Latest News From Our Blog

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG DÀNH CHO BAN PHỤ NỮ. CHÚA NHẬT 10.04.2022

CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG DÀNH CHO BAN PHỤ NỮ. CHÚA NHẬT 10.04.2022

By H'Dên in PHỤ NỮ on 4 Tháng Tư, 2022

Chúa nhật 10.4.2022

  1. Đề tài: CHÚA VÀO THÀNH GIÊ-RU-SA-LEM
  2. Kinh Thánh: Lu-ca 19:29-44.
  3. Câu gốc: “Chúc tụng Vua nhân danh Chúa mà đến! Bình an ở trên trời, và vinh quang trên nơi chí cao!”(Lu-ca 19:38 – BHĐ).
  4. Đố Kinh Thánh: 2Sử ký 1-3.
  5. Thể loại: Thuyết trình.

* CHỈ DẪN: Xin xem thuyết trình CN 23.01.2022.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Tuần nầy là tuần lễ cuối cùng Chúa thi hành chức vụ trên đất. Ngày thứ nhất: Chúa vào thành Giê-ru-sa-lem; Ngày Thứ Năm: Chúa bị bắt tại vườn Ghết-sê-ma-nê; Ngày Thứ sáu: Chúa bị giải đến Phi-lát và Phi-lát truyền lịnh đóng đinh Chúa trên thập tự giá.

  1. GIẢI NGHĨA.

Ngày kỷ niệm Đức Chúa Giê-xu vào thành Giê-ru-sa-lem được Giáo hội Công giáo La-mã gọi là Lễ Lá. Chúa vào thành một cách khải hoàn. Sự kiện này khởi đầu tuần lễ thánh, là tuần lễ kỷ niệm Chúa chịu thương khó, đóng đinh trên cây thập tự và sau đó, Ngài đã phục sinh.

Trong niên lịch Cơ đốc giáo, Chúa nhật kỷ niệm Đức Chúa Giê-xu vào thành Giê-ru-sa-lem được tổ chức một tuần trước Lễ Phục sinh. Vì Lễ Phục Sinh được kỷ niệm vào Chúa nhật trăng tròn đầu tiên sau ngày xuân phân (21/3), do đó lễ Phục sinh có thể xảy ra trong khoảng thời gian giữa hai ngày 22/3 và 25/4 Dương lịch; và vì thế Chúa nhật Lễ Lá nằm trong khoảng thời gian giữa ngày 15/3 đến ngày 18/4 Dương lịch.

  1. Ý NGHĨA.
  2. Con lừa.

Sự kiện Đức Chúa Giê-xu vào thành Giê-ru-sa-lem một cách khải hoàn được cả bốn sách Phúc Âm ghi lại. Các sách Phúc Âm đã tường thuật như sau: Khi đến gần Bết-pha-giê và Bê-tha-ni, bên cạnh núi gọi là Ô-liu, Đức Chúa Giê-xu sai hai môn đồ đi và dặn: “Hãy đi vào làng đối diện. Khi vào làng, các con sẽ thấy một lừa con buộc ở đó chưa hề có ai cưỡi. Hãy mở nó ra và dắt về đây. Nếu có ai hỏi: ‘Tại sao các anh mở nó ra?’ các con cứ đáp: ‘Chúa cần nó.’… Đang khi họ mở lừa con, thì những người chủ nói với họ: “Sao các anh mở lừa con nầy ra?” Họ nói: “Chúa cần nó” (Lu-ca 19:29-31; 33-34 – BHĐ).

Việc nầy xảy ra để ứng nghiệm lời đấng tiên tri đã nói trước rằng: Hỡi con gái Si-ôn, hãy hết sức vui mừng! Hỡi con gái Giê-ru-sa-lem, hãy reo hò mừng vui! Nầy, Vua ngươi đến với ngươi; Ngài là Đấng Công Chính và ban sự cứu rỗi, khiêm tốn và cưỡi lừa, một con lừa con, là con của lừa cái(Xa-cha-ri 9:9 – BHĐ).

Mọi điều sau đó đã xảy ra đúng như lời Đức Chúa Giê-xu đã phán cùng các môn đồ: Hai người được sai đi gặp mọi điều đúng như Chúa đã phán. Đang khi họ mở lừa con, thì những người chủ nói với họ: “Sao các anh mở lừa con nầy ra?” 3Họ nói: “Chúa cần nó.” Rồi họ dắt lừa về cho Đức Chúa Giê-xu, lấy áo mình trải trên lưng lừa con và nâng Ngài lên cưỡi(Lu-ca 19:32-35 – BHĐ).

Tác giả các sách Phúc Âm đã tường thuật Đức Chúa Giê-xu cỡi lừa vào thành Giê-ru-sa-lem. Trong văn hóa vùng Trung đông, lừa là con vật biểu tượng cho hòa bình và ngựa là biểu tượng cho chiến tranh. Ngày xưa, khi thắng trận, các vua thường cỡi ngựa vào thành để bày tỏ uy quyền của một kẻ chinh phục. Trong khi đó, việc Đức Chúa Giê-xu cỡi lừa vào thành thể hiện một hình ảnh hoàn toàn tương phản: Chúa không phải là kẻ chinh phục bằng bạo lực, nhưng Ngài là một Đấng Yêu Thương, là Đấng mang lại hòa bình. Đức Chúa Giê-xu không chỉ dùng biểu tượng cỡi lừa bày tỏ mục đích Ngài đem bình an cho Giê-ru-sa-lem, nhưng Chúa đã nói rõ mục đích này lúc Ngài vào thành: Ước gì, ngay hôm nay, ngươi biết được những điều làm cho ngươi bình an! Nhưng bây giờ những điều ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi(Lu-ca 19:42 – BHĐ).

Trong niềm tin Cơ đốc, hình ảnh con lừa tơ đôi khi được dùng làm biểu tượng cho một người đã hiến trọn cuộc đời cho Chúa sử dụng. Con lừa khi có Chúa ở cùng đã bước đi giữa những tiếng tung hô. Một người hầu việc Chúa cần có Chúa ở cùng; và khi Chúa được tôn vinh, người đó được cùng hưởng vinh quang với Ngài.

  1. Trải thảm.

Đức Chúa Giê-xu đi đến đâu, người ta trải áo choàng của mình ra trên đường đến đó. Khi Ngài đến gần và sắp sửa xuống núi Ô-li-ve, cả đoàn môn đồ Ngài bắt đầu lớn tiếng ca ngợi Ðức Chúa Trời cách vui mừng về những việc quyền năng mà họ đã chứng kiến. Họ tung hô rằng: Chúc tụng Vua nhân danh Chúa mà đến! Bình an ở trên trời, và vinh quang trên nơi chí cao!(Lu-ca 19:38 – BHĐ).

Trong văn hóa của nhiều quốc gia, khi tiếp rước một nhân vật quan trọng, để bày tỏ lòng tôn kính, lối đi của nhân vật đó thường được trải thảm. Khi Chúa vào thành Giê-ru-sa-lem, dân chúng trong lúc vội vàng đã trải áo lót đường cho Chúa đi qua: Khi Đức Chúa Giê-xu cưỡi lừa đi, có nhiều người trải áo trên đường(Lu-ca 19:36 – BHĐ).

Bên cạnh việc bày tỏ lòng tôn kính, hành động trải áo và trải lá lót đường cho Chúa cũng thể hiện tinh thần đầu phục. Vào thế kỷ thứ nhất, nô lệ là vật sở hữu của chủ. Thời đó nô lệ thường không mặc áo. Hành động cởi áo trải xuống đường để Chúa đi qua, thể hiện thái độ khiêm cung và tấm lòng đầu phục Chúa của người thực hiện điều này.

  1. Nhánh chà là.

Tin Ðức Chúa Giê-xu đang trên đường vào thành Giê-ru-sa-lem loan khắp thành phố, đám đông về dự lễ, lấy nhánh chà là đi ra đón Ngài và tung hô rằng: Hô-sa-na! Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến, là Vua của Y-sơ-ra-ên(Giăng 12:13 – BHĐ). Có vài người Pha-ri-si trong đám đông nói với Chúa: Có mấy người Pha-ri-si ở trong đoàn dân đông nói với Ngài: “Thưa Thầy, xin quở trách các môn đồ Thầy! (Lu-ca 19:39 – BHĐ). Chúa đã thẳng thắn đáp lời rằng: Ta bảo các ngươi, nếu họ nín lặng thì đá sẽ kêu lên(Lu-ca 19:40 – BHĐ).

Trong văn hóa Hy-lạp và La-mã, lá cọ là biểu tượng của chiến thắng. Vì chiến thắng là kết thúc chiến tranh, khởi đầu cho hòa bình, cho nên lá cọ cũng là biểu tượng cho sự hòa bình. Trong nghi thức tôn giáo của Ai-cập, lá cọ được dùng trong tang lễ và biểu tượng cho sự sống vĩnh cữu. Dân cư Giê-ru-sa-lem dùng lá cọ tung hô Chúa; với hành động này, họ vừa tiếp đón Chúa như một Đấng khải hoàn, Đấng đem lại hòa bình và đồng thời họ cũng tiễn đưa Chúa vào cõi đời đời. Trong Khải huyền 7:9, sứ đồ Giăng mô tả một đoàn người rất đông, là những người đã được Chúa cứu, mặc áo trắng tay cầm lá cọ tôn ngợi Đức Chúa Trời và Chiên Con trên thiên đàng. Trong lĩnh vực chính trị, khi một tiểu vương chấp nhận đầu phục một vị vua, tiểu vương đem mão miện và cờ hiệu của mình đặt dưới chân của vị vua đó. Lúc Chúa vào thành Giê-ru-sa-lem, đoàn dân dùng lá làm cờ, và họ đem đặt biểu tượng vinh quang đó dưới chân Chúa.

Một phương diện khác về lịch sử, chúng ta thấy rằng nước Do-thái lúc đó đang bị đế quốc La-mã đô hộ. Họ phải làm lụng vất vả để nộp thuế cho hoàng đế La-mã là Sê-sa. Dân tộc Do-thái vốn là một tuyển dân của Ðức Chúa Trời. Họ phạm tội với Chúa. Chúa quở trách họ. Nhưng bởi tình yêu, Ngài hứa Ngài sẽ ban cho họ Ðấng Mê-si cứu rỗi họ. Ngài sẽ sanh ra ở Bết-lê-hem. Cựu Ước ghi rằng: Hỡi Bết-lê-hem Ép-ra-ta, ngươi ở trong hàng nghìn Giu-đa là nhỏ lắm, nhưng từ nơi ngươi, một Đấng cai trị trên Y-sơ-ra-ên sẽ được sinh ra; nguồn gốc của Ngài từ đời xưa, từ trước vô cùng (Mi-chê 5:1 – BHĐ).

Chúa Giê-xu đã sanh ra ở Bết-lê-hem, khi lớn lên, Chúa Giê-xu đã làm nhiều dấu kỳ phép lạ, nên họ nhận ra rằng đúng Chúa Giê-xu là Ðấng Mê-si giải cứu họ. Cho nên đã có lần “họ ép Ngài để tôn làm vua” nhưng Chúa không bằng lòng (Giăng 6:15). Bây giờ Chúa công khai vào thủ đô Giê-ru-sa-lem. Dân chúng vui mừng nghĩ rằng đây là lúc Chúa sẽ tuyên bố làm vua, nên họ tôn vinh Ngài: Chúc tụng Vua nhân danh Chúa mà đến! (Lu-ca 19:38 – BHĐ).

Dân Y-sơ-ra-ên tin rằng Chúa Giê-xu sẽ giải cứu họ khỏi ách đô hộ của người La-mã và làm vua của họ. Chúng ta nên lưu ý là người Do-thái mong Chúa làm vua không phải vì yêu Chúa, nhưng chỉ vì họ có lợi. Họ nghĩ rằng nếu được Chúa Giê-xu làm vua thì họ sẽ có vị vua có quyền phép hóa bánh cho họ ăn, chữa bịnh cho họ lành.

Người Do-thái mong Chúa làm vua họ sẽ được tự chủ, họ có quyền tự do, thoát khỏi cái nhục làm nô lệ cho ngoại bang là Đế quốc La-mã. Về phương diện ngoại giao, nếu Chúa Giê-xu là người Do-thái làm vua của họ, họ sẽ được ngang hàng với các nước lân bang và có quyền tự quyết. Về phương diện kinh tế, tài chánh, họ tự định đoạt chính sách kinh tế, tài chánh, thuế khóa, và nhất là khỏi phải đóng thuế cho ngoại bang là Đế quốc La-mã.

Họ tin tưởng vì Chúa đã từng hóa bánh cho năm, bảy ngàn người ăn no nê; Chúa từng quở sóng gió yên lặng; Chúa gọi La-xa-rơ từ kẻ chết sống lại. Bây giờ Chúa vào thủ đô xưng vua, dù bọn lính La-mã có đến chống lại, Chúa chỉ cần phán một lời là chúng ngã rạp hết. Họ tin có lý! Nhưng họ thất vọng. Khi một đám đệ tử các thầy tế lễ thượng phẩm đến bắt Ðức Chúa Giê-xu, có một môn đồ của Ngài rút kiếm ra chém đứt tai bên hữu một tên giặc thù. Chúa không những không khen người môn đồ nầy, mà Ngài còn quở trách ông nầy rằng: “Hãy nạp gươm vào vỏ” (Ma-thi-ơ 26:52 – BHĐ). Rồi Ngài chữa lành tai cho kẻ đến bắt Ngài.  Ngài không chống cự gì cả, Ngài để tự nhiên họ bắt, trói rồi dẫn đi. Lúc đó: Tất cả môn đồ đều bỏ Ngài chạy trốn(Ma-thi-ơ 26:56 – BHĐ).

Không những Đức Chúa Giê-xu không chống cự mà Ngài còn chịu cho kẻ thì đánh Ngài, kẻ thì nhổ vào mặt Ngài, kẻ thì tát vào má Ngài, kẻ thì phỉ báng Ngài, Ngài vẫn yên lặng chịu tất cả sự nhục nhã. Tuy vậy, dân Y-sơ-ra-ên vẫn mong Ðấng mà họ tôn vinh: Hô-sa-na! Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến sẽ bày tỏ quyền năng vào giờ chót. Nhưng họ hoàn toàn thất vọng vào giờ chót, họ nghe Chúa Giê-xu trả lời với Phi-lát rằng: Vương quốc của Ta không thuộc về thế gian nầy” (Giăng 18:36 – BHĐ). Vậy là mộng Chúa làm vua, được độc lập tự do khỏi tay đế quốc La-mã của họ tiêu tan!

Và khi thất vọng thì thái độ của dân Do-thái như thế nào? Thật là đau đớn khi đọc câu Kinh Thánh nầy: Phi-lát nói với những người Do-thái rằng: “Đây là vua của các ngươi!” Họ gào lên: “Hãy trừ nó đi, trừ nó đi! Đóng đinh nó trên cây thập tự!” (Giăng 19:14-15 – BHĐ). Họ không biết rằng Chúa Giê-xu sẽ đáp cùng Phi-lát rằng: Vương quốc của Ta không thuộc về thế gian nầy có nghĩa rằng nghĩa là vương quốc của Ngài không giống như một quốc gia nào trên đất cả. Vì quốc gia trên đất có biên cương. Còn vương quốc của Chúa không có biên cương. Vương quốc của Chúa ở trong lòng của con dân của Ngài. Con dân Ngài thì ở khắp mọi nơi, và hơn nữa, vương quốc Ngài ở Thiên đàng, thuộc về trời chớ không phải thuộc về đất.

  1. Chúa khóc.

Khi đến gần và nhìn thấy thành phố, Chúa khóc về thành rằng: Ước gì, ngay hôm nay, ngươi biết được những điều làm cho ngươi bình an! Nhưng bây giờ những điều ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ có ngày, ngươi sẽ bị quân thù đắp lũy, bao vây và siết chặt bốn bề. Họ sẽ tiêu diệt ngươi và con cái ở giữa ngươi nữa. Họ sẽ không để cho hòn đá nầy chồng trên hòn đá kia, vì ngươi không biết thời điểm mình được thăm viếng(Lu-ca 19:42-44 – BHĐ). Lúc đầu các môn đồ Ngài không hiểu những điều đó; nhưng sau khi Đức Chúa Giê-xu đã được vinh hiển, lúc ấy họ nhớ ra rằng những điều đó đã được chép về Ngài, và được ứng nghiệm cho Ngài.

Đoàn người có mặt với Chúa lúc Ngài gọi La-xa-rơ ra khỏi phần mộ, và khiến ông sống lại từ cõi chết, đều làm chứng về Ngài; vì lý do đó, dân chúng lũ lượt kéo ra nghênh đón Chúa vì họ nghe nói Ngài đã thực hiện phép lạ ấy. Thấy vậy, những người Pha-ri-si nói với nhau: Các ông thấy không, các ông chẳng làm gì được cả. Hãy xem, cả thiên hạ đều theo ông ta(Giăng 12:19 – BHĐ).

Đức Chúa Giê-xu vào Giê-ru-sa-lem và đi vào đền thờ. Ngài đưa mắt nhìn quanh rồi cùng mười hai môn đồ trở ra Bê-tha-ni, vì lúc ấy trời đã gần tối.

Post CommentLeave a reply