  1. Ứng dụng.

   – Cho các em đọc câu gốc, sau đó hỏi các em: “Trong Hội Thánh, gia đình, trường học, trong vòng bạn bè, ai là tấm gương cho em? Vì sao?”

   – Cho các em làm bài tập phần 3 “Em làm gương sáng”. Sau đó khích lệ các em chia sẻ và thực hiện trong tuần nầy.

   – Cầu nguyện kết thúc: Xin Chúa cho các em có trái Thánh Linh trong đời sống để làm gương sáng cho người khác, và làm vinh hiển danh Chúa.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 18 Tháng Mười Một, 2024

BÀI 13. XÂY DỰNG ĐỀN TẠM

  (BÀI ÔN)                                    

 

I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô Ký 35,36,39,40.

II. CÂU GỐC: “Con sẽ hát bài ca chúc tụng danh Đức Chúa Trời; Lấy sự cảm tạ mà tôn cao Ngài.” (Thi thiên 69:30).III. BÀI TẬP.

III. CÙNG SUY NGHĨ.

Em xem hình và trả lời các câu hỏi.

  1. Dân chúng cảm thấy thế nào khi dâng các lễ vật để dựng đền tạm?

………………………………………………………………………………………………

  1. Theo em, việc gì sẽ xảy ra nếu họ không muốn dâng các lễ vật?

………………………………………………………………………………………………

  1. Môi-se có bắt buộc dân chúng phải dâng lễ vật không?

………………………………………………………………………………………………

  1. Tại sao dân chúng dâng nhiều lễ vật đáng quí như vậy?

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

  1. NGƯỜI TỐT VIỆC TỐT.

Em xem hình dưới đây và cho biết các bạn trong hình đã làm gì để tỏ lòng yêu thương Chúa?

 

Còn em, em có thể làm gì để tỏ lòng yêu mến Chúa? Hãy viết vào đường kẻ dưới đây.

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

PHỤ LỤC RỐI QUE

(Áp dụng trong bài 5 của phần “Sinh Hoạt Đầu Giờ”).

  1. Vật liệu: Giấy cứng, que tre, viết mực đen, keo dán, băng keo.
  2. Cách làm.

– Vẽ mắt, mũi, miệng lên giấy cứng.

– Cắt khuôn mặt ra rồi dán lên tấm bìa khác, lại cắt ra tạo thành khuôn mặt hai lớp giấy cứng.

– Lấy hồ, dán khuôn mặt đó lên đầu que tre.

– Viết tên ba anh em Giô-sép lên một miếng giấy nhỏ, rồi dán lên que tre (như hình dưới).

– Sử dụng những con rối que này để kể chuyện về anh em Giô-sép.

Ý KIẾN CỦA EM

Hy vọng em thích những bài học vừa qua. Bây giờ em cho biết ý kiến của mình.

 

Họ tên của em:…………………………………………………..

Sinh ngày……………..tháng …………….năm………………

Lớp: ………………………………………………………………..

Địa chỉ: ……………………………………………………………

Tên Hội Thánh của em: ………………………………………

Ai dẫn em đến Hội Thánh?

 Cha mẹ         Bạn bè          Hàng xóm   Người thân.

Trong các nhân vật trong Kinh Thánh mà em đã học, em thích ai nhất?

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

Em thích giờ nào nhất trong buổi học?

 Câu gốc        Viết bài        Vẽ hình        Đọc bài  

 Xem hình     Hỏi đáp        Đóng kịch. 

Viết ra một câu gốc mà em đã học.

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..

 

Trong lớp học, em thích điều gì nhất?

 Trò chuyện với thầy cô giáo  Quen bạn mới

 Cầu nguyện              Nghe kể chuyện

 Hát thánh ca             Làm bài tập.

Trong các phần “Sinh Hoạt Đầu Giờ”, em thích hoạt động nào nhất?

 Làm con rối bằng giấy         Làm thủ công           Ghép hình  

 Xếp chữ       Chơi trò chơi            Lắng nghe

 Hoạt động khác:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 18 Tháng Mười Một, 2024

BÀI 13.                 XÂY DỰNG ĐỀN TẠM

                                        (BÀI ÔN)

 

I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô Ký 35:4-35; 36:1-7; 39:27-43; 40:17-38.

II. CÂU GỐC: “Con sẽ hát bài ca chúc tụng danh Đức Chúa Trời; Lấy sự cảm tạ mà tôn cao Ngài.” (Thi Thiên 69:30).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                        

– Biết: Môi-se và dân sự xây dựng đền tạm đẹp đẽ để thờ phượng Đức Chúa Trời.

– Cảm nhận: Vui mừng vì được thờ phượng Chúa trong đền thờ cùng với các bạn.

– Hành động: Cùng hợp sức làm công việc Chúa và thờ phượng Ngài.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Trò chơi “Hỏi đáp”.

  1. Mục đích: Giúp các em ôn lại những điều đã học trong Kinh Thánh.
  2. Vật liệu: Nhiều tờ giấy (7x12cm), viết lông.
  3. Thực hiện.

– Giáo viên ghi ra một số câu hỏi căn cứ theo những câu chuyện Kinh Thánh đã kể trong quí lên các tờ giấy để các em trả lời. (Ví dụ: Vì sao gia đình của Môi-se phải đem giấu Môi-se? Em ghi ra một trong mười điều răn). Nếu các em trả lời sai, giáo viên cần đính chính lại. Giúp các em nhớ đúng mọi việc xảy ra trong cuộc đời của Gia-cốp, Giô-sép, Môi-se.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

Sau khi Môi-se truyền mười điều răn cho dân sự, ông nhắc họ phải luôn luôn học tập, sống xứng đáng là tuyển dân của Chúa. Họ cần phải dựng đền tạm để có nơi nhóm lại thờ phượng Đức Chúa Trời, dù họ đang trên đường tiến đến đất hứa, và thường phải ở trong những căn lều.

  1. Bài học.

Một hôm, Môi-se triệu tập dân chúng lại và thông báo: “Đức Chúa Trời mong muốn mỗi chúng ta dâng hiến lễ vật để thực hiện một việc quan trọng”. Dân chúng ngạc nhiên, lắng nghe xem việc gì? Môi-se nói tiếp: “Chúng ta sẽ dựng một lều trại thật đẹp để thờ phượng Đức Chúa Trời, gọi đó là đền tạm. Muốn vậy, cần có vàng, bạc, vải, các loại hương liệu, gỗ, châu ngọc và những thứ khác. Nếu ai có lòng thành, hãy dâng những gì mình có”. Môi-se nói thêm: “Ngoài ra, còn cần sự giúp đỡ của những người biết may để may các tấm vải làm đền tạm, những người biết nghề thợ mộc, thêu, dệt vải và làm đồ vàng, đồ bạc”.

Mọi người đều trở về lều của mình xem lại hành trang có vật gì quí để dâng hiến. Chẳng bao lâu sau, họ đã lũ lượt đem đến cho Môi-se nào là vàng, đồ trang sức và đủ các thứ (giáo viên để các vật như vàng, bạc, áo… lên bàn), nhiều đến nỗi Môi-se phải tuyên bố: “Đừng mang lễ vật đến nữa, chúng ta có đủ rồi”.

Đức Chúa Trời chỉ dạy Môi-se cách thức dựng đền tạm, bao gồm cả kích thước, vật liệu, thậm chí màu sắc nữa. Môi-se hướng dẫn dân Hê-bơ-rơ làm theo ý Chúa. Họ bắt tay vào công việc một cách phấn khởi.

(Cho các em xem hình đền tạm trong khi kể chuyện). Những người giỏi về nghề thợ mộc thì lo xẻ gỗ. Những người thợ bạc thì dùng những đồ trang sức làm nên những vật dụng cần thiết như thau hoặc chân đèn bằng vàng, bạc. Các phụ nữ khéo tay thì dệt các loại chỉ màu xanh, tím, đỏ, tạo ra những tấm vải để dựng hội mạc.

Dân chúng chỉ dẫn nhau để có nhiều người góp sức dựng đền tạm. Môi-se hướng dẫn công việc để đền tạm hoàn tất theo ý của Đức Chúa Trời. Ai nấy đều hân hoan, họ hết lòng làm từng phần của công việc.

Khi mọi việc đã chuẩn bị xong, những người nam dựng những cây cột có bọc vàng và treo các tấm vải đẹp lên, rồi phủ bên ngoài một lớp da thú để tránh ánh nắng gay gắt của mặt trời và mưa thấm vào trong. Tất cả đồ dùng đều để đúng nơi thích hợp. Chung quanh đền tạm là một hành lang vây quanh. Bàn dâng của lễ đặt ở giữa, mọi thứ đều chuẩn bị tươm tất. Đền tạm đã được hoàn tất. Nơi thờ phượng Đức Chúa Trời thật đẹp biết bao!

Bỗng một đám mây sà xuống bao phủ đền tạm. Mọi người biết Đức Chúa Trời đẹp ý với công việc của họ. Đây sẽ là nơi họ trò chuyện với Đức Chúa Trời.

Dân chúng thường xuyên đem lễ vật đến dâng để ca ngợi và cảm tạ Đức Chúa Trời trong suốt mười hai ngày. Họ phấn khởi vì được trở thành dân của Đức Chúa Trời. Họ vui mừng vì có nơi để thờ phượng Ngài.

  1. Ứng dụng.

Cho các em mở sách học viên bài 13, dùng các câu hỏi trong phần “Cùng suy nghĩ”. Giúp các em ôn lại bài học.

Nói với các em: “Sau khi Môi-se và dân sự dựng xong đền tạm, họ đem lễ vật dâng cho Đức Chúa Trời và ca hát để tỏ lòng vui mừng và kính yêu Ngài. Họ cùng nhau làm việc, cùng nhau thờ phượng Đức Chúa Trời”.

Hướng dẫn các em xem hình. Hỏi các em: Các bạn trong hình bày tỏ tình yêu thương đối với Đức Chúa Trời  như thế nào? (Học tập, làm bài tập, học câu gốc…) Còn các em, các em làm gì trong Hội thánh để tỏ lòng yêu thương Đức Chúa Trời?

Mời một em đọc lớn tiếng câu gốc, sau đó hỏi: “Khi các em dùng tiếng hát để ca ngợi Đức Chúa Trời thì Ngài có vui không? Em ca ngợi Chúa bằng cách nào khác nữa? (Kể cho bạn bè và người thân những việc Đức Chúa Trời đã làm, cầu nguyện, học câu gốc…) Sau khi các em viết xong cách thờ phượng và ca ngợi Chúa, thì mời các em đọc câu gốc.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 18 Tháng Mười Một, 2024

BÀI 12. MƯỜI ĐIỀU RĂN

 

I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô 19:1-20; 20:1-17; 24:12.

II. CÂU GỐC: Vì tôi, thân tuy xa cách, nhưng tâm linh thì ở đó. Tôi đã lên án kẻ làm điều ấy, như thể tôi đang có mặt tại đó.(1Giăng 5:3).

III. BÀI TẬP.

A. CÙNG SUY NGHĨ.

Em xem hình và trả lời các câu hỏi.

  1. Theo em, tại sao Đức Chúa Trời muốn Môi-se dạy dân chúng phải vâng theo các điều răn?

…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

  1. Theo em, tại sao dân chúng đồng ý vâng theo các điều răn của Đức Chúa Trời?

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

       3. Em chọn một điều răn và nói tại sao em tuân theo điều răn đó?

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

 

B. NGƯỜI TỐT VIỆC TỐT

Các bạn trong hình đều vâng giữ điều răn của Chúa, em cho biết mỗi bạn vâng theo điều răn nào? (Viết lên đường kẻ).

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 18 Tháng Mười Một, 2024

BÀI 12. MƯỜI ĐIỀU RĂN

 

I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô 19:1-20, 20:1-17, 24:12.

II. CÂU GỐC:Vì tôi, thân tuy xa cách, nhưng tâm linh thì ở đó. Tôi đã lên án kẻ làm điều ấy, như thể tôi đang có mặt tại đó. (1Giăng 5:3).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Môi-se dạy dân Hê-bơ-rơ vâng theo các điều răn của Đức Chúa Trời.

– Cảm nhận: Vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời là yêu mến Ngài.

– Hành động: Em quyết tâm vâng giữ các điều răn của Chúa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

            * Vâng giữ điều răn.

  1. Mục đích: Giúp các em biết vâng giữ điều răn của Chúa.
  2. Vật liệu: Một tờ giấy lớn, viết chì.
  3. Thực hiện: Trước giờ học, giáo viên ghi mười điều răn lên tờ giấy và hai bên ghi hai cột: “Nên làm” và “Không nên làm”.

* Mời các em đọc 10 điều răn. Sau đó, cho các em tự quyết định “Nên làm” hay “Không nên” và đánh dấu “v” vào đó. Giáo viên đặt một số câu hỏi: Điều răn này quan trọng không? Tại sao? Điều răn nào khó thực hiện nhất? Điều răn nào dễ? Có cách nào giúp các em vâng giữ đúng điều răn của Chúa không?

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

   Bất cứ nơi nào cũng có những qui định, luật lệ. Ở trường, học sinh phải tuân theo nội qui, mỗi nước đều có luật pháp và dân chúng không được bất tuân. Chúa cũng đã ban bảng luật pháp cho dân Ngài. Đó là Mười Điều Răn. Hôm nay các em cùng học nha.    

  1. Bài học.

   Môi-se và người Hê-bơ-rơ tiếp tục băng qua đồng vắng để đến xứ mà Đức Chúa Trời hứa ban cho họ. Một hôm, họ đi đến núi Si-nai là nơi trước đây Môi-se thấy bụi gai cháy. Dân Hê-bơ-rơ dừng lại dựng trại ở chân núi, còn Môi-se lên núi cầu nguyện.

Khi Môi-se từ trên núi xuống, ông mời các trưởng lão đến và nhắc lại sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời đối với họ. Môi-se nói: “Đức Chúa Trời có kế hoạch đặc biệt cho chúng ta. Ngài đã lựa chọn chúng ta làm tuyển dân của Ngài. chúng ta phải vâng theo những điều Ngài phán dạy”. Người  Hê-bơ-rơ phấn khởi kêu to: “Chúng tôi xin làm theo mọi điều Chúa dạy bảo”.

Môi-se lại lên núi cầu nguyện. Một lúc sau, Môi-se trở xuống, nói với dân Hê-bơ-rơ rằng: “Trong ba ngày nữa, Đức Chúa Trời sẽ phán dạy chúng ta. Đây là dịp quan trọng, ai cũng phải mặc quần áo cho sạch sẽ và giữ mình thánh sạch”.

Mọi người vâng lời Môi-se. Họ dọn dẹp lều trại và giữ mình thánh sạch. Đến sáng ngày thứ ba, chớp nhoáng, sấm sét nổi lên, tiếng kèn thổi vang động làm cho mọi nguời run sợ. Môi-se hướng dẫn dân sự tập trung nơi chân núi. Khắp núi Si-nai bốc khói, mặt đất rung động dữ dội. Môi-se leo lên núi rồi dần dần mất hút trong làn khói trắng dày đặc. Sấm chớp càng mãnh liệt hơn, dân chúng biết Đức Chúa Trời đang phán dạy Môi-se trên núi.

(Giáo viên đặt bảng 10 điều răn lên bàn để các em nhìn rõ). Cuối cùng, Môi-se xuống núi. Mọi người yên lặng lắng nghe Môi-se thuật lại lời dạy của Đức Chúa Trời. Môi-se nói với họ: “Đây là mười đều răn của Đức Chúa Trời:

* Thứ nhất, Ta là Đức Chúa Trời duy nhất, không được thờ các thần khác.

* Không làm hình tượng, cũng không quì lạy hình tượng.

* Chỉ được nhắc đến danh Ta trong khi thờ phượng, chớ lấy danh Ta ra đùa giỡn”.

Mọi người đều chú ý lắng nghe như nuốt từng lời. Môi-se nói tiếp: “Đức Chúa Trời phán:

* Hãy làm hết công việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy phải nghỉ ngơi để thờ phượng Ta.

* Phải hiếu kính cha mẹ ngươi. Nếu các ngươi làm được như vậy, sẽ hưởng được sự vui vẻ và sống lâu.

* Không được giết người.

* Không được phạm tội tà dâm.

* Không được trộm cướp.

* Không được nói dối.

* Không được tham đồ đạc của người khác”.

Mười điều răn nầy được Đức Chúa Trời viết lên bảng đá. Dân Hê-bơ-rơ biết Đức Chúa Trời muốn họ vâng giữ các điều răn. Nếu họ vâng giữ thì Đức Chúa Trời sẽ chăm lo cho họ. Vì vậy dân chúng đồng thanh hứa: “Chúng tôi sẽ vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời”.

  1. Ứng dụng.

Kinh Thánh cho biết vì sao chúng ta vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời? (Vì chúng ta yêu thương Ngài). Hướng dẫn các em đọc câu gốc. Sau đó mỗi em trả lời cho giáo viên biết.

Hướng dẫn các em tìm hiểu ý nghĩa các hình vẽ. Hỏi các em những người trong hình vâng theo điều răn nào của Đức Chúa Trời? Cho các em ghi câu trả lời kế bên hình vẽ.

Sau khi các em làm xong, hỏi các em: Em còn nghĩ ra cách nào khác để vâng giữ điều răn của Chúa không? Vì sao em vâng giữ điều răn của Đức Chúa Trời? Hãy cầu nguyện xin Chúa giúp các em vâng giữ điều răn của Ngài.

Mời một em cầu nguyện tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta các điều răn.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 18 Tháng Mười Một, 2024

BÀI 11.      ĐỨC CHÚA TRỜI CHĂM SÓC DÂN NGÀI

 

I. KINH THÁNH: Xuất 15:22-25; 16:1-3, 11-15; 17:1-6.

II. CÂU GỐC: “Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va vì Ngài là thiện; lòng nhân từ Ngài còn đến đời đời.” (Thi thiên 136:1).

III. BÀI TẬP.

  A. CÙNG SUY NGHĨ.

Em xem hình và trả lời các câu hỏi.

1.Tại sao người Hê-bơ-rơ than vãn, trách móc?

……………………………………………………………………………………………………….

  1. Theo em, Môi-se cảm thấy thế nào khi thấy họ kêu than?

……………………………………………………………………………………………………….

     3. Tại sao Đức Chúa Trời ban cho họ những thứ cần thiết?

……………………………………………………………………………………………………………….

      4. Nếu người Hê-bơ-rơ biết cảm ơn Chúa, thì sự việc sẽ thế nào?

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

 

B. AI TINH MẮT.

Em quan sát bức tranh dưới đây sẽ thấy những thức ăn ngon ơi là ngon và những bộ quần áo thật đẹp. Nào hãy bắt đầu quan sát nhé!

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 18 Tháng Mười Một, 2024

BÀI 11. ĐỨC CHÚA TRỜI CHĂM SÓC

                                       DÂN NGÀI

 

I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô 15:22-25; 16:1-3,11-15, 31; 17:1-6.

II. CÂU GỐC: “Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va vì Ngài là thiện; lòng nhân từ Ngài còn đến đời đời.” (Thi thiên 136:1).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Đức Chúa Trời ban thức ăn và nước uống cho người Hê-bơ-rơ.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời luôn chăm sóc các em. Ngài dùng nhiều cách để đáp ứng các nhu cầu của các em.

– Hành động: Cảm tạ Chúa vì Ngài ban cho các em mọi sự cần dùng.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

  * Đức Chúa Trời cung cấp.

  1. Mục đích: Để các em biết Đức Chúa Trời đã cung cấp cho mình mọi thứ.
  2. Vật liệu: Một tờ giấy bìa lớn, cắt những hình vẽ về thực phẩm, quần áo, nhà cửa trong sách báo cũ, kéo, keo.
  3. Thực hiện.

– Giáo viên viết tựa đề lên tờ bìa lớn: “Đức Chúa Trời cung cấp”.

  Nói với các em: Đức Chúa Trời hứa ban mọi thứ cho chúng ta dùng. Những tấm hình nầy cho thấy một số điều mà Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta. Cho mỗi em chọn một hình rồi dán lên tờ bìa.

Trong khi các em dán, hỏi các em lý do khiến các em chọn tấm hình đó và cho các em biết nhu cầu và ước muốn khác nhau như thế nào. 

Sau đó hỏi các em: Đức Chúa Trời đáp ứng những nhu cầu cho các em, các em phải làm gì? Hướng dẫn các em đọc câu gốc và cầu nguyện.   

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

Hằng ngày các em được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của ba mẹ, các em có vui không? Các em biết không, Chúa cũng yêu thương các em vô cùng. Ngài biết mọi điều chúng ta cần và Ngài luôn đáp ứng đúng lúc.

  1. Bài học.

(Vừa kể vừa cho các em xem mô hình căn lều của  người Hê-bơ-rơ). Môi-se và người Hê-bơ-rơ thoát khỏi xứ Ai-cập an toàn. Họ băng qua biển lớn, và đang tiến đến vùng đất tươi đẹp mà Đức Chúa Trời hứa ban cho họ. Trước hết, họ phải đi qua đồng vắng, nơi đó không có nhà cửa, không có nước, chỉ có nắng nóng và cát đá mà thôi.

Họ đi trong đồng vắng đã ba ngày, không có nước uống. Họ khát khô cổ, càng lúc càng khát. Không chịu nổi nữa, họ kêu la rên rỉ: “Nước!” Nhưng trong sa mạc làm gì có nước uống. Đến lúc họ kiếm được nước thì nước bị đắng, uống không được. Họ bắt đầu lằm bằm, oán trách Môi-se. Họ quên những việc Đức Chúa Trời đã giúp họ, nhưng Môi-se thì không bao giờ quên.

(Giáo viên thả cành cây vào thau nước). Môi-se cầu nguyện, Đức Chúa Trời dạy ông chặt một cành cây thả xuống nước. Môi-se vâng lời, và thật kỳ diệu! Nước hóa ra ngọt. Dân chúng uống thỏa thích. Họ cảm thấy khỏe khoắn và vui vẻ trở lại.

Nhưng vài tuần sau, họ lại lằm bằm, oán trách, vì đã cạn thức ăn đem theo từ Ai-câp. Họ không thể tìm được thức ăn trong sa mạc. Người Hê-bơ-rơ lại oán trách Môi-se: “Ông dẫn chúng tôi đến đây làm chi? Chúng tôi muốn trở về Ai-cập. Ở đó tuy phải làm khổ cực, nhưng còn có thức ăn; còn ở sa mạc nầy, chắc chúng tôi sẽ chết đói”.

Môi-se lại cầu nguyện. Đức Chúa Trời chỉ cho ông cách giải quyết. Môi-se tập trung người Hê-bơ-rơ lại và nói: “Chiều nay, mọi người sẽ thấy Đức Chúa Trời, Đấng đã dẫn chúng ta ra khỏi Ai-cập là thật. Ngài luôn chăm sóc chúng ta và ban cho chúng ta mọi sự cần dùng”.

Đến chiều tối, người Hê-bơ-rơ đang chờ đợi, bỗng từ đâu không biết, hàng ngàn hàng vạn con chim cút bay đến rợp cả bầu trời (cho các em xem hình chim cút). Chúng bao phủ và đậu trên trại của người Hê-bơ-rơ. Thế là người Hê-bơ-rơ có thịt ăn dư dật.

(Cho các em xem thức ăn màu trắng). Sáng hôm sau, khi dân Hê-bơ-rơ ra khỏi trại, họ thấy trên mặt đất có vật gì nhỏ, tròn, màu trắng như hạt sương. Họ hỏi nhau: “Cái gì thế nhỉ?” Môi-se giải thích: “Đó là thức ăn Đức Chúa Trời ban cho chúng ta”. Họ nếm thử, thấy thức ăn đó ngon, ngọt như bánh mật ong. Họ gọi đó là ma-na. Mỗi sáng, người Hê-bơ-rơ đi lượm ma-na đủ dùng cho gia đình trong ngày hôm đó. Bây giờ họ lại vui vẻ, nhưng không phải lúc nào họ cũng vui vẻ như vậy.

            Người Hê-bơ-rơ tiếp tục cuộc hành trình tiến về đất hứa. Một lần nữa họ không có nước uống và họ lại oán trách Môi-se. Họ không nhớ Đức Chúa Trời đã từng ban thức ăn, nước uống cho họ. Họ chỉ biết họ đang khát. Họ không ngừng trách móc Môi-se. Môi-se nói: “Sao các ngươi cứ oán trách mãi? Đến bao giờ các ngươi mới tin vào sự chăm sóc của Đức Chúa Trời?” Người Hê-bơ-rơ vẫn tiếp tục lằm bằm: “Chắc ông muốn chúng tôi chết. Ở Ai-cập chúng tôi luôn có đủ nước uống”.

Môi-se cầu nguyện với Chúa: “Đức Chúa Trời ôi, con phải làm gì?” Đức Chúa Trời chỉ cho Môi-se biết phải làm thế nào. Môi-se dẫn dân sự đến gần một hòn đá lớn, tay cầm gậy, ông đập vào hòn đá (giáo viên diễn tả theo hành động của Môi-se, lấy gậy đập vào hòn đá). Lạ thay, một dòng nước từ hòn đá phun ra! Thế là mọi người đều có nước uống. Họ mừng rỡ vô cùng!

Tuy người Hê-bơ-rơ luôn oán trách, nhưng Đức Chúa Trời luôn ở cùng và chăm sóc cho họ. Đức Chúa Trời muốn mọi người luôn tin cậy nơi Ngài.

  1. Ứng dụng.

– Hướng dẫn các em mở tập học viên bài 11. Dùng các câu hỏi trong mục “Cùng suy nghĩ” để ôn lại bài học.

– Giáo viên nói với các em: Các em biết Đức Chúa Trời đã cung cấp thức ăn cho các em như thế nào? Các em có thể chia sẻ lại cho các bạn cùng nghe.

– Hướng dẫn các em tìm xem quần áo và thức ăn ở chỗ nào trong hình. Đánh dấu “X” vào những thứ em tìm ra. Đức Chúa Trời đã cung cấp cho chúng ta những gì? Nếu Ngài không cung cấp, chúng ta sẽ ra sao?

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp ẤU NHI (4-5 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp ẤU NHI (4-5 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in ẤU NHI on 18 Tháng Mười Một, 2024

BÀI 13.                             BÀI ÔN

 

I. KINH THÁNH: Tất cả các phần Kinh Thánh đã học.

II. CÂU GỐC: Chọn 3 câu gốc trong những câu gốc đã học cho các em thi.

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em nhớ lại những gì mình đã học.

IV. BÀI ÔN: Bạn có thể chọn một trong những cách sau đây:

  1. Dùng hình vẽ (nếu có) để gợi ý cho các em nhớ lại một nhân vật hay một câu chuyện các em đã học. Yêu cầu các em nói về nhân vật hay thuật lại câu chuyện đó.
  2. Dùng câu hỏi: Lấy từ mỗi bài học một câu hỏi. Khích lệ các em trả lời bằng kẹo hay bánh.

V. SINH HOẠT.

            * Trò chơi: SÂU RÓM BÒ THI.

            Chia các em làm hai đội, đứng hàng dọc trước NHD. Điểm đích cách điểm xuất phát 4m (nếu sân hẹp thì có thể cho đi vòng tròn). Em đứng đầu của hai đội cúi mình xuống, hai tay nắm lấy hai đầu gối. Các em phía sau đưa hai tay ôm bụng người trước mặt cho thật chặt. Khi nghe hiệu lịnh, hai đội cứ thế mà đi đến đích. Đội nào đi đến đích trước mà không đứt khúc là đội thắng.

VI. THỦ CÔNG.

– Bài tập số 13 đã làm sẵn.

– Cắt sẵn hình búp bê và chiếc áo.

– Bút chì màu.

* Cách thực hiện: Giáo viên cho các em xem bài tập đã làm sẵn, rồi cho các em dán hình búp bê và chiếc áo vào đúng vị trí của bài tập số 13 của tập học viên. Cho các em tô màu.